Ben-Hur – Câu Chuyện Về Đấng Christ

Ben-Hur – Câu Chuyện Về Đấng Christ

Tổng số chương: 81

Dành tặng người vợ hiện vẫn luôn đồng hành cùng tôi từ tuổi thanh xuân

.

*

Jebel es Zubleh là một rặng núi dài chừng hơn năm mươi dặm, hẹp đến nỗi trên bản đồ nhìn nó chẳng khác nào một con sâu nằm vắt từ phía Nam lên phía Bắc. Đứng trên sườn núi màu đỏ và trắng của nó nhìn về phía mặt trời mọc, ta sẽ chỉ nhìn thấy sa mạc Arabia, nơi những làn gió Đông, vẫn luôn thù ghét dân trồng nho ở Jerricho, chơi đùa với nhau từ thuở hồng hoang. Chân núi phủ kín những đụn cát từ sông Euphrates thổi tới rồi nằm lại đó. Rặng núi như một bức tường bảo vệ cho những đồng cỏ ở Moab và Ammon ở phía Tây – mảnh đất mà hẳn đã bị sa mạc nuốt chửng nếu không có nó.

Người Arab đã áp đặt ngôn ngữ của mình lên mọi vùng đất phía Nam và phía Đông Judea, vì thế theo ngôn ngữ này, rặng Jebel cổ xưa là khởi nguồn của vô số thung lũng cắt ngang con đường của người La Mã – giờ chỉ còn là dấu vết mơ hồ của con đường mà những người hành hương Syria xưa kia đã dùng để lui tới Mecca – càng kéo dài càng in sâu hơn, hướng dòng chảy trong mùa mưa tới Jordan và cuối cùng là tới Biển Chết. Từ một trong những thung lũng đó – hay cụ thể hơn là từ thung lũng nằm hẳn về một đầu của dãy Jebel, vươn xa về phía Đông Bắc tạo thành đáy sông Jabbok – một lữ khách bước ra trên bình nguyên sa mạc. Đầu tiên chúng ta hãy cùng chú ý tới lữ khách này.

Nhìn vẻ bề ngoài, đó là một người đàn ông khoảng bốn mươi lăm tuổi. Bộ râu của ông, trước đây từng đen nhánh, buông dài xuống ngực và xen lẫn những sợi bạc. Gương mặt ông có màu nâu của hạt cà phê rang, được giấu kín gần như hoàn toàn sau một cái kufiyeh màu đỏ (thứ mà những đứa con của sa mạc ngày nay gọi là khăn trùm đầu) nên khó mà thấy rõ. Thỉnh thoảng, ông nhìn lên với đôi mắt huyền to. Ông bận thứ y phục buông dài vốn phổ biến ở phương Đông; nhưng chúng ta khó có thể miêu tả cụ thể hơn vì ông đang ngồi trong một cái lều nhỏ, trên lưng con lạc đà một bướu lớn màu trắng.

Những người phương Tây có thể vượt qua ấn tượng ban đầu mỗi khi nhìn thấy một con lạc đà được trang bị đầy đủ và chất đầy đồ đạc cho chuyến đi vượt sa mạc hay không là chuyện nửa tin nửa ngờ. Phong tục, thứ tối kị với sự mới lạ, gần như không tác động gì đến cảm giác này. Tới cuối chuyến hành trình cùng với đoàn lữ hành, sau nhiều năm sống ở Bedawin, một người có gốc gác phương Tây, dù quê người đó ở đâu, hẳn cũng sẽ dừng lại và chờ con vật bệ vệ ấy đi qua. Sự quyến rũ của nó không nằm ở dáng vẻ bề ngoài, thứ mà ngay cả tình yêu cũng chẳng thể biến thành đẹp đẽ; hay ở dáng đi, những bước chân im lặng, hoặc sải chân khoáng đạt của nó. Sự ưu ái của sa mạc dành cho con vật này cũng giống như sự bao dung của biển khơi với con tàu vậy. Nó phủ lên con vật một bức màn bí ẩn; khiến chúng ta khi nhìn vào nó lại nghĩ đến những bí ẩn ấy: nơi ẩn chứa những kì quan. Con vật đang bước ra khỏi thung lũng có lẽ cũng đủ gợi nên cảm giác này. Màu sắc và chiều cao của nó; sải chân dài; thân mình to lớn, không béo phì mà nổi đầy cơ bắp, cái cổ dài và mảnh, cong cong như cổ thiên nga, cái đầu với hai mắt nằm xa nhau, thuôn dài cho tới cái mõm nhỏ như có thể đút vừa một cái vòng đeo tay phụ nữ; cách nó cử động, những bước chân dài và mềm mại, vững vàng, không gây tiếng động – tất cả minh chứng cho nguồn gốc dòng máu Syria cổ xưa từ thời Cyrus(*) vô giá của nó. Ta có thể thấy bộ cương như thường lệ, với đám tua đỏ phủ trên vầng trán, những sợi xích bằng đồng lủng lẳng trên cổ, cuối xích treo những cái chuông bạc lanh canh; ngoài bộ cương đó ra thì chẳng hề có sợi dây điều khiển của người cưỡi hay vòng đai đeo luồn dưới bụng. Thứ đặt trên lưng con lạc đà là một phát minh mà hẳn sẽ khiến cho người phát minh ra nó trở nên lừng danh ở bất kỳ nơi nào khác ngoài phương Đông. Nó gồm hai cái hộp gỗ dài chừng bốn feet, được đặt thăng bằng để mỗi cái buông về một bên; khoảng trống ở giữa được phủ đệm và thảm mềm, sắp xếp sao cho người cưỡi có thể nửa nằm nửa ngồi, bên trên phủ một cái mái che màu xanh lục. Những vòng đai rộng vòng qua lưng và ngực buộc bằng vô số nút giúp thứ ấy ở đúng vị trí. Bằng cách đó những người con tài ba của Cush(*) đã tìm ra cách thoải mái nhất để chống chọi với ánh nắng trong những chuyến hành trình qua nơi hoang vu này, một việc vừa là nghĩa vụ vừa là thú vui của họ.

Khi con lạc đà bước ra khỏi thung lũng, người lữ khách đã vượt qua biên giới El Belka của vương quốc Ammon cổ xưa. Lúc ấy là buổi sáng. Phía trước mặt ông là mặt trời vẫn còn lấp ló sau màn sương mềm mại và vùng sa mạc nơi cây cối bắt đầu còi cọc hơn, trong khi nơi có những đụn cát chuyển động thì phải đi xa nữa mới tới; nơi mặt đất lởm chởm những tảng đá hoa cương, đá xám và nâu, điểm xuyết những cây keo cằn cỗi và cỏ lạc đà. Những cây sồi, cây bụi, và cây arbutus nằm phía sau, cứ như thể đứng xếp hàng nhìn vùng đất hoang vu không một giếng nước, ngồi sụp xuống vì lo sợ.

Lữ khách đã đi đến cuối con đường. Hơn bao giờ hết, con lạc đà dường như cảm thấy phấn chấn một cách kì quái. Bước chân nó sải dài và mau hơn, cái đầu hướng thẳng về phía chân trời; qua hai lỗ mũi nở rộng, nó hít hà làn gió. Cái kiệu trên lưng nó nghiêng ngả, dâng lên hạ xuống như con tàu trên sóng. Những cái lá khô trên những bụi cây hiếm hoi kêu lạo xạo dưới chân. Thỉnh thoảng một mùi hương giống như rượu absinthe ngọt ngào thoảng trong không khí. Chim chiền chiện, chim hoét, và chim én núi sải cánh, trong khi những con gà gô kêu lục cục chạy tránh đường. Họa hoằn lắm mới thấy một con cáo hay linh cẩu nhanh chân chạy, dò xét những kẻ xâm phạm từ khoảng cách an toàn. Về phía phải là những ngọn đồi của dãy Jebel, màn sương màu xám ngọc trai phủ lên đó trong thoáng chốc sẽ biến thành màu tím mà ánh mặt trời sẽ tạo thành tuyệt tác vô song. Trên những đỉnh đồi cao nhất, một con kền kền vươn đôi cánh lớn chao liệng thành những vòng tròn ngày càng rộng. Nhưng người ngồi trong cái lều màu xanh lục dường như chẳng nhìn thấy hết thảy những thứ đó, hay ít nhất là không tỏ ra là mình nhìn thấy. Đôi mắt ông mơ màng hướng về xa xăm. Dáng điệu của ông cứ như là đang bị dắt đi chẳng khác nào con lạc đà vậy.

Con lạc đà lắc lư đi suốt hai tiếng, bước chân đều đặn hướng về phía Đông. Trong suốt khoảng thời gian đó lữ khách không thay đổi tư thế lấy một lần, cũng chẳng nhìn sang trái sang phải. Trên sa mạc, người ta không đo khoảng cách bằng dặm hay lý, mà bằng saat, tức là giờ, hoặc manzil, tức là số lần dừng nghỉ: một saat bằng ba dặm rưỡi, còn một manzil bằng mười lăm hay hai mươi lăm dặm; nhưng đấy mới là khoảng cách phù hợp với loài lạc đà. Một con lạc đà Syria chính gốc có thể đi ba dặm dễ dàng. Khi phi hết tốc lực, nó còn nhanh hơn cả những cơn gió bình thường. Một phần là vì đi nhanh như vậy, cảnh vật quanh lữ khách dần thay đổi. Dãy Jebel trải dài dọc chân trời phía Tây như một dải băng xanh nhạt. Thỉnh thoảng một cái gò đất sét và cát nổi lên đây đó. Đôi khi lại thấy những viên đá bazan nhô mái đầu tròn lên – chúng là tiền đồn của ngọn núi vươn lên chống lại bình nguyên. Tuy thế, ngoài những cái đó ra thì nơi đây chỉ toàn cát, có chỗ mịn như bãi biển sóng vỗ, có chỗ gồ lên thành những cồn cát chuyển động chỗ này là con sóng cồn, chỗ kia trông như cái bướu. Ngay cả không khí nơi đây cũng khác. Mặt trời lên cao đã uống no nê sương và mây mù, sưởi ấm những cơn gió ve vuốt lữ khách trên cái kiệu, nhuộm khắp mặt đất một màu trắng như sữa, và khiến cả bầu trời cũng lấp lánh.

Hai giờ nữa trôi qua mà lữ khách vẫn không dừng lại hay đổi hướng. Giờ chẳng còn thấy cây cối gì nữa. Thứ cát thống trị nơi đây giòn tan đến nỗi vỡ lạo xạo thành những mảnh nhỏ sau mỗi bước chân. Rặng Jebel giờ đã khuất hẳn và không còn dấu mốc nào trong tầm mắt. Cái bóng lúc trước theo sau lữ khách giờ đã chuyển sang phía Bắc, đi sóng đôi với thứ tạo ra nó và, vì chẳng có dấu hiệu gì là muốn dừng nghỉ, hành động của lữ khách ấy lại càng thêm lạ lùng.

Hãy nhớ rằng không ai tới sa mạc để tìm kiếm sự sung sướng. Sự sống và những chuyến hàng đi ngang qua nó trên những con đường la liệt những bộ xương. Đấy chính là cảnh tượng trên những con đường từ giếng nọ tới giếng kia, từ bãi cỏ này sang bãi cỏ nọ. Ngay cả trái tim của một tộc trưởng dày dạn nhất cũng phải đập nhanh hơn khi ông chỉ còn một mình trên sa mạc không có lấy một lối mòn. Vậy tức là người đàn ông mà chúng ta đang nói đến hẳn không tìm kiếm sự sung sướng, thế nhưng dáng điệu ông cũng không phải là của một kẻ đào tẩu vì ông không ngoái lại phía sau lấy một lần. Trong những tình huống đó, sự sợ hãi và tò mò là những cảm giác thường thấy nhất; thế nhưng người đàn ông này lại chẳng hề thể hiện tất cả những cái đó. Khi con người trở nên cô đơn, họ cúi mình tìm kiếm tình bạn ở bất kì đâu, con chó trở thành bằng hữu, con ngựa trở thành bạn và chẳng có gì phải xấu hổ khi người ta ve vuốt hay ban cho chúng những lời âu yếm. Thế nhưng con lạc đà này thì lại chẳng nhận được chút ân huệ nào, không đụng chạm, không một lời động viên.

Đúng giữa trưa, con lạc đà tự mình dừng chân, thốt lên một tiếng kêu rền rĩ, thảm thương mà giống loài của nó vẫn dùng để van vỉ khi bị chất quá nặng, và đôi khi là để cầu xin sự chú ý và nghỉ ngơi. Chủ nhân của nó cựa mình như vừa ngủ dậy. Ông kéo rèm lên nhìn mặt trời, cẩn trọng dò xét cảnh vật xung quanh thật lâu như thể để nhận diện một nơi chốn nào. Sau khi đã hài lòng, ông hít sâu một hơi và gật đầu như muốn nói, “Đây rồi, đây rồi!” Một lúc sau, ông khoanh tay trước ngực, cúi đầu khe khẽ cầu nguyện. Sau khi đã hoàn thành nghi lễ, ông sửa soạn bước xuống. Từ cổ họng ông phát ra âm thanh mà chắc hẳn những chú lạc đà ưa thích của Job(*) xưa kia đã từng nghe – Ikh! Ikh! – hiệu lệnh để nó quỳ xuống. Con vật từ từ làm theo, miệng rên rỉ. Lữ khách đặt chân lên cái cổ mảnh dẻ, và bước xuống mặt cát.

Danh sách chương


Sách tương tự