← Quay lại trang sách

Chương III Những người hủi rời khỏi hầm mộ

Người đầu tiên ra khỏi thành phố khi cửa cừu được mở ra vào sáng hôm sau là Amrah, dưới cánh tay kẹp một cái giỏ. Những người lính gác cổng không hỏi han gì bà, vì sáng nào bà cũng đều đặn đi ra qua lối đó; họ biết bà là gia nhân trung thành của ai đó, và như thế là đủ.

.

Bà đi về phía thung lũng phía Đông. Sườn núi Olivet xanh thẫm lốm đốm những túp lều trắng của những người tới dự lễ hội. Tuy thế giờ hãy còn sớm quá nên những người ấy vẫn còn ngủ trong lều, mà ngay cả có ai bắt gặp đi nữa thì họ cũng chẳng ngăn cản bà làm gì. Bà đi qua Gethsemane; qua những hầm mộ ở nơi những con đường Bethany giao nhau; qua ngôi làng Siloam của những người đã chết. Thỉnh thoảng thân hình già yếu ấy loạng choạng, và một lần bà phải ngồi xuống nghỉ lấy hơi, nhưng rồi lại đứng lên ngay và vội vã bước tiếp. Những tảng đá khổng lồ ở hai bên đường nếu có tai thì hẳn đã nghe thấy bà tự lẩm bẩm với mình, nếu có mắt thì hẳn đã thấy bà luôn luôn nhìn lên đỉnh núi, trách móc bình minh sao đến sớm quá; và nếu có thể trò chuyện thì có lẽ chúng sẽ kháo nhau rằng, “Người bạn của chúng ta hôm nay đang rất vội vã; hẳn là những người mà bà phục vụ đang đói lắm.”

Khi cuối cùng cũng đến được vườn Hoàng đế, bà đi chậm lại; bởi lẽ thành phố u ám của người hủi đã hiện ra trước mắt, trải dài quanh sườn đồi phía Nam của thung lũng Hinnom.

Hẳn độc giả đã đoán ra rằng bà đang đi tới chỗ phu nhân mà chúng ta còn nhớ sống trong một hầm mộ nhìn ra giếng En-Rogel.

Dù hãy còn sớm, người đàn bà bất hạnh ấy đã dậy và ngồi bên ngoài, còn Tirzah thì vẫn ngủ bên trong. Căn bệnh của bà đã trở nặng ghê gớm chỉ trong có ba năm. Nhận thức được vẻ ngoài ghê tởm của mình, cùng với bản chất thanh nhã, bà che kín cả cơ thể từ đầu đến chân. Bà cố gắng thậm chí còn hiếm hoi lắm mới cho phép Tirzah được gặp mặt mình.

Sáng nay bà đang để đầu trần ngồi ngoài cửa hít thở không khí buổi sáng vì biết rằng không có ai đi ngang qua để cảm thấy kinh sợ vì bà. Trời vẫn chưa sáng hẳn, nhưng đủ để ta thấy được căn bệnh đã tàn phá cơ thể bà như thế nào. Tóc bà trắng như tuyết và cứng đơ, buông xuống vai và lưng như những sợi dây bạc. Mí mắt, đôi môi, lỗ mũi, hai gò má đã bị ăn mất hoặc lở loét. Cái cổ giờ là một mớ vảy màu tro. Một bàn tay thò ra bên ngoài những nếp gấp của cái áo, cứng như bộ xương; các móng tay đã bị ăn hết cả; các khớp ngón tay nếu không chỉ còn da bọc xương thì cũng sưng lên chảy mủ đo đỏ. Mái đầu, gương mặt, cái cổ, bàn tay, đã cho thấy rõ bệnh trạng trên cả cơ thể. Khi nhìn thấy bà như vậy, ta có thể dễ dàng hiểu bằng cách nào vị phu nhân xinh đẹp trước đây của ông hoàng họ Hur lại có thể giấu kín thân phận của mình suốt bấy nhiêu năm.

.

Khi mặt trời nhuộm vàng sườn núi Olivet và núi Tội lỗi, với ánh nắng rực rỡ hơn hẳn ở phương Tây, bà biết rằng Amrah sẽ đến, trước tiên là tới bên cái giếng, rồi tới một phiến đá nằm giữa miệng giếng và chân đồi nơi bà đang ở. Người gia nhân trung thành rồi sẽ đặt những thức ăn bà mang trong giỏ xuống, hứng đầy bình nước đủ dùng trong ngày hôm đó. Trái ngược với cảnh sống đủ đầy trước kia, cuộc viếng thăm ngắn ngủi đó là tất cả những gì còn lại dành cho hai người xấu số. Bà có thể hỏi Amrah về con trai mình, nghe kể lại những thành công của anh hay những tin tức mà Amrah nghe được. Thường thì những gì bà được nghe kể lại đều rất sơ sài nhưng chúng cũng đủ khiến bà sung sướng. Những hôm được tin anh trở về nhà, bà thường xuất hiện ở cửa hầm mộ khủng khiếp của mình từ tận sáng sớm, ngồi ở đó tới trưa, rồi từ trưa đến khi mặt trời lặn, giống như một bức tượng im lìm trong bộ đồ trắng, chỉ nhìn mãi về một điểm duy nhất – phía bên kia đền thiêng nơi ngôi nhà xưa nằm dưới bầu trời tròn vành vạnh, vốn vô cùng thân thiết trong trí nhớ của bà và giờ nó lại càng thân thiết hơn khi anh đang ở đó. Bà không còn gì cả. Bà coi Tirzah cũng như đã chết rồi; còn với bản thân mình, bà chỉ chờ đợi cái chết, biết rằng mỗi giờ mình còn sống là một giờ hấp hối – để đợi cái ngày sung sướng khi cái chết không đau đớn đưa bà rời khỏi trần thế.

Cảnh vật thiên nhiên quanh ngọn đồi cũng gần như hoàn toàn trơ trọi; chim thú lẩn tránh nơi này như thể biết xưa kia và ngày nay người ta sử dụng nó vào mục đích gì; mọi cây xanh lụi tàn chỉ sau một mùa; những cơn gió tàn phá các bụi cây và bãi cỏ, để lại cho cơn hạn hán tận diệt nốt những gì mà chúng không thể nhổ bật lên. Ngồi ở chỗ bà, cảnh vật nơi đây lại càng thêm phần thê lương vì những nấm mộ – mộ ở trên, mộ ở dưới, mộ nằm đối diện – tất cả giờ phủ một lớp sơn trắng mới để cảnh báo những người hành hương. Hẳn có người cho rằng bà sẽ tìm thấy sự khuây khỏa cho tâm trí luôn đau khổ của mình trên bầu trời trong vắt; nhưng than ôi! Để tô đẹp mọi cảnh vật trên thế gian, mặt trời lại đày đọa bà không thương tiếc. Nếu không vì ánh nắng, có lẽ bà đã không trở thành mối kinh sợ với chính mình, và cũng không bị đánh thức một cách tàn nhẫn trong những giấc mơ về Tirzah trước kia. Món quà của đôi mắt đôi khi lại là một lời nguyền khủng khiếp.

Tại sao bà không tự chấm dứt nỗi khổ đau của mình?

GIỚI LUẬT KHÔNG CHO PHÉP BÀ LÀM VẬY!

Một người Gentile có thể thấy câu trả lời này mới nực cười làm sao; nhưng một người con của đất Israel thì không.

Trong khi bà ngồi đó đơn độc trong ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh, với những ý nghĩ ngày càng buồn thảm, bỗng nhiên một người đàn bà loạng choạng bước lên sườn đồi, mệt đến đứt hơi.

Phu nhân vội vàng ngồi dậy quấn khăn che kín đầu, rồi kêu lên bằng giọng the thé đến kì quái, “Không sạch, không sạch!”

Chỉ sau thoáng chốc, không hề để tâm đến lời cảnh báo của bà, Amrah đã phủ phục dưới chân phu nhân. Tất cả tình yêu bị kìm nén suốt bao lâu trong người đàn bà giản đơn giờ như vỡ òa. Sau những giọt lệ và những lời đầy xúc động, bà hôn những y phục của chủ nhân mình, trong khi phu nhân thì cố co mình lại. Khi thấy rằng làm như vậy cũng vô ích, bà đành chờ tới khi cơn xúc động của Amrah trôi qua.

“Bà đã làm gì vậy, Amrah?” phu nhân nói. “Không lẽ bà định chứng tỏ tình yêu với chúng tôi bằng cách làm trái lời tôi hay sao? Mụ đàn bà xấu xa! Bà coi như tàn đời rồi; và bà không bao giờ – không bao giờ được phép trở về với chủ nhân của mình nữa.”

Amrah vẫn nằm vật trên đất bụi mà khóc nức nở.

“Giờ giới luật cũng sẽ cấm bà không được phép trở về Jerusalem. Số phận chúng ta sẽ ra sao đây? Ai sẽ mang bánh mỳ tới? Ôi, Amrah, đồ xấu xa! Tất cả chúng ta thế là coi như xong đời rồi!”

“Xin hãy rủ lòng thương, xin hãy rủ lòng thương!” Amrah phủ phục dưới đất van nài.

“Lẽ ra bà nên tự thương lấy bản thân mình, và như thế cũng là thương chúng tôi. Giờ thì chúng ta có thể bay đi đâu đây? Không còn ai giúp đỡ được chúng ta nữa. Bà là một gia nhân tồi tệ! Cơn thịnh nộ của Chúa giáng xuống chúng tôi đã đủ ghê gớm lắm rồi.”

Tirzah nghe thấy tiếng nói liền tỉnh dậy và đi ra ngoài cửa hầm mộ. Ngòi bút cũng bất lực để mô tả lại vẻ bề ngoài của cô. Quấn kín trong bộ y phục như của ma quỷ, người đầy vảy, lở loét, gần như mù lòa, chân tay sưng lên ghê tởm, ngay cả đôi mắt được tình yêu khiến cho thêm tinh tường cũng không thể nhận ra thiếu nữ ngây thơ thuần khiết xưa kia được nữa.

“Đó có phải là Amrah không mẹ?”

Người gia nhân cố bò tới chỗ cô.

“Ở yên đó, Amrah!” Phu nhân thét lên giận dữ. “Ta cấm bà không được chạm vào Tirzah. Đứng lên đi, và cút ngay trước khi có ai đó ở miệng giếng nhìn thấy bà ở đây. Ôi, ta quên mất, đã quá muộn rồi! Từ nay về sau bà sẽ mắc kẹt ở đây và chịu chung số phận với hai ta. Đứng lên đi!”

Amrah quỳ lên hai đầu gối, nói đứt quãng, hai tay chắp lại, “Ôi thưa phu nhân! Tôi không phải là kẻ giả dối xấu xa. Tôi đến đây để mang tin lành tới cho hai người.”

“Về Judah?” Phu nhân vừa hỏi vừa đưa tay cởi tấm khăn trên đầu.

“Một vị thánh vừa xuất hiện,” Amrah nói tiếp, “và Người có thể chữa lành cho phu nhân. Người chỉ cần nói một lời là người ốm khỏe lại, thậm chí người chết cũng sống dậy. Tôi đến để đưa phu nhân và tiểu thư tới gặp Người.”

“Amrah tội nghiệp!” Tirzah nói với vẻ xót thương.

“Không,” Amrah kêu lên khi nhận thấy sự nghi ngờ trong câu nói đó – “không, những gì tôi nói cũng thật như sự tồn tại của Chúa, thậm chí cả vị Chúa của Israel và cũng là vị Chúa của tôi. Xin hãy đi theo tôi, đừng để phí một giây phút nào. Sáng nay Người sẽ đi qua đây trên đường vào thành phố. Nhìn kìa! Trời đã sáng rồi. Xin hãy nhận lấy đồ ăn này – ăn đi và cùng lên đường.”

Người mẹ lắng nghe chăm chú. Có lẽ chính bà cũng đã từng nghe người ta nói về con người kì diệu đó, vì tới giờ tiếng tăm của Người đã lan tới tận từng ngõ ngách.

“Người là ai?” bà hỏi.

“Một người Nazareth.”

“Ai đã nói cho bà biết?”

“Judah.”

“Judah đã kể cho bà à? Con trai tôi đang ở nhà?”

“Anh ấy đã đến tối qua.”

Phu nhân im lặng, cố kìm nén trái tim đang đập rộn ràng.

“Vậy chính Judah đã phái bà tới để báo với chúng tôi?” Bà hỏi tiếp.

“Không. Anh ấy nghĩ hai người đã chết rồi.”

“Xưa kia từng có một nhà tiên tri cứu chữa được cho một người hủi,” người mẹ trầm ngâm nói với Tirzah; “nhưng đó là vì ông nhận được quyền năng ấy từ Chúa.” Rồi bà lại hỏi Amrah, “Làm thế nào mà con trai tôi biết Người mang quyền năng ấy?”

“Anh đã đi chu du cùng Người, nghe tiếng khẩn cầu của những người hủi và chứng kiến họ ra đi hoàn toàn khỏe mạnh. Trước tiên chỉ có một người, sau đó là cả một toán mười người; tất cả đều được chữa khỏi.”

Người mẹ lại im lặng. Bàn tay xương xẩu của bà run lên. Chúng ta có thể hiểu rằng bà đang cố gắng đồng nhất câu chuyện ấy với đức tin của mình, thứ luôn luôn đòi hỏi sự tuyệt đối, điều mà bà hay biết bao người khác trong thời đại ấy – những nhân chứng cho phép màu của Đấng Christ – và cả vô số những người thuộc thế hệ sau này đều phải làm. Bà không nghi ngờ phép màu đó, vì chính con bà đã tận mắt nhìn thấy chúng theo như lời kể của Amrah; nhưng bà đang cố gắng để hiểu được duy nhất một người có quyền năng thực hiện những điều kì diệu như thế. Hỏi han chi tiết của câu chuyện là một nhẽ, nhưng để hiểu được quyền năng đó đòi hỏi bà trước tiên phải hiểu được Chúa; và ai chờ đợi điều ấy sẽ cứ phải chờ mãi cho tới khi sang thế giới bên kia. Tuy thế, bà không do dự lâu. Bà nói với Tirzah.

“Đây hẳn là Đấng Cứu thế!”

Bà không nói những lời này một cách lạnh lùng như một người đang dùng lí luận để dẹp tan mọi nghi ngờ, mà theo cách nói của một người đàn bà Israel đã quen với những hứa hẹn của Chúa với dân tộc mình – một người đàn bà đầy hiểu biết, sẵn sàng để ngợi ca những dấu hiệu dù chỉ là mơ hồ nhất cho thấy hứa hẹn ấy sắp trở thành hiện thực.

“Đã có lúc ở Jerusalem và khắp Judea người ta kháo nhau câu chuyện về sự ra đời của Người. Mẹ vẫn còn nhớ câu chuyện đó. Tới bây giờ Người đã trở thành một người đàn ông trưởng thành. Đó chắc chắn là Người. Phải,” bà nói với Amrah, “chúng ta sẽ đi cùng bà. Hãy mang ra đây bình nước trong hầm mộ, và bày đồ ăn giúp chúng tôi. Sau khi ăn chúng ta sẽ lên đường.”

Bữa ăn sáng hạnh phúc kết thúc nhanh chóng, và ba người phụ nữ bắt đầu hành trình kì diệu của mình. Khi niềm tin đã lan tới cả Tirzah, họ chỉ còn một nỗi sợ hãi duy nhất. Amrah nói rằng Bethany là nơi người ấy đi khỏi; từ đó tới Jerusalem có ba con đường mòn – một đi qua đỉnh Olivet, một đi qua chân núi, một chạy giữa đỉnh thứ hai và núi Tội lỗi. Ba con đường không cách xa nhau, tuy thế cũng đủ xa để khiến những người xấu số không thể gặp được người Nazareth nếu chọn sai đường.

Sau vài câu hỏi, người mẹ nhận ra rằng Amrah không biết gì về đường đi lối lại bên kia thung lũng Cedron, và càng không biết ý đồ của người mà họ đang tìm kiếm. Bà cũng hiểu rằng cả Amrah lẫn Tirzah – một người theo thói quen của gia nhân, người kia vì tình mẫu tử – đều trông chờ bà dẫn lối cho họ; và bà nhận lấy trách nhiệm đó.

“Trước tiên chúng ta sẽ đi đến Bethphage,” bà nói với họ. “Ở đó, nếu Chúa phù hộ, chúng ta sẽ biết mình cần làm gì tiếp theo.”

Họ đi xuống khỏi ngọn đồi tới Tophet và vườn Hoàng đế, dừng lại trên con đường mòn sâu hoắm được tạo ra bởi bước chân con người sau hàng thế kỷ.

“Tôi thấy sợ đi trên đường lớn,” người mẹ nói. “Tốt hơn là ta hãy đi giữa những tảng đá và những rặng cây. Hôm nay là ngày lễ, và trên các sườn đồi đằng kia tôi có thể thấy dấu hiệu rất đông người đang tụ họp. Bằng cách đi qua núi Tội lỗi, ta có thể tránh được họ.”

Tirzah từ đầu tới giờ bước đi đầy khó nhọc; và khi nghe thấy mẹ nói vậy, trái tim cô như tan vỡ.

“Sườn núi ấy dốc quá, mẹ ơi; con không thể leo lên được.”

“Hãy nhớ rằng chúng ta sẽ tìm lại được sức khỏe và cuộc sống. Con có thấy cảnh vật xung quanh ta bừng sáng không? Đằng kia, những người phụ nữ đang đi theo đường này để tới cái giếng. Họ sẽ ném đá xua đuổi nếu chúng ta cứ đứng ở đây. Cố lên, hãy mạnh mẽ dù chỉ một lần này thôi.”

Người mẹ dù đau đớn không kém đã lựa lời mà động viên con gái mình như vậy. Amrah cũng đưa tay đỡ lấy cô. Cho tới lúc này Amrah chưa hề chạm vào hai người, và hai mẹ con cũng chưa hề chạm vào bà; thế nhưng giờ bất chấp mọi hậu quả cũng như mệnh lệnh của chủ nhân, người gia nhân trung thành tiến tới chỗ Tirzah và choàng tay qua vai cô mà thì thầm, “Hãy dựa vào tôi. Tôi vẫn còn khỏe, mặc dù đã già; chúng ta chỉ cần cố đi thêm một đoạn thôi. Đấy – giờ thì ta đi được rồi.”

Sườn đồi mà họ cố vượt qua lởm chởm đầy hố và tàn tích của những công trình cổ; nhưng khi cuối cùng họ cũng lên được tới đỉnh để nghỉ ngơi, ngắm nhìn cảnh tượng hùng vĩ phía Tây Bắc – nhìn đền thiêng và những khoảnh sân mênh mông của nó, nhìn núi Zion, nhìn những ngọn tháp trắng trường tồn đâm thẳng lên bầu trời – người mẹ cảm thấy như được tình yêu cuộc sống tiếp thêm sức mạnh.

“Nhìn kìa, Tirzah,” bà nói, “Hãy nhìn những tấm vàng lát trên cổng Tráng lệ. Hãy nhìn chúng phản chiếu lại tia lửa của mặt trời, ánh sáng đối chọi với ánh sáng! Con có còn nhớ chúng ta từng lên đó không? Chẳng phải nếu được quay lại đó thì sẽ thật sung sướng hay sao? Và hãy nghĩ xem – nhà chúng ta chỉ còn cách đây một quãng ngắn nữa thôi. Mẹ có thể gần như nhìn thấy nó qua những mái nhà của đền thiêng; và Judah sẽ ở đó đón chào chúng ta!”

Từ bên sườn núi xanh tươi với những cây bằng lăng và cây olive, họ nhìn thấy những cột khói nhẹ nhàng bay thẳng lên trời báo hiệu những người hành hương đã tỉnh giấc, khiến họ nhận ra thời gian đang trôi qua tàn nhẫn đến thế nào và họ cần phải nhanh chân hơn nữa.

Dù người gia nhân trung thành đã cố hết sức nâng đỡ Tirzah để con đường dẫn xuống sườn đồi trở nên dễ dàng hơn, cô gái vẫn rên lên sau mỗi bước chân, có lúc phải kêu thét vì đau đớn. Khi ra tới con đường giữa núi Tội lỗi và đỉnh thứ hai của rặng Olivet, cô gục xuống vì kiệt sức.

“Mẹ hãy cứ đi với Amrah và để con nằm lại đây,” cô yếu ớt nói.

“Không, không, Tirzah. Nếu chỉ mình mẹ được chữa khỏi thì đâu còn ý nghĩa gì? Khi Judah hỏi về con, mẹ sẽ biết nói sao đây?”

“Hãy nói rằng con yêu thương anh ấy.”

Người mẹ đứng dậy, nhìn xung quanh với cảm giác tuyệt vọng, tâm hồn như bị nghiền nát. Niềm vui tối thượng được chữa khỏi với bà gắn liền với Tirzah, người vẫn còn quá trẻ để trong những năm tháng khỏe mạnh sau này có thể quên đi quãng thời gian khủng khiếp phải chịu bao đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần. Đúng vào lúc người đàn bà dũng cảm ấy chỉ còn biết phó mặc mọi sự cho Chúa, bà nhìn thấy một người đi bộ tiến lại thật nhanh từ con đường phía Đông.

“Dũng cảm lên, Tirzah! Vui lên nào,” bà nói. “Mẹ nhìn thấy đằng kia một người có thể chỉ đường cho chúng ta tới chỗ người Nazareth.”

Amrah giúp cô gái ngồi dậy, đỡ lấy cô trong khi người đàn ông kia tiến lại gần.

“Mẹ ơi, mẹ đã quên mất chúng ta là người như thế nào hay sao? Người lạ mặt kia sẽ lẩn tránh chúng ta, và nếu là một người tốt bụng thì hẳn anh ta sẽ chỉ nguyền rủa ta mà không ném đá đuổi đi.”

“Rồi ta sẽ biết.”

Bà không thể trả lời khác đi được, vì người mẹ cũng đã hiểu quá rõ người ta vẫn thường đối xử với những người bị ruồng bỏ như họ như thế nào.

Như đã nói, con đường mà ba người đang ngồi bên chỉ là con đường mòn chứ không phải đường lớn, chạy ngoằn ngoèo giữa những ngôi mộ đá vôi. Nếu người kia vẫn đi trên con đường này, rồi anh ta sẽ đến chỗ họ. Và khi người ấy cứ thế đi, tới gần đến nỗi có thể nghe được tiếng kêu của người mẹ. Bà trùm khăn kín đầu theo đúng yêu cầu của giới luật và kêu lên the thé,

“Không sạch, không sạch!”

Trong sự ngạc nhiên của bà, người ấy vẫn bước tới.

“Các vị cần gì?” Người ấy hỏi, dừng lại ngay trước mặt họ.

“Anh đã nhìn thấy bệnh tình chúng tôi rồi. Xin hãy cẩn thận,” người mẹ nói.

“Thưa bà, tôi là sứ giả của người mà chỉ cần nói một lời là mọi bệnh tật sẽ được chữa khỏi. Tôi không sợ.”

“Đó là người Nazareth?”

“Đấng Cứu thế,” người kia nói.

“Có đúng là Người sẽ đến thành phố ngày hôm nay?”

“Lúc này Người đang ở Bethphage.”

“Đường nào vậy, thưa anh?”

“Đường này.”

Bà chắp hai tay lại ngẩng nhìn lên trời đầy biết ơn.

“Bà coi Người là gì?” Người đàn ông thương hại hỏi.

“Người con của Chúa,” bà đáp.

“Vậy thì hãy ở yên đây. Theo sau Người là một đoàn rước rất đông đảo, thế nên hãy đứng cạnh tảng đá màu trắng bên cạnh thân cây chỗ kia; và khi Người đi qua, hãy đừng sợ hãi gì mà kêu gọi Người. Nếu đức tin của bà cũng lớn như lý trí của bà, Người sẽ nghe thấy bà dù tiếng bà lẫn trong tiếng sấm rền đi nữa. Tôi sẽ đi loan báo khắp đất Israel để mọi người tụ họp ở thành phố này, biết rằng Người đã giáng lâm và sẵn sàng đón tiếp Người. Xin chúc các bà được hưởng phước lành.”

Người lạ mặt ra đi.

“Con có nghe thấy không, Tirzah? Con có nghe thấy không? Người Nazarethe đang đi trên chính con đường này, và Người sẽ lắng nghe lời khẩn cầu của chúng ta. Hãy cố gắng dù chỉ một lần thôi, con ơi, và đi tới chỗ tảng đá đó. Nó chỉ cách có một bước chân thôi.”

Sau khi nghe những lời khích lệ như vậy, Tirzah cầm lấy bàn tay Amrah và đứng dậy; nhưng khi họ vừa bước đi, Amrah nói, “Đợi đã; người ấy trở lại kìa.” Và họ đứng đó chờ đợi anh.

“Xin chúc phúc cho các vị,” anh ta nói khi về tới chỗ họ. “Hẳn các chúng ta đều biết rằng ánh nắng sẽ gay gắt lắm trước khi người Nazareth tới, và đường đến thành phố để lấy nước cũng gần thôi, thế nên tôi nghĩ các vị sẽ cần đến bình nước này hơn là tôi. Hãy nhận lấy nó và vui lên nào. Nhớ kêu gọi Người khi Người đi ngang qua.”

Nói xong, anh ta đưa ra một cái bình đầy nước mà những khách bộ hành vẫn thường mang theo trong những chuyến leo núi; và thay vì đặt nó xuống đất rồi lui ra xa, anh đặt nó vào tận tay họ.

“Anh là một người Do Thái phải không?” Bà ngạc nhiên hỏi.

“Tôi là một người Do Thái, nhưng còn hơn thế nữa, tôi là một tông đồ của Đấng Christ, người đã truyền dạy cho chúng tôi bằng những ngôn từ đơn giản và bằng những việc làm tốt đẹp, để giờ đây tôi có thể sẵn lòng giúp đỡ các vị mà không sợ hãi. Thế giới từ lâu đã biết đến sự nhân đạo mà không thực sự hiểu được ý nghĩa của nó. Một lần nữa, xin chúc các vị được bình an.”

Anh ra đi, và họ từ từ đi tới chỗ tảng đá mà anh đã chỉ, cao ngang tầm đầu người, nằm cách con đường chừng ba mươi yard về bên phải. Đứng trước tảng đá, người mẹ lấy làm hài lòng vì từ đây họ có thể kêu gọi bất kì ai đi trên con đường này, và những người ấy cũng sẽ nhìn thấy họ. Ba người ngồi xuống trong bóng râm, uống nước từ chiếc bình, nghỉ ngơi để lấy lại sức. Không lâu sau, Tirzah ngủ thiếp đi, trong khi hai người còn lại im lặng để không quấy rầy giấc ngủ của cô.