Chương 5 Câu chuyện của người Ai Cập – Nghĩa cử
Người Hy Lạp sôi nổi mừng rỡ thốt lên những lời chúc tụng; sau đó người Ai Cập lên tiếng với vẻ đặc biệt nghiêm nghị:
“Tôi xin chúc phúc cho ngài, người anh em. Ngài đã phải chịu đựng nhiều khổ đau, và tôi rất sung sướng thấy ngài đã chiến thắng. Nếu hai ngài sẵn lòng nghe tôi, tôi sẽ kể mình là ai và được kêu gọi đến đây như thế nào. Hãy chờ tôi một lát.”
Ông đi ra ngoài chăm sóc cho mấy con lạc đà, sau đó trở lại và ngồi vào chỗ cũ.
“Những lời nói của các ngài, hỡi các đồng đạo, quả là đến từ linh hồn thiêng liêng,” ông nói; “và linh hồn đã giúp tôi hiểu được những lời đó. Các ngài đã nói về đất nước của mình, và cả mục tiêu cao cả mà tôi sẽ giải thích sau đây. Để giúp các ngài có thể hiểu được thấu đáo, trước tiên tôi sẽ nói về bản thân mình và dân tộc mình. Tôi là Balthasar người Ai Cập.”
Những từ cuối cùng được nói nhỏ, nhưng với vẻ vô cùng nghiêm trang đến độ cả hai người đang lắng nghe đều cúi mình.
“Có rất nhiều những thành tựu vĩ đại mà tôi có thể khẳng định thuộc về dân tộc mình,” ông nói tiếp, “nhưng tôi sẽ chỉ kể ra một mà thôi. Lịch sử đã bắt đầu từ chúng tôi. Chúng tôi là những người đầu tiên ghi chép để lưu giữ các sự kiện. Vì thế chúng tôi không ghi những truyền thuyết cổ; và thay vì thơ ca, chúng tôi lại đem tới cho loài người những hiểu biết chắc chắn. Bên ngoài các cung điện và đền thờ, trên những cột trụ, trên những bức tường bên trong những lăng mộ, chúng tôi viết tên của các vị vua và việc làm của họ; trên những cuộn giấy cói mỏng manh chúng tôi ghi lại chân lí của các triết gia và bí mật của tôn giáo – tất cả mọi bí mật ngoại trừ chỉ một mà tôi sẽ đề cập tới ngay sau đây. Xa xưa hơn kinh Vệ đà, Para-Brahm hay Up-Anga và Vyasa, hỡi Melchior; xa xưa hơn những trường ca của Homer hay lí thuyết siêu hình học của Plato, hỡi Gaspar; xa xưa hơn cả những cuốn sách thiêng liêng và những vị vua Trung Hoa, hay những ghi chép về Siddartha, con trai của Maya xinh đẹp; xa xưa hơn Khởi nguồn của Mosche đối với người Hebrew – cổ xưa nhất chính là những dòng chữ của Menes, vị vua đầu tiên của dân tộc tôi.” Dừng lại một chốc, ông trìu mến hướng đối mắt to nhìn sang người Hy Lạp và nói, “Đối với đất nước Hy Lạp non trẻ, hỡi Gaspar, ai là thầy của những người thầy nơi ấy?”
Người Hy Lạp cúi mình và mỉm cười.
“Dựa trên những ghi chép đó,” Balthasar nói tiếp, “chúng tôi biết rằng khi cha ông chúng tôi đến từ vùng viễn Đông, từ nơi khởi nguồn của ba dòng sông thiêng liêng, từ trung tâm của thế giới – nơi mà ngài vẫn gọi là đất Iran Cổ, hỡi Melchior mang theo họ lịch sử của cả thế gian trước trận Đại hồng thủy, và cả về bản thân trận Đại hồng thủy ấy, hệt như được truyền lại cho người Aryan bởi các con của Noah, họ giảng về Chúa, Đấng Sáng thế và khởi điểm của thế gian, và linh hồn bất tử giống như Thượng đế. Khi nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành, nếu các ngài lựa chọn đi cùng tôi, tôi sẽ cho các ngài xem thư viện thiêng liêng của các tu sĩ; và trong đó cả Cuốn sách của Cái chết ghi lại những nghi lễ mà linh hồn phải thực hiện sau khi Thần Chết đã đưa nó lên đường đến nơi phán xử. Những ý niệm – Chúa Trời và linh hồn bất tử – được Mizraim mang theo băng qua sa mạc, tới hai bên bờ của dòng sông Nile. Những ý niệm ấy khi đó vẫn còn ở dạng thuần khiết nhất, dễ hiểu nhất, đúng như ý muốn của Chúa Trời ban phát hạnh phúc cho loài người; cả bài thánh ca đầu tiên cũng như vậy – một bài hát và lời cầu nguyện rất tự nhiên dành cho linh hồn hạnh phúc, tràn đầy hy vọng, và tình yêu dành cho Đấng Sáng tạo.”
Tới đây người Hy Lạp giơ hai tay và thốt lên, “Ôi! Ánh sáng đang rực rỡ trong tôi!”
“Và trong tôi nữa!” người Hindu nói với vẻ nhiệt thành không thua kém.
Người Ai Cập nhìn họ bằng ánh mắt hiền hòa, rồi nói tiếp, “Tôn giáo chỉ là giới luật gắn con người với Đấng Sáng tạo mà thôi: ở dạng thuần khiết nhất nó chỉ có ba thành tố – Chúa Trời, linh hồn và sự kết giao; từ đó khi được áp dụng sinh ra Thờ Phụng, Tình Yêu, và Ban Thưởng. Giới luật này, giống như mọi giới luật có nguồn gốc thiêng liêng khác – thí dụ như quy luật gắn trái đất với mặt trời – đã được rèn giũa hoàn hảo ngay từ khi khởi thủy bởi Đấng Sáng thế. Hỡi những người anh em, đó chính là tôn giáo của gia đình đầu tiên; đó chính là tôn giáo của tổ tiên Mizraim của dân tộc tôi, người chắc chắn không thể mù lòa trước thể thức của sự sáng tạo, biểu hiện rõ ràng nhất trong đức tin đầu tiên và những nghi lễ thờ phụng sơ khai. Hoàn mỹ tức là Chúa; sự đơn giản chính là hoàn mỹ. Lời nguyền ghê gớm nhất là con người không thể để những sự thật như vậy được yên ổn.”
Ông ngừng lại, như thể ngẫm nghĩ xem nên nói tiếp như thế nào.
“Nhiều quốc gia từng yêu dòng nước ngọt ngào của sông Nile,” ông nói tiếp; “những người Ethiopia, Pali-Putra, người Hebrew, người Assyria, người Ba Tư, người Macedonia, người La Mã – tất cả bọn họ trừ người Hebrew đều đã có thời gian là bá chủ nơi ấy. Những con người đến và đi này đã làm vẩn đục đức tin của Mizraim cổ xưa. Thung lũng Cây cọ trở thành Thung lũng của các vị thần. Đấng Tối cao được chia làm tám vị, mỗi vị lại đại diện cho một nguyên tắc sáng tạo trong tự nhiên, với Ammon-Re đứng đầu. Sau đó người đời sáng tạo ra Isis và Osiris, cùng với các vị thần khác, đại diện cho nước, lửa, không khí, và các thế lực khác. Số lượng các vị thần cứ tăng lên mãi, cho tới khi sinh ra hẳn một nhóm các vị thần mới đại diện cho những tính chất của con người như sức mạnh, tri thức, tình yêu, vân vân.”
“Quả là sự ngu ngốc của con người từ tận xa xưa!” người Hy Lạp kêu lên, không kiềm chế nổi mình. “Chỉ có những thứ nằm ngoài tầm với của chúng ta mới được nguyên trạng mà thôi.”
Người Ai Cập cúi mình rồi tiếp tục:
“Tôi sẽ nói thêm một chút nữa, hỡi các đồng đạo, một chút nữa thôi trước khi đề cập đến bản thân mình. Thứ mà chúng ta lên đường tìm kiếm sẽ linh thiêng hơn hết thảy những gì đã hay đang tồn tại. Sử sách ghi rằng Mizraim đã tìm thấy sông Nile khi ấy dưới sự cai quản của người Ethiopia sống rải rác khắp sa mạc châu Phi; một dân tộc với trí tuệ thiên tài, dành cả cuộc đời thờ phụng thiên nhiên. Những người Ba Tư lãng mạn hiến tế cho mặt trời, coi đó là hình tượng hoàn hảo nhất của Ormuzd, Thượng đế của họ; những đứa trẻ phương Đông cung kính đẽo hình những vị thần của chúng từ gỗ và ngà voi; nhưng người Ethiopia, không có chữ viết, không có sách vở, không có bất kì công cụ nào, lại xoa dịu tâm hồn mình bằng sự thờ phụng động vật, chim chóc, và côn trùng, coi loài mèo là giống vật thiêng của Re, con bò mộng đại diện cho Isis, con bọ đại diện cho Pthah. Một cuộc chiến đấu lâu dài chống lại đức tin thô sơ của họ đã khiến một tôn giáo mới được áp đặt cho đế chế mới hình thành. Từ đó mọc lên những công trình vĩ đại nằm trên bờ sông, những cột trụ trên sa mạc, những mê cung, kim tự tháp, lăng mộ của những vị vua, lẫn lộn với mộ của những con cá sấu. Hỡi các đồng đạo, những người con của Aryan đã sa đọa đến nhường ấy!”
Tới đây, lần đầu tiên người Ai Cập không còn giữ nổi vẻ ngoài bình thản nữa; mặc dù gương mặt không để lộ cảm xúc, giọng nói ông đã thể hiện tất cả.
“Xin đừng khinh ghét dân tộc tôi,” ông lại cất lời. “Họ không quên mất Thượng đế đâu. Tôi đã nói lúc trước, mà các ngài hẳn còn nhớ, rằng chúng tôi đã ghi lại mọi bí mật tôn giáo trong những cuộn giấy cói, ngoại trừ một bí mật duy nhất mà tôi sẽ nói với các ngài ngay bây giờ. Chúng tôi từng sống dưới sự cai trị của một Pharaoh vốn mê mải những thay đổi và thêm thắt. Để áp đặt hệ thống mới, ông đã cố gắng loại bỏ hết những cái cũ ra khỏi tâm trí con người. Những người Hebrew khi ấy vẫn sống cùng chúng tôi như những nô lệ. Họ không chịu từ bỏ vị Chúa của tôn giáo mình; và khi đòn trừng phạt lên đến mức không thể chịu đựng được nữa, họ đã lên tiếng theo cái cách mà đời đời không ai có thể quên được. Những gì tôi nói đều dựa trên sử sách. Mosche, bản thân ông là một người Hebrew, đã đến cung điện của nhà vua và yêu cầu cho phép các nô lệ, hồi đó lên đến hàng triệu người, được phép rời khỏi đất nước. Lời thỉnh cầu này nhân danh Chúa của dân Israel. Pharaoh khước từ. Và các ngài hãy lắng nghe những điều xảy ra sau đó. Trước tiên, tất cả nước trong hồ và trên những dòng sông, trong những giếng đào và trong bình đựng, đều hóa thành máu. vị vua vẫn khăng khăng từ chối. Lúc ấy loài ếch xuất hiện, phủ kín mọi vùng đất. Pharaoh vẫn chưa nhượng bộ. Mosche liền ném tro lên không trung, và một trận dịch hoành hành khắp đất Ai Cập. Tiếp theo, tất cả gia súc, trừ đám gia súc của người Hebrew, đều chết sạch. Ngay cả giữa trưa, ban ngày bị biến thành bóng tối dày đặc đến nỗi đèn cũng không sáng. Cuối cùng, trong một đêm, tất cả những đứa con đầu lòng của người Ai Cập đều chết, ngay cả con của Pharaoh cũng không thoát khỏi số mệnh. Tới khi đó nhà vua mới chấp thuận. Thế nhưng khi những người Hebrew đã ra đi, ông lại cho quân đội đuổi theo họ. Tới khoảnh khắc cuối cùng, mặt biển tách làm đôi để những người trốn chạy đi qua yên lành. Còn khi những kẻ truy đuổi ập tới, những con sóng khép lại nhấn chìm hết ngựa, binh lính, chiến xa và cả vị vua. Ngài đã nói về sự hé lộ, Gaspar...”
Đôi mắt xanh của người Hy Lạp long lanh.
“Tôi đã được nghe câu chuyện này từ người Do Thái,” ông thốt lên. “Ngài đã chứng nhận câu chuyện ấy là có thật, hỡi Balthasar!”
“Phải, nhưng tôi nói thay lời cho Ai Cập, chứ không phải cho Mosche. Tôi đọc những ghi chép khắc trên đá. Các thầy tu thời đó ghi lại theo cách của mình những gì mà họ chứng kiến và sự hé lộ ấy đã được lưu truyền lại. Và giờ tôi sẽ nói đến một bí mật không được ghi chép. Ở đất nước tôi, hỡi các đồng đạo, từ ngày vị Pharaoh xấu số ấy cai trị, đã luôn có hai tôn giáo riêng biệt – một bí mật, một công khai; một có nhiều vị thần mà mọi người cùng thờ phụng, một chỉ có vị Chúa duy nhất mà giới thầy tu tôn thờ. Hãy chia vui cùng tôi, hỡi những người anh em! Những bước chân giẫm đạp của bao nhiêu quốc gia, những giày vò của các vị vua, tất cả những hành động phá hoại của kẻ thù, mọi thay đổi của thời gian đều chẳng thể khiến nó suy chuyển. Giống như một hạt giống nằm dưới rặng núi chờ đợi giờ khắc của mình, sự thật vinh quang vẫn sống mãi; và đây – đây chính là ngày nó trỗi dậy!”
Thân hình mảnh dẻ của người Hindu run lên vui mừng, còn người Hy Lạp reo lên sung sướng,
“Lúc này tôi thấy sa mạc như đang ca hát vậy.”
Từ một bình nước bên cạnh, người Ai Cập uống một ngụm rồi nói:
“Tôi là một ông hoàng và tu sĩ, sinh ra ở Alexandria và được hưởng sự giáo dục xứng đáng với đẳng cấp của mình. Nhưng từ rất sớm tôi đã thấy không hài lòng. Một phần của đức tin được áp đặt cho tôi nói rằng sau khi người ta chết và thân thể phân hủy, linh hồn ngay lập tức bắt đầu được luân hồi từ những giống vật hèn kém nhất cho tới con người, sự tồn tại cao cả nhất và cũng là cuối cùng; và nó chẳng liên quan gì đến những việc mà người ấy từng làm khi còn sống. Khi tôi được nghe về cõi Ánh sáng của người Ba Tư, Thiên đàng bên kia cầu Chinevat nơi chỉ những người tốt mới tới được, ý nghĩ ấy đã ám ảnh tôi; đến nỗi cả ngày lẫn đêm tôi nghiền ngẫm những ý niệm về sự luân hồi vĩnh cửu và cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên đàng. Nếu thầy dạy của tôi nói rằng Chúa là công bằng, tại sao lại không có sự phân chia kẻ xấu người tốt? Cuối cùng tôi mới nhận ra một hệ quả tất yếu của giới luật để hiểu được tôn giáo thuần khiết, đó là cái chết chỉ là điểm phân chia nơi những kẻ xấu xa bị bỏ lại hoặc vứt bỏ, những người giàu đức tin được đưa lên cõi cao hơn; không phải cõi Niết Bàn của Đức Phật hay nơi yên nghỉ tuyệt đối của Brahma, hỡi Melchior; cũng không phải cõi âm vốn là nơi an nghỉ duy nhất theo đức tin Hy Lạp, hỡi Gaspar; mà là cuộc sống – cuộc sống tích cực, sung sướng, vĩnh cửu – SỐNG CÙNG CHÚA! Phát hiện này dẫn tôi đến một câu hỏi khác. Tại sao Sự Thật lại phải được giữ bí mật cho sự khuây khỏa ích kỷ của giới tăng lữ? Chẳng còn lí do gì để làm thế nữa. Triết học ít nhất đã giúp chúng ta chịu đựng. Ở Ai Cập, chúng tôi có Rome thay vì Rameses. Một ngày nọ, ở Brucheium, khu phố xinh đẹp và đông đúc nhất Alexandria, tôi thức giấc và bắt đầu thuyết giảng. Những người phương Đông và phương Tây đổ tới lắng nghe tôi. Những sinh viên đi đến thư viện, những thầy tu từ Serapeion, những người rỗi việc từ bảo tàng, những người đi xem đua xe ngựa, những người dân Rhacotis – vô cùng đông đảo họ dừng lại nghe tôi nói. Tôi rao giảng về Chúa, về linh hồn, về cái đúng và cái sai và về Thiên đàng, phần thưởng dành cho một cuộc đời đức hạnh. Ngài, hỡi Melchior, đã bị ném đá; còn những thính giả đầu tiên của tôi chỉ lấy làm kinh ngạc, và sau đó phá lên cười. Tôi cố thử lại một lần nữa; họ làm những bài thơ trào phúng chế giễu tôi, sỉ nhục vị Chúa của tôi, làm tối đen chốn Thiên đàng của tôi bằng những lời nhạo báng. Không muốn nán lại đó một cách vô ích, tôi rời bỏ họ.”
Người Hindu thở dài một tiếng và nói, “Kẻ thù của loài người chính là loài người, người anh em của tôi ạ.”
Balthasar im lặng.
“Tôi đã suy nghĩ mãi để tìm ra nguyên do thất bại, và cuối cùng cũng hiểu ra,” ông nói tiếp. “Trên thượng nguồn con sông, cách thành phố một ngày đường đi bộ, có một ngôi làng toàn những người chăn súc vật và nông dân. Tôi lên tàu đến đó. Vào buổi tối, tôi kêu gọi tất cả tụ họp, cả đàn ông lẫn đàn bà, cả người nghèo nhất trong những người nghèo. Tôi giảng giải cho họ đúng như đã từng giảng ở Brucheium. Họ không cười. Tối hôm sau, tôi lại diễn thuyết, để rồi họ tin tưởng tôi mà reo mừng, loan truyền tin ấy đi xa. Tới buổi họp mặt thứ ba, người ta đã tạo nên một cộng đồng để cùng cầu nguyện. Tôi trở lại thành phố. Lướt đi trên dòng sông, tôi mới hiểu ra bài học này: Để bắt đầu cải tổ, đừng đến những nơi sung sướng giàu có; thay vào đó hãy đến với những người mà cái cốc hạnh phúc đang trống không – những người nghèo khó và thấp hèn. Sau đó tôi đặt ra kế hoạch và cống hiến cả đời mình. Bước đầu tiên, tôi bảo vệ gia sản dồi dào của mình để luôn có thu nhập ổn định, sẵn sàng đáp lại lời khẩn cầu của những kẻ khốn khó. Từ ngày đó, hỡi các đồng đạo, tôi đã đi khắp sông Nile, tới những làng mạc và gặp các bộ lạc, để thuyết giảng về một vị Chúa duy nhất, lối sống đạo đức, và phần thưởng dành cho họ trên Thiên đàng. Tôi đã làm được những việc tốt – nhưng không đáng để nói là bao nhiêu. Tôi cũng biết rằng đây là một góc của thế giới đã sẵn sàng để đón nhận vị Chúa mà chúng ta đang lên đường tìm kiếm.”
Gò má rám nắng của người Ai Cập dần ửng đỏ; nhưng ông vượt qua được cảm xúc ấy và tiếp tục.
“Trong những năm qua, hỡi những người anh em, trong tôi luôn đau đáu một ý nghĩ. Khi tôi không còn nữa, công trình mà tôi đã bắt đầu sẽ đi về đâu? Liệu nó có kết thúc cùng với cuộc đời của tôi? Tôi đã từng nhiều lần mơ ước mình có thể tổ chức mọi thứ, giống như chiếc vương miện xứng đáng dành cho công lao của tôi. Và không giấu gì các ngài, tôi đã cố gắng thử và rồi thất bại. Hỡi các đồng đạo, thế giới lúc này đang ở trong tình trạng mà để phục hồi đức tin của Mizraim xưa kia, người cải cách không chỉ cần có sự chấp thuận của con người, người ấy không chỉ xuất hiện đại diện cho Chúa, mà còn phải có bằng chứng cho những lời nói của mình; người ấy phải thể hiện tất cả những gì mình nói, kể cả Chúa. Thế nhưng đầu óc con người ngày nay lại đầy rẫy những chuyện hoang đường và hệ thống cứng nhắc; những vị thần giả hiệu xuất hiện nhan nhản khắp nơi – trên mặt đất, trong không khí, trên trời cao; những điều ấy giờ đã gắn chặt với mọi thứ đến nỗi để trở lại với tôn giáo nguyên thủy ta sẽ phải vượt qua những con đường đẫm máu, những cánh đồng của sự hành quyết; như thế nghĩa là những người cải đạo phải sẵn sàng chết chứ không từ bỏ. Và người nào ở thời đại này có thể mang theo mình đức tin của con người như vậy nếu không phải là chính Chúa? Để chuộc tội cho nhân loại – tôi không hề có ý nói đến việc hủy diệt nó – để CHUỘC TỘI cho loài người, Ngài sẽ phải một lần nữa hiển linh, NGÀI PHẢI ĐÍCH THÂN XUẤT HIỆN.”
Một cảm xúc mãnh liệt dâng trào trong cả ba người.
“Chẳng phải chúng ta đang đi tìm Người hay sao?” người Hy Lạp thốt lên.
“Các ngài đã hiểu tại sao tôi không thể tổ chức việc giảng đạo của mình rồi,” người Ai Cập nói sau khi cơn xúc động đã qua. “Tôi không có đủ tư cách. Khi biết rằng những công trình của tôi rồi sẽ mất đi, nó khiến tôi đau buồn tột độ. Tôi tin vào những lời cầu nguyện, và để giúp lời thỉnh cầu của mình trở nên thuần khiết và mạnh mẽ giống như của ngài, hỡi đồng đạo, tôi rời xa khỏi những con đường đông người qua lại, đi đến những nơi mà chưa ai đặt chân tới, nơi chỉ có Chúa mà thôi. Trên đỉnh thác nước thứ năm, phía trên nơi mà những con sông hòa làm một ở Sennar, xa hơn Bahr el Abiad, tới những vùng xa xôi lạ lẫm của châu Phi, tôi cứ thế dấn bước. Vào một buổi sáng, một ngọn núi xanh như nền trời tỏa bóng râm mát mẻ trên nền sa mạc phương Tây, và với những đỉnh núi phủ tuyết tan chảy, nó lấp đầy một cái hồ rộng nằm dưới chân núi về phía Đông. Hồ nước là mẹ của dòng sông lớn. Tôi trú ngụ ở ngọn núi đó trong hơn một năm. Quả của cây cọ nuôi dưỡng thân tôi, những lời cầu nguyện nuôi dưỡng linh hồn tôi. Một đêm, tôi bước đi trong vườn cây nằm cạnh cái hồ giống như đại dương nhỏ. ‘Thế giới đang hấp hối. Khi nào thì Người sẽ đến? Tại sao con không được nhìn thấy sự cứu rỗi, hỡi Thượng đế?” Tôi cầu nguyện. Mặt nước như thủy tinh phản chiếu những vì sao lấp lánh. Một trong những vì sao đó dường như rời khỏi chỗ của mình và nổi lên trên mặt nước, nơi nó tỏa sáng rực rỡ đến lóa cả mắt. Rồi nó tiến về phía tôi, treo lơ lửng trên đầu, gần như trong tầm tay. Tôi quỳ rạp xuống che mặt. Một giọng nói thoát tục cất lên, Những việc tốt của con đã chiến thắng. Con xứng đáng được hưởng phúc lành, hỡi người con của Mizraim! Sự cứu rỗi sắp đến. Cùng với hai người nữa từ những nơi xa xôi nhất trên thế giới, con sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu rỗi và chứng nhận cho Người. Vào buổi sáng, hãy tới gặp họ. Và khi tất cả các con đã tới thành phố Jerusalem thiêng liêng, hãy hỏi người dân ở đó rằng, Người được sinh ra làm vua của dân Do Thái đang ở đâu? Vì chúng con đã nhìn thấy vì sao của Người ở phương Đông và được dẫn đường đến đây thờ phụng Người. Hãy tuyệt đối tin tưởng vào linh hồn dẫn đường cho con.’
“Ánh sáng ấy trở thành ngôi sao rực rỡ bên trong tôi, không thể lay chuyển, và nó đã vẫn ở lại bên tôi để vừa là người lãnh đạo, vừa là người dẫn đường. Nó dẫn tôi đi xuôi dòng sông tới Memphis, nơi tôi chuẩn bị cho chuyến đi vào chốn sa mạc. Tôi mua con lạc đà, và đi không nghỉ tới đây, theo đường Suez và Kufileh, xuyên qua những vùng đất Moab và Ammon. Chúa đang đồng hành cùng chúng ta, hỡi các đồng đạo!”
Ông ngừng lại, và sau đó, dường như bị một thứ gì vô cùng cao siêu thúc giục, tất cả đứng dậy nhìn nhau.
“Tôi đã nói rằng việc chúng ta mô tả kĩ càng về dân tộc và lịch sử nước mình là có mục đích riêng,” người Ai Cập nói. “Vị Chúa mà chúng ta đang kiếm tìm được gọi là ‘vua của người Do Thái’ và chúng ta phải tìm kiếm Người bằng cái tên đó. Nhưng giờ chúng ta đã gặp gỡ và được nghe câu chuyện của nhau, chúng ta có thể hiểu rằng Người chính là Đấng Chuộc tội, không chỉ riêng cho dân Do Thái, mà cho mọi quốc gia trên trái đất. Người cha sống sót qua trận đại hồng thủy đã mang theo ba người con trai và từ gia đình của họ, loài người sinh sôi trở lại. Từ Aryana-Vaejo cổ xưa, Vùng đất Sung sướng ở trung tâm châu Á, họ chia tay nhau. Ấn Độ và vùng viễn Đông đón nhận những đứa con của người con trai đầu tiên; hậu duệ của người con út từ phương Bắc tiến vào châu Âu; con cháu của người con thứ hai cư ngụ trên các sa mạc quanh Biển Đỏ, đi tới châu Phi; và mặc dù phần lớn những người trong nhóm sau cùng này hãy còn lang bạt trong những căn lều du mục, một số người đã trở thành những người thợ tài ba xây nên biết bao công trình dọc sông Nile.”
Vì một sự thôi thúc bí ẩn, ba người nắm tay nhau.
“Còn mệnh lệnh nào thiêng liêng hơn thế nữa không?” Balthasar nói tiếp. “Khi đã tìm thấy Chúa, những người anh em và tất cả các thế hệ con cháu của họ sẽ cùng chúng ta quỳ gối tôn kính người. Và khi chúng ta chia tay nhau mỗi người một đường, thế giới sẽ học được một bài học mới rằng Thiên đàng có thể được tạo nên không phải bằng lưỡi gươm, không phải bằng trí khôn của loài người, mà bằng đức tin, tình yêu, và nghĩa cử.”
Sự im lặng sau đó chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng thở dài và trở nên thiêng liêng cùng những giọt lệ; vì niềm vui sướng dâng trào trong họ không sao diễn tả được thành lời. Đó chính là niềm vui sướng của những linh hồn trên Bờ sông Sự sống cùng với những người được chuộc lỗi trong sự hiện diện của Chúa.
Rồi họ buông tay nhau ra và rời khỏi căn lều cùng với nhau. Sa mạc phẳng lặng cũng giống như bầu trời. Mặt trời đang lặn xuống rất nhanh. Những con lạc đà thì đang say ngủ.
Một lúc sau, căn lều đã được dọn đi, và cùng với những gì còn lại sau bữa tiệc, được bỏ trở lại vào cái tráp; rồi sau đó cả ba người lên lạc đà, bắt đầu khởi hành người nọ nối tiếp người kia, đi đầu là người Ai Cập. Họ đi về phía Tây, trong màn đêm lạnh giá. Những con lạc đà đều đặn sải bước, thẳng hàng và cách quãng đều nhau đến độ người đi sau cứ như là dẫm đúng vào dấu chân người đi trước. Họ không nói với nhau lời nào.
Chẳng bao lâu sau, mặt trăng ló ra. Trong khi cả ba hình bóng trắng toát và cao lớn tiến về phía trước với những bước chân im lặng, trong ánh sáng huyền ảo như của ngọc mắt mèo, trông họ tựa những bóng ma lướt đi trước những bóng đen thù hận. Bỗng nhiên, trên không trung trước mặt họ, không xa hơn một ngọn đồi thấp hiện ra một ngọn lửa nhỏ; và khi họ nhìn nó, bóng ma ấy bỗng biến thành một ngọn lửa rực rỡ. Tim họ đập mạnh, linh hồn đầy phần chấn và họ đồng thanh thốt lên, “Vì sao! Vì sao! Chúa ở bên chúng ta!”