← Quay lại trang sách

Chương IV Tay chèo số 60

Hàng trăm chiến thuyền tập hợp tại vịnh Antemona phía Đông đảo Cythera. Tại đó, viên hộ dân quan dành hẳn một ngày để kiểm tra lại đội ngũ. Sau đó, ông dẫn quân tới Naxos, đảo lớn nhất trong quần đảo Cyclades, nằm giữa bờ biển Hy Lạp và châu Á, giống như một viên đá lớn nằm giữa lối đi mà ở đó họ có thể kiểm soát hết mọi tàu thuyền đi ngang qua; đồng thời, ông cũng sẽ có vị trí thuận lợi để truy đuổi đám cướp biển ngay lập tức, dù là chúng ở biển Aegea hay Địa Trung Hải.

Trong khi cả hạm đội đang rất trật tự hướng về phía những rặng núi trên bờ biển của hòn đảo, họ nhận thấy một con tàu tiến tới từ phía Bắc. Arrius ra gặp con tàu đó. Hóa ra đó là một con tàu vận chuyển vừa mới đến từ Byzantium, và ông hỏi được ở viên thuyền trưởng nhiều thông tin vô cùng quan trọng.

Bọn cướp biển đều đến từ bờ biển bên kia Euxine. Thậm chí trong hàng ngũ của chúng có cả những người đến từ Tanais, tức là vùng cửa sông đổ ra Palus Maeotis. Bọn chúng đã giữ kín được quá trình chuẩn bị của mình. Lần đầu chúng xuất hiện là ở ngõ vào Thracian Bosphorus, tiêu diệt cả hạm đội đang đóng ở đó. Sau đó tất cả mọi tàu thuyền ở cửa sông Hellespont trở thành con mồi của chúng. Cả hạm đội cướp biển có chừng sáu mươi tàu, tất cả đều được điều khiển tốt và tiếp tế đầy đủ. Một vài tàu có hai hàng mái chèo, số còn lại là tàu ba hàng mái chèo. Tên chỉ huy là một người Hy Lạp, và bọn hoa tiêu mà người ta đồn rằng thông thuộc hết những vùng biển phương Đông cũng đều là người Hy Lạp cả. Những gì chúng đã cướp đi là không thể đo đếm nổi. Vì thế sự hoảng loạn không chỉ lan tràn ngoài mặt biển; ngay cả những thành phố với cổng thành vũng chãi cũng phải xuất quân hàng đêm gác ngoài tường thành. Dòng thuyền buôn bán gần như đã đứt hẳn.

Giờ bọn chúng đang ở đâu?

Đây là vấn đề mà Arrius quan tâm nhất và giờ ông đã có được câu trả lời.

Sau khi tàn phá Hephaestia trên đảo Lemnos, quân thù đã đi tới quần đảo Thessali và lần cuối cùng được nhìn thấy đang tiến vào vùng vịnh giữa Eiboea và Hellas.

Đó là toàn bộ tình hình hiện tại.

Sau đó, những người dân trên đảo đứng trên các đỉnh đồi để ngắm một cảnh tượng hiếm có khi hàng trăm con tàu của hạm đội tập hợp một chỗ bỗng nhìn thấy đội đi đầu đột ngột xoay về phía Bắc, để rồi những tàu khác cũng rẽ theo ở cùng một điểm giống như các kỵ binh trong hàng ngũ. Tin về bọn cướp biển đã được truyền tới chỗ họ, và giờ khi được nhìn thấy những cánh buồm trắng đang khuất dần giữa Rhene và Syros, họ cảm thấy yên lòng hơn. Những gì mà bàn tay mạnh mẽ của Rome đã giành được thì Rome cũng sẽ bảo vệ: đổi lấy tiền thuế, Rome trao cho họ sự an toàn.

Viên hộ dân quan rất hài lòng với đường di chuyển của quân địch, cảm thấy biết ơn Thần May mắn gấp đôi. Người đã ban cho ông những tin tức nhanh chóng và chắc chắn, trong khi lại lùa quân địch vào vùng biển thuận lợi nhất để tiêu diệt. Ông biết sức công phá của một chiến thuyền trên mặt biển rộng như Địa Trung Hải và sự khó khăn để tìm và tiêu diệt nó. Ông cũng biết cơ hội này sẽ càng khiến vinh quang của ông thêm lớn lao vì ông có thể dẹp được hết nạn cướp biển nơi đây chỉ trong một trận.

.

Mở bản đồ Hy Lạp và biển Aegea, bạn đọc hẳn sẽ nhận thấy đảo Euboea nằm dọc theo bờ biển giống như một bức tường thành hướng về phía châu Á, cách Hy Lạp một eo biển dài khoảng một trăm hai mươi dặm và rộng trung bình khoảng tám dặm. Lối vào từ phía Bắc trước đây đã được hạm đội của Xerxes sử dụng và giờ nó lại là nơi nương náu của bọn cướp biển từ Euxine. Những thành phố dọc vịnh Pelasgic và Meliac rất giàu có và là miếng mồi ngon. Vì thế khi xem xét mọi yếu tố, Arrius cho rằng có thể tìm thấy bọn chúng đâu đó gần Thermopylae. Để chớp lấy cơ hội này, ông không thể chần chừ thêm giây phút nào nữa và sẽ bao vây chúng từ phía Bắc và Nam, dù cho đội quân của ông sẽ phải bỏ lại hết hoa quả, rượu vang và gái gú trên đảo Naxos. Vậy là ông dong buồm ra đi mà không dừng lại cho tới khi núi Ocha hiện lên trên nền trời lúc hoàng hôn và viên hoa tiêu thông báo đội tàu đã đến bờ biển Euboea.

Theo tín hiệu, cả đội tàu dừng lại. Khi tiếp tục di chuyển, Arrius dẫn một toán gồm năm mươi tàu đi vào eo biển, còn lại thì hướng mũi về phía mặt xoay ra biển của hòn đảo để tới lối vào eo biển phía Bắc và thăm dò vùng đó.

Rõ ràng là cả hai đội tàu đều ít quân hơn bọn cướp biển; nhưng mỗi đội đều có những lợi thế bù đắp mà trong đó quan trọng nhất là tính kỷ luật mà bọn cướp biển dù có dũng cảm đến đâu cũng không thể có được. Ngoài ra, Arrius cũng tính rằng nếu chẳng may một đội bị đánh bại, đội còn lại sẽ giáp trận khi quân địch chưa kịp ổn định lại, nhờ thế chiến thắng dễ dàng.

Trong lúc đó, Ben-Hur vẫn ngồi trên ghế của mình, được nghỉ sáu tiếng một lần. Thời gian nghỉ ở vịnh Antemona đã giúp anh lấy lại sức lực, vì thế anh cảm thấy việc chèo thuyền không nặng nhọc lắm và viên chỉ huy cũng chẳng thể bắt lỗi được anh.

Thường thường chúng ta ít khi hiểu được sự nhẹ nhõm về tinh thần khi biết mình đang ở đâu và đang đi đâu. Cảm giác bị lạc là vô cùng khủng khiếp; nhất là khi ta có cảm giác mình đang mò mẫm đi vào những nơi chưa hề biết đến. Thói quen đã khiến cảm giác này không còn quá đáng ngại đối với Ben-Hur, nhưng chỉ ở một chừng mực nào đó mà thôi. Khi phải chèo thuyền hết giờ này sang giờ khác, đôi khi cả ngày lẫn đêm không nghỉ, khi con tàu đang lao đi vun vút trên mặt biển rộng, anh vẫn muốn biết mình đang ở đâu và đang đi đâu; nhưng giờ mong muốn ấy dường như bị lấn át bởi hy vọng mới mẻ đã trở lại trong lồng ngực anh kể từ cuộc trò chuyện với viên hộ dân quan. Anh nhận thấy rằng nơi ở càng chật hẹp thì sự chờ đợi càng căng thẳng. Anh dường như nghe thấy mọi tiếng động trên con tàu trong lúc chèo, và lắng nghe chăm chú cứ như thể đó là những tiếng nói vọng về với anh; anh nhìn lên tấm lưới trên đầu, qua đó nhìn ánh sáng mà mình chỉ nhận được một phần nhỏ rồi chờ đợi mà không biết chờ gì. Nhiều lần anh thấy mình gần như không thể ngăn nổi mong muốn được nói chuyện với viên chỉ huy trên chiếc ghế cao kia – điều hẳn còn khiến ông kinh ngạc hơn bất kì trận đánh nào.

Trong những năm tháng đằng đẵng trên con tàu này, bằng cách nhìn vào sự chuyển động của những tia nắng trên mặt sàn cabin, anh đã biết cách đoán được phần nào hướng đi của nó. Dĩ nhiên anh chỉ nhìn thấy nó trong những ngày nắng đẹp giống như Thần May mắn đã ban cho viên hộ dân quan hôm nay. Kĩ năng ấy đã không rời bỏ anh trong giai đoạn từ sau khi rời khỏi Cythera. Anh rất nhạy cảm với mọi thay đổi về hướng đi vì tưởng rằng họ đang tiến về quê hương Judea của mình. Anh đau đớn nhận ra mình đang đột ngột đi về phía Bắc mà như đã mô tả ở đoạn trên là tới gần Naxos: tuy thế nguyên nhân tại sao họ đi tới đó thì anh không thể biết được; vì chúng ta cần nhớ rằng cũng giống như các nô lệ khác, anh không hề biết tình hình bên ngoài và không hề trông đợi chuyến hành trình này. Chỗ của anh là bên mái chèo, và anh cứ như bị đóng đinh ở đó, dù là khi tàu thả neo hay dong buồm. Anh mới chỉ có một lần được nhìn ra biển từ trên boong trong suốt ba năm qua. Đó chính là dịp mà chúng ta đã được chứng kiến. Anh không hề biết rằng phía sau con tàu mà anh đang chèo đi này là cả một hạm đội đang tuần tự tiến lên; và anh cũng không biết mục tiêu họ theo đuổi là gì.

Khi mặt trời lặn xuống mang đi tia nắng cuối cùng trong cabin, con tàu vẫn hướng về phía Bắc. Đến đêm, Ben-Hur vẫn không nhận thấy có sự thay đổi nào. Lúc ấy, mùi hương trầm tỏa xuống hầm từ trên boong.

“Viên hộ dân quan đang làm lễ,” anh nghĩ. “Chẳng lẽ ta sắp giáp trận?”

Anh mở to mắt mà quan sát.

Anh đã từng bị cuốn vào nhiều trận chiến mà chưa bao giờ được nhìn thấy chúng. Từ ghế của mình anh đã nghe tiếng những người bên trên và xung quanh anh, cho tới khi quen thuộc với tất cả giống như một ca sĩ nhớ hết từng nốt trong bài hát. Anh đã quen với tất cả những nghi thức trước trận chiến, trong đó người La Mã và người Hy Lạp luôn luôn làm lễ hiến tế cho các vị thần. Các nghi lễ đó cũng giống với khi xuất hành và chúng giống như một lời cảnh báo với anh.

Chúng ta cũng nên biết rằng anh và các nô lệ quan tâm tới trận chiến theo cách khác hẳn các thủy thủ và binh lính; họ không để tâm tới những nguy hiểm mà mình có thể gặp phải mà chỉ nghĩ đến việc nếu bại trận mà mình vẫn còn sống, điều đó có thể giúp thay đổi cả cuộc đời họ – thậm chí có thể đem đến tự do – hay ít nhất là đổi sang tay chủ mới, một điều cũng có thể là tích cực.

Chẳng bao lâu sau, những ngọn đèn được thắp lên và treo cạnh cầu thang. Viên hộ dân quan đi từ trên boong xuống. Binh lính mặc áo giáp theo lệnh ông. Sau khi ông ra lệnh lần nữa, các máy bắn đá trên tàu được kiểm tra, giáo, thương và cung tên được mang tới để từng đống trên sàn, cùng với những thùng dầu rất dễ bén lửa và những rổ đựng những viên bông giống như ngòi nến. Rồi sau đó, cuối cùng Ben-Hur cũng nhìn thấy viên hộ dân quan ngồi lên ghế của mình, mặc áo giáp, lấy mũ và khiên ra – mục đích của họ đã quá rõ ràng. Anh chuẩn bị tinh thần cho tội ác sau cùng của những người La Mã đối với các nô lệ như anh.

Ở mỗi hàng ghế đều có một sợi xích với cùm thật nặng. Viên chỉ huy khóa nó vào chân các tay chèo, từng số một, khiến họ không còn lựa chọn nào khác ngoài tuân lệnh và trong tình thế hiểm nghèo nhất cũng không thể trốn thoát.

Trong cabin hoàn toàn im lặng, chỉ có tiếng những mái chèo xoay đi trong những bao da. Tất cả những nô lệ trên các hàng ghế đều có chung cảm giác tủi hổ, trong đó Ben-Hur là người cảm nhận rõ nhất. Anh sẵn sàng đánh đổi tất cả để vứt bỏ được nó. Không bao lâu sau, tiếng leng keng của dây xích cho anh biết viên chỉ huy đã đi đến đâu. Rồi ông ta cũng sẽ đến chỗ anh thôi; nhưng liệu Arrius có can thiệp?

Độc giả có thể coi ý nghĩ này là phù phiếm hay ích kỉ; nhưng vào giờ phút này nó như chiếm trọn tâm trí Ben-Hur. Anh tin rằng viên hộ dân quan người La Mã sẽ cứu anh; dù thế nào đi nữa, việc này hẳn sẽ thách thức các cảm xúc trong ông. Nếu trong khi đang chú tâm chuẩn bị cho trận đánh mà ông vẫn nghĩ đến anh, đó chính là bằng chứng cho thấy ý nghĩ thực sự của ông – bằng chứng cho thấy anh đã được ngầm đưa lên vị thế cao hơn những con người thống khổ khác – và chúng cho phép anh có quyền hy vọng.

Ben-Hur căng mình chờ đợi. Anh có cảm giác nó kéo dài cả thế kỷ. Sau mỗi nhịp chèo anh lại nhìn viên hộ dân quan. Thấy ông nằm xuống chiếc ghế dài nghỉ ngơi sau khi đã chuẩn bị xong xuôi, người tù số sáu mươi tự trách mình, bật cười thất vọng, quyết không nhìn về phía đó nữa.

Viên chỉ huy các tay chèo tiến đến. Ông xích người số một – tiếng những sợi xích vang lên lanh lảnh rùng rợn. Cuối cùng cũng đến số sáu mươi. Bình thản trong đau khổ, Ben-Hur nâng mái chèo, đưa chân ra cho viên sĩ quan. Bỗng Arrius cựa mình và ngồi dậy, ra hiệu cho viên sĩ quan lại gần.

Cảm xúc mãnh liệt dâng lên trong lòng chàng trai Do Thái. Con người cao quý ấy nhìn từ viên sĩ quan sang chỗ anh; và khi anh hạ mái chèo xuống, dường như cả góc tàu nơi anh ngồi sáng rực lên. Anh không nghe thấy họ nói gì; chỉ biết sợi xích vẫn treo lủng lẳng trong chốt gắn vào chiếc ghế, còn người điều khiển thì trở lại chỗ của mình và bắt đầu đánh nhịp. Chưa bao giờ những tiếng gõ của chiếc búa lại du dương đến thế. Tì ngực vào phần tay cầm gắn chì, anh chèo hết sức lực – kéo cho đến khi cái cán cong hẳn đi như sắp gãy.

Viên chỉ huy tiến tới chỗ viên hộ pháp quan, mỉm cười và chỉ vào số sáu mươi.

“Hắn khỏe thật!” Ông ta nói.

“Và có tinh thần phi thường!” Viên hộ pháp quan đáp. “Lạy các vị thần! Hắn chèo khỏe hơn khi không bị xích. Đừng xích hắn nữa.”

Nói xong ông lại nằm xuống ghế.

Con tàu cứ lướt đi hết giờ này đến giờ khác sau từng nhịp chèo trên làn nước gần như không gợn sóng. Những người đang không trong ca thì tranh thủ ngủ, Arrius vẫn nằm ở chỗ của mình, các binh lính thì đứng trên sàn.

Ben-Hur được nghỉ một, hai lần gì đó; nhưng anh không tài nào ngủ được. Ba năm mịt mùng, cuối cùng một tia nắng đã đến với anh! Anh giống như một người trôi dạt trên biển nhìn thấy đất liền vậy! Anh đã chết bao lâu nay, giờ lại cảm thấy được tái sinh. Giấc ngủ không phải để dành cho những giờ phút như vậy. Hy vọng là dành cho tương lai; hiện tại và quá khứ chỉ là những kẻ hầu hạ cho nó mà thôi. Bắt đầu từ ân huệ của viên hộ dân quan, hi vọng đã luôn ở bên anh. Điều kì diệu không phải ở chỗ những điều mà hi vọng giúp ta tưởng tượng ra khiến ta sung sướng, mà là ở chỗ chúng ta có thể cảm nhận chúng cứ như đã xảy đến rồi. Chúng cứ như những đóa hoa anh túc tuyệt đẹp khiến lí trí con người muốn nằm xuống nghỉ ngơi giữa nền trời đỏ tía, tím và vàng. Nỗi đau lắng dịu, ngôi nhà và gia sản được trả lại, một lần nữa được ôm mẹ và em gái trong vòng tay mình – đó là những khao khát cháy bỏng nhất trong anh tại thời điểm ấy. Anh gần như chẳng hề bận tâm chuyện lao đi vun vút như bay vào trận chiến. Những gì mà niềm hi vọng đem lại không hề bị sự hoài nghi vẩn đục – chúng là SỰ THẬT của anh. Niềm vui của anh choáng ngợp đến nỗi trong trái tim anh không còn chỗ cho lòng thèm khát trả thù. Messala, Gratus, Rome, và tất cả những đau khổ do chúng gây ra giờ chỉ như những bệnh dịch – chứng nan y trên mặt đất còn anh đang lơ lửng trên trời cao, xa xăm và an toàn, lắng nghe tiếng hát của những vì sao.

Bóng tối trước bình minh bao trùm mặt nước, mọi thứ dường như đang diễn ra quá thuận lợi đối với con tàu Astroea. Bỗng một người bước từ trên boong xuống và đi thằng tới chỗ viên hộ dân quan đang ngủ, đánh thức ông dậy. Arrius đứng lên, đội mũ, cầm kiếm, đeo khiên rồi tiến tới chỗ người chỉ huy binh lính.

“Quân địch đã tới gần. Hãy sẵn sàng!” Ông nói rồi bình thản và thoải mái đi tới chỗ cầu thang, đến độ người ngoài nhìn vào có thể sẽ nghĩ, “Thật là một người sung sướng! Hẳn Apicius(*) đã đặt một bữa tiệc thết đãi ông.”