QUYỂN V - Chương 1 Messala vứt bỏ vòng nguyệt quế
“Chỉ có hành động của những người chính trực
Mới tỏa hương thơm ngọt ngào trong cát bụi.”
SHIRLEY.
“Và giữa trận chiến quyết liệt, hãy luôn tuân thủ giới luật,
Vốn được đặt ra trong bình yên, và nhìn thấy trước tất cả.”
WORDSWORTH.
*.
CHƯƠNG I: Messala vứt bỏ vòng nguyệt quếSáng hôm sau bữa tiệc tôn vinh Bacchus trong cung điện những nhà quý tộc trẻ la liệt trên chiếc pan. Maxentius có thể đến ngay lúc này và những thị dân đổ ra đón tiếp ông; binh đoàn lê dương có thể được điều xuống từ núi Sulpius với đầy đủ lễ nghi giáp trụ; từ Nymphaem tới Omphalus những nghi lễ long trọng có thể được tổ chức đủ để lấn át những nghi lễ hoành tráng nhất ở phương Đông tráng lệ; thế nhưng những chàng thanh niên này hãy còn ngủ li bì trên chiếc pan nơi họ đã ngã xuống hoặc bị những tên nô lệ cẩu thả ném lên. Việc tham gia vào buổi đón tiếp đối với họ đã trở nên bất khả thi không kém gì những bức tượng của một nhà điêu khắc bỗng dưng đứng dậy lả lướt những bước khiêu vũ một, hai, ba.
Tuy thế không phải tất cả những người tham gia vào bữa tiệc thác loạn đó đều đang trong tình trạng đáng xấu hổ ấy. Khi ánh nắng bình minh bắt đầu chiếu qua ô sáng trên trần, Messala ngồi dậy, cởi vòng nguyệt quế trên đầu ra dấu bữa tiệc tới đây là chấm dứt, nhìn một lần cuối cùng toàn bộ khung cảnh, sau đó không nói gì, bước ra trở về nhà mình. Đến Cicero cũng không thể ra đi một cách nghiêm trang hơn thế sau một buổi tranh luận suốt đêm ở nghị viện.
Ba tiếng sau, hai người đưa thư bước vào phòng hắn, và mỗi người nhận được một bức thư giống hệt nhau có đóng dấu niêm phong đàng hoàng từ chính tay hắn. Đó là lá thư gửi Valerius Gratus, viên tỉnh trưởng giờ vẫn đang sống ở Caesarea. Người ta có thể đoán ra tầm quan trọng của những bức thư và tính cấp bách của chúng. Một người sẽ đi theo đường bộ, người kia đi theo đường biển; cả hai phải cố gắng làm sao đến nơi mau chóng nhất có thể.
Tới đây bạn đọc cần được biết nội dung lá thư, và tôi xin trích dẫn như sau:
“ANTIOCH, XII, Kal. Tháng Bảy
Messala gửi Gratus.
Ôi Midas(*) của tôi!
Tôi mong rằng ngài không thấy khó chịu khi tôi gọi ngài như vậy, nhất là khi hiểu rằng nó bắt nguồn từ sự quý mến và biết ơn, cùng với sự thừa nhận rằng ngài chính là người may mắn nhất trên đời. Ngoài ra, hãy kiểm tra để chắc chắn đôi tai ngài vẫn có hình dáng giống hệt như khi sinh ra, chỉ có to hơn theo tuổi tác mà thôi(*).
Ôi, Midas của tôi!
Tôi cần phải kể lại cho ngài một việc rất đáng kinh ngạc mà mặc dù cho tới giờ vẫn chủ yếu là phỏng đoán nhưng tôi tin rằng đáng để ngài để tâm tới. Trước tiên, xin cho phép tôi khơi gợi lại trí nhớ của ngài một chút. Hẳn ngài còn nhớ nhiều năm trước một gia đình quý tộc vốn rất lâu đời và vô cùng giàu có đã sống ở Jerusalem – chính là gia tộc Ben-Hur. Nếu trí nhớ của ngài vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, trên đầu ngài hãy còn một vết sẹo để giúp ngài nhớ tới việc ấy.
Tiếp theo, tôi xin được nhắc lại điều mà ngài hẳn rất quan tâm. Để trừng phạt những kẻ âm mưu ám sát ngài – để lương tâm được thanh thản, tôi mong rằng những vị thần sẽ không coi đó là một tai nạn! Cả gia đình ấy đã bị bắt giam và đưa đi biệt tích, tài sản của họ thì bị tịch thu. Hỡi Midas của tôi, tất cả những biện pháp đó đều được thực hiện với sự đồng thuận của Caesar, vị Hoàng đế công minh và thông thái – cầu mong những đóa hoa tươi sẽ luôn xuất hiện mãi mãi trên bàn thờ của Người! Và vì thế không có gì phải xấu hổ khi nhắc đến số tiền mà chúng ta đã thu được từ nguồn đó. Tôi sẽ không bao giờ thôi biết ơn ngài, nhất là khi hiện tại không giờ phút nào tôi không sung sướng tận hưởng phần mà ngài đã chia cho tôi.
Để chứng tỏ cho sự sáng suốt của ngài – một phẩm chất mà tôi được biết là người con của Gordius(*), tức là người mà tôi đã liều lĩnh ví von với ngài, không được nổi trội cho lắm – tôi xin được nhắc lại rằng ngài đã xử lí nghiêm minh đối với gia đình nhà Hur. Lúc đó, cả hai chúng ta đều cho rằng kế hoạch ấy là hiệu quả nhất để đạt được mục đích bịt miệng chúng và đưa chúng tới chỗ chết một cách tự nhiên. Ngài chắc chắn còn nhớ mình đã làm gì với mẹ và em gái của kẻ thủ ác; thế nhưng giờ nếu tôi khao khát muốn biết liệu chúng còn sống hay đã chết, nhờ hiểu được bản tính tốt bụng của ngài, hỡi Gratus, tôi tin rằng ngài sẽ thứ lỗi cho tôi là một kẻ không rộng lượng như ngài.
Tuy thế, có một điều quan trọng cấp bách hơn, và tôi xin mạnh dạn mời ngài nhớ lại rằng kẻ thủ ác thực sự đã bị nhốt trên chiến thuyền làm nô lệ cả đời – đúng theo luật lệ. Điều có thể khiến cho sự kiện mà tôi sắp thuật lại sau đây càng khó tin hơn là chính tôi đã nhìn thấy và đọc giấy biên nhận hắn vào đội chèo chiến thuyền của ngài hộ dân quan.
Hẳn tới đây ngài đã bắt đầu tò mò hơn về câu chuyện của tôi rồi, hỡi vị vua Phrygia(*) sáng suốt!
Những kẻ nô lệ đã bước chân lên chiến thuyền thường không sống được bao lâu nữa, vì thế kẻ thủ ác lẽ ra đã chết, hay nói đúng hơn, một trong ba nghìn nàng tiên Oceanide dưới biển khơi hẳn đã lấy hắn về làm chồng ít nhất được năm năm nay. Và nếu ngài thứ lỗi cho một giây phút yếu đuối của tôi, hỡi con người rộng lượng và cao quý nhất, tôi xin thú nhận rằng hồi nhỏ tôi từng rất yêu thương hắn, một phần vì hắn rất điển trai – đến nỗi tôi đã có lần gọi hắn là Ganymede – vì thế hắn có quyền được nằm trong vòng tay của nàng tiên xinh đẹp nhất dưới đó. Năm năm qua tôi gần như yên trí hưởng thụ khối gia tài mà ở một chừng mực nào đó tôi mắc nợ hắn vì tưởng rằng hắn đã chết. Tôi thú nhận việc ấy ở đây không hề có ý để giảm bớt nghĩa vụ của mình đối với ngài.
Giờ thì tôi xin nói đến điều cốt lõi nhất.
Tối qua, khi làm chủ một bữa tiệc thết đãi những nhà quý tộc vừa mới tới từ Rome – tuổi trẻ và sự non nớt của họ khiến tôi động lòng – tôi đã được nghe một câu chuyện vô cùng kì lạ. Maxentius, vị quan nhiếp chính mà hẳn ngài đã biết, sẽ tới vào ngày hôm sau để thực hiện một chiến dịch đánh dẹp bọn Parthia. Trong số những người đầy tham vọng đồng hành cùng với ông ấy có cả con trai của nhị pháp quan Quintus Arrius quá cố. Tôi đã từng có dịp hỏi ông ấy về chuyện đó. Khi Arrius dong buồm truy đuổi bọn cướp biển mà sau đó chiến thắng đã đem về cho ông những vinh quang cuối cùng trong cuộc đời, ông không hề có gia đình; thế nhưng khi trở về ông lại mang theo một người con trai kế vị. Tôi xin ngài bình tĩnh khi tôi tiết lộ ai là người sẽ được thừa kế khối tài sản kếch xù ấy! Người con trai và cũng là người nối dõi mà tôi vừa nhắc đến chính là kẻ mà ngài đã đưa lên chiến thuyền – chính là tên Ben-Hur mà lẽ ra đã phải chết bên mái chèo năm năm trước – nhưng giờ hắn đã trở lại với tiền bạc, địa vị, và có lẽ với tư cách một công dân La Mã, để... Trời ơi, vị thế của ngài là quá vững vàng để phải lấy làm lo lắng, nhưng còn tôi, hỡi Midas! Tôi đang trong tình thế vô cùng nguy hiểm – không cần nói hẳn ngài cũng đã biết. Trên đời này ngoài ngài ra có lẽ không ai hiểu nổi cho tôi.
Ngài nghĩ những điều này hoàn toàn vô lí?
Khi Arrius – cha nuôi của kẻ lẽ ra đã được làm chồng của nàng Oceanide xinh đẹp nhất (xin hãy đọc phần trên để hiểu quan điểm của tôi về nàng), lao vào trận chiến với bọn cướp biển, tàu của ông ta đã bị đánh chìm. Trên tàu chỉ còn hai người sống sót – Arrius và người mà ông chọn thừa kế di sản của mình.
Những sĩ quan cứu họ lên từ tấm ván trôi nổi trên mặt biển nói rằng người đi cùng với vị hộ dân quan may mắn ấy là một thanh niên trẻ mà khi đã lên boong vẫn mặc y phục của một tên nô lệ chèo thuyền.
Câu chuyện này theo tôi đã quá rõ ràng; nhưng giả sử ngài vẫn coi nó là vô lí, tôi xin được nói với ngài, hỡi Midas của tôi, rằng ngày hôm qua nhờ số phận run rủi – về chuyện này thì tôi mắc nợ Thần May mắn – tôi đã gặp mặt người con trai bí ẩn của Arrius, để giờ tôi có thể khẳng định rằng dù lúc đó tôi không nhận ra hắn nhưng đó chính là tên Ben-Hur mà trong suốt bao nhiêu năm đã từng là bạn thân của tôi. Chính là tên Ben-Hur mà giờ, dù có là kẻ tầm thường nhất đi nữa, hẳn cũng đang nung nấu âm mưu trả thù khi trưởng thành – ở vào vị thế của hắn thì tôi cũng làm vậy thôi – một sự trả thù mà hắn sẵn sàng đánh đổi cả mạng sống; trả thù cho đất nước, cho mẹ, cho em gái, cho bản thân, và – tôi xin nói đến điều này cuối cùng mặc dù ngài có thể nghĩ rằng nó là thứ quan trọng nhất – phần tài sản đã bị lấy đi.
Cho tới giờ, hỡi người đã rộng lượng ban ơn cho tôi đồng thời cũng là người bạn thân thiết Gratus của tôi, khi đã thấy rằng những đồng sesterti của ngài đang gặp nguy hiểm – mất đi chúng quả là điều tồi tệ nhất đối với một người ở địa vị như ngài. Tôi xin thôi gọi ngài bằng cái tên của vị vua dại dột xứ Phrygia – thế nhưng cho tới giờ, tôi tin chắc rằng (tức là sau khi ngài đã đọc những gì tôi viết bên trên) ngài sẽ không coi đây là chuyện tầm phào nữa mà nhìn nhận nó như một vấn đề cần phải được xử lí ngay tức khắc.
Sẽ thật thô thiển nếu tôi hỏi thẳng ngài cho rằng tôi nên làm gì. Thay vào đó, xin được nói rằng tôi muốn được là học trò của ngài; hay đúng hơn, ngài không khác gì Ulysses(*) dẫn đường chỉ lối cho tôi.
Tôi lấy làm sung sướng khi mường tượng ngài đọc lá thư này khi nó được đưa tới tận tay ngài. Tôi thấy ngài đọc nó một lượt kĩ càng, gương mặt vô cùng nghiêm nghị, và sau đó mỉm cười, sự do dự tan biến, trong tâm trí ngài đã xuất hiện hướng giải quyết, từng đường đi nước bước ra sao, với sự thông thái giống như của Mercury(*) và sự nhanh nhạy như của Caesar.
Mặt trời lúc này đã lên cao. Sau một giờ nữa, hai người mang thư sẽ rời khỏi cửa nhà tôi, mỗi người mang theo một bản sao của lá thư này; một người đi bằng đường bộ, người kia đi bằng đường biển. Tôi coi rằng ngài cần phải được thông báo sớm nhất và cụ thể nhất về sự xuất hiện của kẻ thù tại vùng lãnh thổ này của Đế chế La Mã.
Tôi xin chờ đợi phúc đáp của ngài.
Lịch trình của Ben-Hur chắc chắn sẽ phải theo quy định của cấp trên là quan nhiếp chính, dù có cố gắng ngày đêm thì ngài ấy cũng không thể rời khỏi đây trước một tháng được. Hẳn ngài biết rõ phải khó khăn như thế nào để tập hợp và chuẩn bị cho một đạo quân để chiến đấu trên vùng đất hoang vu không có làng mạc gì.
Tôi đã gặp tên Do Thái đó ngày hôm qua ở vườn cây Daphne; và nếu giờ hắn không còn ở đó, thì cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy mà thôi, tôi lại càng dễ dàng theo dõi hắn. Quả thực, nếu ngay lúc này ngài hỏi tôi hắn đang ở đâu, tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng ta có thể tìm được hắn ở vườn cọ, dưới mái lều của tên phản bội Ilderim, kẻ mà chẳng bao lâu nữa cũng sẽ rơi vào tay chúng ta. Đừng lấy làm ngạc nhiên nếu Maxentius tống tên Arab đó lên một con tàu hướng về Rome như một biện pháp phòng ngừa đầu tiên.
Tôi nói cụ thể nơi ở của tên Do Thái như vậy vì điều đó hẳn là rất quan trọng với ngài, hỡi nhà lãnh đạo sáng suốt, để ngài cân nhắc nên làm gì; bởi lẽ tôi đã biết, nhờ thế tôi có thể tự hào rằng mình đang ngày càng trở nên khôn ngoan hơn, rằng trong mọi kế hoạch của con người luôn có ba yếu tố cần phải chú ý – thời gian, địa điểm, và phương tiện.
Nếu ngài cho rằng đây chính là địa điểm hắn đang ẩn náu, xin đừng do dự giao nhiệm vụ này cho người bạn thân thiết nhất của ngài, người cũng là một học giả trung thành nhất với ngài.
MESSALA.”