← Quay lại trang sách

QUYỂN III - Chương I Cuộc xuất hành của Quintus Arrius

“Cleopatra... Sự đau khổ của chúng tôi,

Cũng lớn lao không kém gì lí tưởng của mình

Và cội nguồn của nó.

(DIOMEDES bước vào)

Giờ thì sao? Ông ấy chết chưa?

Diomedes. Ông ấy đang hấp hối, nhưng vẫn chưa chết.”

Antony và Cleopatra (chương IV, cảnh XIII)

*

CHƯƠNG I:

Cuộc xuất hành của Quintus Arrius

Thành phố Misenum được dùng để đặt tên cho mũi đất nhô ra biển cách Naples vài dặm về phía Tây Nam. Giờ ở đây chỉ còn tàn tích của thành phố này mà thôi. Thế nhưng hồi năm Thiên Chúa 24 – thời điểm mà tôi muốn đưa bạn đọc tới – nơi này là một trong những thành phố quan trọng nhất dọc bờ biển phía Tây của nước Ý(*).

Trong năm này, lữ khách đến mũi đất chiêm ngưỡng cảnh vật ở đó cho khuây khỏa sẽ phải leo qua một bức tường, xoay lưng về phía thành phố, nhìn ra vịnh Neapolis hồi ấy cũng xinh đẹp không kém gì bây giờ và anh sẽ nhìn thấy bờ biển đẹp đẽ không đâu sánh bằng, những đỉnh núi bốc khói, bầu trời và những con sóng dịu dàng xanh biếc, Ischia ở kia và Capri đằng kia. Ánh mắt anh hướng từ nơi này sang nơi kia, qua nền trời màu tím để cuối cùng – vì đôi mắt khi ngắm nhìn những gì quá đẹp đẽ cũng mệt mỏi giống như cái miệng khi nếm quá nhiều của ngọt – anh sẽ nhìn thấy một cảnh tượng mà khách du lịch ngày nay không thể thấy được – một nửa hạm đội dự phòng của Rome buông neo bên dưới. Vì thế, Misenum quả là nơi phù hợp để ba vị bá chủ gặp gỡ, và thoải mái chia nhau thế giới.

Tuy thế thời xưa có một cánh cổng trổ giữa một bức tường hướng về phía biển – một cánh cổng trống rỗng ở cuối một con phố mà khi bước qua nó vươn dài và tỏa rộng thành những bãi đất rộng hướng về phía những con sóng.

Người lính canh trên bức tường bên trên cánh cổng bị đánh thức vào một buổi sáng mát mẻ tháng Chín vì một đoàn người ồn ã bước tới từ con phố. Anh mở mắt nhìn họ, rồi lại chìm vào giấc ngủ gà gật.

Đoàn đó có khoảng hai mươi đến ba mươi người, phần lớn là nô lệ cầm thứ đuốc tỏa khói nhiều hơn là ánh sáng, khiến bầu không khí đầy mùi nhựa cây cam tùng Ấn Độ. Những người chủ thì khoác tay nhau tiến lên. Một người trong số họ – khoảng chừng năm mươi tuổi, đầu hơi hói, trên những mớ tóc thưa đội một vòng nguyệt quế – dường như ông là tâm điểm của sự chú ý, trung tâm của nghi lễ. Tất cả bọn họ đều mang những dải băng choàng lớn màu trắng viền tím. Người lính canh chỉ cần liếc nhìn một lần là đủ. Anh biết họ là những người có vai vế, đang tiễn đưa một người bạn tới chỗ tàu chiến sau một đêm tiệc tùng. Bạn đọc sẽ hiểu thêm khi nghe cuộc trò chuyện giữa họ.

“Không, Quintus của tôi ơi,” một người nói với người đội vòng nguyệt quế, “Thần May mắn mới ác nghiệt làm sao khi cướp ông khỏi chúng tôi sớm thế. Ông vừa mới trở về từ những vùng biển bên kia Hàng Cột. Tại sao lại phải đi ngay khi vừa mới đặt chân lên đất liền như vậy.”

“Thề có Castor, nếu một người đàn ông có thể thề như một người đàn bà,” một người khác nói, có vẻ còn say hơn người trước, “đừng than vãn nữa. Quintus của chúng ta chỉ đi tìm lại cái mà ông đánh mất tối qua mà thôi. Đánh xúc xắc trên một con thuyền tròng trành khác hẳn với lúc chơi trên bờ phải không Quintus?”

“Đừng có đổ lỗi cho Thần May mắn!” Người thứ ba lên tiếng. “Người không mù quáng hay tính khí thất thường đâu. Ở Antium, nơi Arrius của chúng ta hỏi Thần May mắn, Người đã gật đầu đáp lại ông, và ở biển Người luôn đồng hành cùng ông bên bánh lái. Người lấy đi ông ấy khỏi chúng ta, nhưng chẳng phải lần nào cũng trả lại cùng một chiến thắng lẫy lừng?”

“Bọn Hy Lạp khiến ông ấy phải lên đường,” một người nữa xen vào. “Hãy cùng nguyền rủa chúng chứ không phải những vị thần. Khi học được nghề buôn bán, bọn chúng đã quên mất cách chiến đấu.”

Với những lời đó, nhóm người bước qua cổng và tiến tới khoảnh đất trống, với mặt biển trải rộng tuyệt đẹp trước mặt họ trong ánh nắng buổi sáng. Với người đi biển lâu năm, tiếng rì rào của những con sóng cũng chẳng khác nào lời chào. Ông hít sâu một hơi như thể mùi biển khơi còn ngọt ngào hơn mùi cây cam tùng, rồi đưa một bàn tay ra.

“Những món quà của tôi là ở Praeneste chứ không phải ở Antium – và nhìn kìa! Đang có gió Tây. Ôi, cảm ơn Thần May mắn, người mẹ của tôi!” ông nồng nhiệt nói.

Những người bạn cũng nhắc lại câu cảm thán đó, còn các nô lệ thì đưa những ngọn đuốc qua lại.

“Nó đến kìa!” Ông nói tiếp, chỉ vào một chiếc tàu chiến đậu ngoài bến. “Một thủy thủ còn đâu đầu óc cho đàn bà? Lucrece của ông có xinh đẹp được hơn thế không, Caius của tôi?”

Ông liếc nhìn về phía con tàu đang lướt tới, ra điều tự hào. Một cánh buồm trắng sà xuống cột buồm thấp, những mái chèo hạ xuống, dâng lên, ngừng lại một chút, rồi lại hạ xuống như hai đôi cánh, đều tăm tắp.

“Phải, đừng báng bổ những vị thần,” ông nói, mắt không rời khỏi con tàu. “Họ trao cho chúng ta cơ hội. Còn nếu thất bại thì đó là lỗi của chúng ta. Còn về những người Hy Lạp thì Lentulus ơi, ông đã quên rằng đám cướp biển mà tôi sắp sửa chinh phạt cũng chính là bọn Hy Lạp. Một trận thắng trước chúng còn hơn là một trăm trận trước bọn châu Phi.”

“Thế tức là ông sắp lên đường đến biển Aegea?”

Trong mắt của người sắp lên đường chỉ có con tàu của ông mà thôi.

“Vẻ đẹp muôn năm, tự do muôn năm! Một cánh chim cũng chẳng thể bình thản hơn trước những đợt sóng. Nhìn kìa!” Ông nói, nhưng gần như ngay lập tức nói thêm, “Xin thứ lỗi Lentulus. Tôi sắp đến biển Aegea; và vì giờ lên đường đã tới gần, tôi sẽ nói cho các ông biết tại sao – nhưng phải giữ bí mật đấy. Tôi không muốn các ông mắng chửi nhị pháp quan khi gặp lại ông ấy. Ông ấy là bạn của tôi. Việc buôn bán giữa Hy Lạp và Alexandria như các ông đã biết cũng nhộn nhịp chẳng kém gì giữa Alexandria và Rome. Người dân ở vùng đó đã quên không tổ chức lễ Cerealia, và Triptolemus đã khiến họ bị mất mùa. Dù thế nào đi nữa, việc buôn bán giờ quá quan trọng đến nỗi không thể để bị gián đoạn dù chỉ một ngày. Có thể các ông chưa được nghe về bọn cướp biển Chersonesan đóng ở Euxine và thề có Bacchae chúng quả là những kẻ liều mạng nhất! Ngày hôm qua Rome nhận được tin rằng một hạm đội cướp biển đã đi tới Bosphorus, đánh chìm những chiếc tàu chiến ngoài Byzantium và Chalcedon, cướp bóc khắp vùng biển Propontis mà vẫn chưa hài lòng mà tràn ra biển Aegea. Những thương nhân buôn ngô có tàu biển hoạt động ở phía Đông Địa Trung Hải tỏ ra vô cùng lo lắng. Họ đã tới gặp cả Hoàng đế, và hôm nay một trăm tàu chiến từ Ravenna đã được phái đến đó, còn từ Misenum thì...” ông dừng lại như thể để khơi dậy sự tò mò của những người bạn, rồi mới nói nốt một cách trịnh trọng, “chỉ một.”

“Quintus ơi, xin chúc mừng ông nhé!”

“Như vậy là ông sắp được thăng chức rồi. Chúng tôi xin cảm ơn nhị pháp quan của ông.”

“Nhị pháp quan Quintus Arrius hẳn nghe hay hơn hộ dân quan Quintus Arrius nhiêu.”

Nói xong họ ra sức chúc tụng ông.

“Tôi cũng thấy vui mừng không kém gì các ông,” một người say khướt nói, “rất vui là đằng khác. Nhưng tôi phải thực tế, nhị pháp quan của tôi ạ; và phải tới khi tôi biết chắc liệu việc được thăng chức có giúp ông chơi bài hay hơn hay không thì mới dám kết luận các vị thần có thực sự ban cho ông may mắn trong chuyến này hay không.”

“Cảm ơn, cảm ơn rất nhiều!” Arrius đáp lại cả nhóm. “Nếu mang theo những ngọn đèn lồng, hẳn tôi đã tưởng các ông là những nhà tiên tri. Tôi nhất định sẽ phải đi xa hơn nữa và cho người ta thấy tài tiên đoán tài tình của các ngài mới được! Hãy cầm lấy và đọc đi.”

Từ dưới những nếp gấp của dải khăn choàng, ông lấy ra một cuộn giấy và đưa cho họ, sau đó nói, “Tôi vừa nhận được nó từ Sejanus khi đang ngồi bên bàn ăn tối qua.”

Đó là một cái tên lẫy lừng trong thế giới La Mã; không đến nỗi tại tiếng như sau này.

“Sejanus!” Tất cả đồng thanh thốt lên và nhích lại gần để đọc cuộn giấy.

“Sejanus gửi C. Caecilius Rufus, Nhị pháp quan.

ROME, XIX. Kal. Tháng Chín.

Caesar đã nhận được những lời khen ngợi hộ dân quan Quintus Arrius. Đặc biệt, Hoàng đế đã được biết đến những việc làm dũng cảm của ông ở vùng biển phía Tây, đến nỗi Người quyết định Quintus sẽ được điều chuyển về phương Đông ngay lập tức.

Ngoài ra, theo lệnh của Caesar, một trăm chiến hạm mạnh nhất sẽ lên đường ngay để tiêu diệt bọn cướp biển ở biển Aegea, tất cả sẽ nằm dưới quyền chỉ huy của Quintus.

Ngài được quyền quyết định mọi chi tiết khác, Caecilius.

Công việc đòi hỏi gấp gáp, như ngài có thể thấy trong các tài liệu gửi kèm với thư này cho ngài và Quintus.

SEJANUS.”

Arrius gần như không để tâm gì đến lá thư. Khi con tàu càng tiến lại gần thì nó càng thu hút ông mãnh liệt hơn. Ông nhìn nó bằng ánh mắt vô cùng nồng nhiệt. Cuối cùng, ông tung những nếp gấp của dải khăn lên không để đáp lại tín hiệu ở đuôi tàu – một chi tiết có hình giống như cái quạt ở phía trước con tàu – nơi có treo một lá cờ đỏ; trong khi vài thủy thủ xuất hiện trên lan can, đu mình theo những sợi dây thừng leo lên đến đỉnh cột và cuộn buồm lại. Con tàu xoay ngược lại, nhịp chèo tăng một nửa; vì thế nó lao thẳng thật nhanh tới chỗ ông và những người bạn. Mắt ông sáng lên khi nhìn con tàu xoay trở như vậy. Sự dễ dàng chuyển hướng theo từng cử động của bánh lái và sự vững vàng khi nó tiến lên là những ưu điểm đặc biệt dễ thấy mà người ta cần đến khi giáp trận.

“Thề có các Nymphae!” Một người bạn nói và đưa trả lại cuộn giấy, “chúng ta không nên nói một ngày ông bạn của mình sẽ trở nên vĩ đại nữa; ngay bây giờ ông đã là một vĩ nhân rồi. Tình cảm của chúng ta giờ sẽ được dành cho những điều to tát đây. Ông còn gì dành cho chúng tôi nữa?”

“Không còn gì cả,” Arrius đáp. “Những gì mà các ông được biết về chuyện này thì ở Rome đã là tin cũ rồi, đặc biệt là giữa cung điện và Forum. Viên nhị pháp quan rất bí mật về việc tôi sắp làm gì, tìm thấy đội tàu của mình ở đâu thì phải lên tàu ông ấy mới nói và trên ấy người ta đã để sẵn một cái gói được niêm phong dành riêng cho tôi. Tuy thế, nếu dâng lễ ở đền thờ ngày hôm nay, hãy cầu phước cho một người bạn theo nghiệp đi biển đang trên đường hướng về Sicily. Nhưng kìa, con tàu đã gần tới rồi,” ông nói và ngoảnh về phía nó. “Tôi muốn biết những người điều khiển nó là ai; họ sẽ dong buồm và chiến đấu cùng tôi. Thật không dễ để áp hông vào bờ biển như thế này; vậy nên hãy xem và đánh giá trình độ cùng độ khéo léo của họ.”

“Gì cơ, ông chưa bao giờ lên tàu này à?”

“Tôi chưa từng nhìn thấy nó trước đây; thế nhưng không biết khi lên đó tôi có gặp ai quen biết hay không.”

“Như vậy có tốt không?”

“Cũng chẳng hề gì. Những người đi biển chúng tôi làm bạn với nhau rất nhanh; tình cảm giống như lòng căm thù của chúng tôi đến từ những hiểm nguy bất ngờ.”

Chiếc tàu chiến được gọi là naves liburnicae – dài, hẹp, không nhô lên cao, được chế tạo để tăng tốc độ cũng như sự linh hoạt. Phần mũi tàu mới đẹp làm sao. Một đám nước bắn tung lên khi nó lướt tới, làm ướt cả phần nhô trên mặt nước cao gấp đôi đầu người. Ở phần cong ở hai bên sườn tàu là hình thần Triton đang thổi những vỏ ốc. Bên dưới mũi tàu, gắn cố định với sống tàu và chìa ra bên dưới mặt nước là phần mỏ tàu làm bằng gỗ cứng gia cố thêm bằng sắt để thúc vào tàu địch. Hai bên sườn, kéo dài từ mũi đến đuôi là một lan can vững chãi có lỗ châu mai; bên dưới thành tàu, chia làm ba hàng là những cái lỗ có nắp che hoặc khiên làm bằng da bò nơi thò ra những mái chèo – sáu mươi bên phải, sáu mươi bên trái. Để trang trí thêm một hình hai con rắn quấn nhau được tạc vào mũi tàu nhô cao. Hai sợi dây thừng lớn chăng ngang mũi tàu cho thấy số mỏ neo trên boong.

Sự đơn giản của phần bên trên cho thấy những tay chèo mới là người đóng vai trò quan trọng nhất. Một cột buồm nằm hơi chếch về phía trước tính từ phần giữa, phía trước và phía sau nó được buộc thành những vòng cố định nằm ở mặt trong thành tàu. Ròng rọc được sử dụng để điều khiển cánh buồm vuông lớn và cả thanh ngang treo nó. Qua thành tàu người ta có thể nhìn thấy rõ boong tàu.

Ngoài những thủy thủ đã cuộn buồm lại nhưng vẫn nán lại trên boong, những người đứng trên bờ biển chỉ nhìn thấy một người đàn ông nữa đứng ở phần mũi tàu, đội mũ trụ và cầm khiên.

Một trăm hai mươi mái chèo bằng gỗ sồi được giữ sáng bóng bằng đá bọt và những con sóng nâng lên hạ xuống cứ như thể được điều khiển bằng một bàn tay vô hình, đẩy con tàu tiến lên trước với tốc độ sánh ngang với tàu hơi nước hiện đại.

Con tàu tiến đến nhanh đến nỗi những người đứng trên bờ thấy mình phải cẩn trọng. Bỗng nhiên người đàn ông đứng trên mũi tàu giơ tay lên làm một cử chỉ kì lạ, khiến tất cả mái chèo cất lên, giữ một thoáng, rồi buông thẳng xuống. Nước sủi bọt lên quanh chúng; từng thớ gỗ của con tàu rung lên, và nó dừng khựng lại như thể đang sợ hãi. Một cử chỉ nữa vung lên, và một lần nữa, những mái chèo dâng lên, giữ một lúc, rồi thả xuống; nhưng lần này những mái chèo ở bên phải lại nghiêng về phía đuôi và kéo tiến lên, trong khi những mái chèo ở bên trái nghiêng về phía mũi, kéo ngược về sau. Bà lần những mái chèo đẩy và kéo ngược chiều nhau. Con tay xoay vê bên phải như cắm trên một cái trục; rồi thuận theo chiều gió, nó nhẹ nhàng áp hông vào bến tàu.

Chuyển động đó khiến người ta giờ có thể nhìn thấy hết phần đuôi tàu – những vị thần Triton giống như ở phần mũi; cái tên được đắp nổi thật lớn; đuôi lái xoay sang một bên; phần nhô cao ở boong tàu nơi người lái tàu đang ngồi – một người to lớn bận giáp kín mít, tay cầm dây; và phần đuôi tàu nhô cao, được chạm trổ cầu kì uốn cong trên đầu người lái như một cái lá lớn.

Giữa lúc con tàu quay vòng như vậy, một hồi kèn ngắn và cao vút cất lên, để rồi từ những ô cửa ùa ra những người lính, tất cả đều mang trang bị đầy đủ, đội mũ đồng, tay cầm khiên và giáo. Trong khi những chiến binh ùa ra như thể để giáp trận, các thủy thủy trèo lên các dây thừng và đứng trên thanh treo buồm. Những sĩ quan và nhạc công về vị trí của mình. Không ai la hét hay gây tiếng ồn vô ích. Khi những mái chèo chạm vào bến, một cây cầu được đưa ra từ boong của viên hoa tiêu. Rồi viên hộ dân quan xoay lại phía những người bạn và nói bằng sự nghiêm trang mà từ nãy đến giờ không không thể hiện ra lần nào:

“Đã tới giờ lên đường, hỡi những người bạn của tôi.”

Ông cầm lấy vòng lá đội trên đầu và đưa cho người chơi xúc xắc.

“Hãy cầm lấy vòng lá này, hỡi người được Thần May mắn phù hộ!” Ông nói. “Nếu trở về, tôi sẽ đến gỡ lại tiền của mình; nhưng nếu bại trận, tôi sẽ không trở về. Hãy treo vòng lá này ở lối vào nhà ông.”

Ông dang rộng vòng tay với những người còn lại, và từng người một tới nhận lấy cái ôm bái biệt.

“Các vị thần sẽ phù hộ cho ông, Quintus ạ!” Họ nói.

“Xin tạm biệt,” ông đáp.

Ông phẩy tay với những nô lệ đang đung đưa các ngọn đuốc; rồi ông ngoảnh lại phía con tàu đang chờ đợi, trước cảnh tượng tuyệt đẹp những hàng ngũ ngay ngắn, những chiếc mũ có mào, những chiếc khiên và giáo. Khi ông bước lên cây cầu, những tiếng kèn trận cất lên, và từ phần đuôi tàu nổi lên vexillum purpureum, hay cờ hiệu dành cho đô đốc.