Chương IX Đường tới Calvary
Vào giờ thứ hai của sáng hôm sau, hai người cưỡi ngựa phi hết tốc lực tới tận cửa lều của Ben-Hur, nói rằng muốn được gặp anh. Khi ấy anh vẫn chưa rời khỏi giường, nhưng vẫn ra lệnh cho các gia nhân đón tiếp họ.
.
“Xin chào những người anh em,” anh nói, vì họ là những tướng lĩnh thân tín người Galilee của anh. “Mời các anh ngồi.”
“Không,” người nhiều tuổi hơn đáp lại, “ngồi đây nghỉ ngơi tức là để mặc người Nazareth đó bị giết. Hãy dậy đi, hỡi người con của Judah, và đi cùng với chúng tôi. Người ấy đã bị kết án. Lúc này cây thập giá đã được dựng lên ở Golgotha.”
Ben-Hur bàng hoàng nhìn họ.
“Cây thập giá!” Lúc đó anh chỉ nói được có thế.
“Bọn chúng đã bắt Người đêm qua và đưa ra xét xử,” người kia nói tiếp. “Lúc bình minh, chúng dẫn Người tới trước mặt Pilate. Hai lần viên tỉnh trưởng La Mã đã nói rằng Người vô tội; và đã hai lần Pilate từ chối giao lại Người. Cuối cùng ông ta rửa tay và nói, ‘Mặc các ngươi liệu lấy;’ để rồi chúng trả lời...”
“Ai đã trả lời?”
“Bọn chúng – đám thầy tế và dân chúng, ‘Máu của hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi.’”
“Lạy cha Abraham!” Ben-Hur thốt lên; “một người La Mã thậm chí còn đối xử tử tế với một người Israel hơn là chính đồng bào của người ấy! Và nếu, ôi, nếu người ấy thực sự là con của Chúa, thứ gì có thể gột sạch máu của người ấy khỏi con cháu họ đây? Ta không thể để điều ấy xảy ra – đã tới lúc phải ra tay!”
Gương mặt anh bùng lên vẻ quyết tâm. Anh vỗ hai bàn tay.
“Đem ngựa ra nhanh lên!” Anh nói với người Arab. “Bảo Amrah mang đến cho tôi một bộ y phục mới, và mang gươm ra đây! Đã tới lúc chúng ta xả thân vì Israel, hỡi những người anh em. Hãy nán lại đây chờ tôi một chút.”
Anh ăn vội một miếng bánh, uống một ngụm rượu vang và không lâu sau đã lên đường.
“Anh sẽ đi đâu trước?” người Galilee hỏi.
“Tới tập hợp binh đoàn.”
“Trời ơi!” Người kia đáp lại, hai tay giơ lên.
“Sao anh lại nói vậy?”
“Thưa chủ tướng,” người kia nói với vẻ hổ thẹn, “thưa chủ tướng, tôi và người bạn của tôi đây là hai người duy nhất có đức tin. Tất cả những người khác đã về phe bọn thầy tế hết rồi.”
“Chúng định làm gì?” Ben-Hur dừng cương.
“Hành hình.”
“Không phải là hành hình người Nazareth chứ?”
“Chính là người ấy.”
Ben-Hur từ từ nhìn từ người nọ sang người kia. Anh chợt nhớ lại câu hỏi mà Người đã nói đêm hôm trước: “Khi Cha đã ban cho ta chiếc cốc, không lẽ ta lại từ chối?” Anh đã hỏi thẳng người Nazareth ấy rằng, “Nếu tôi tới cứu, liệu Người có chấp nhận không?” Khi ấy anh đã tự nhủ với mình, “Cái chết của người này là không thể ngăn chặn. Người ấy tìm đến cái chết mà mình đã biết trước ngay từ ngày đầu: nó đến từ ý muốn của một Đấng còn cao cả hơn người ấy nữa: chính là Chúa! Nếu người ấy đã chấp nhận và tự nguyện tìm đến cái chết, những người khác có thể làm gì đây?” Ngoài ra, Ben-Hur cũng nhận ra mưu đồ của mình dựa trên lòng trung thành của những người Galilee đã thất bại hoàn toàn; thực tế, sự phản bội của họ đã khiến mọi ý định của anh tan thành mây khói. Nhưng tại sao điều đó lại diễn ra vào đúng sáng hôm nay chứ không phải bất kì thời điểm nào khác? Một nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy anh. Có lẽ nào tất cả những hoạch định, công sức, và tiền bạc anh bỏ ra đều là đi ngược lại với ý Chúa? Khi anh cầm lấy dây cương và nói, “Hãy cùng lên đường, hỡi những người anh em,” tất cả mọi thứ với anh đều mịt mờ. Khả năng giải quyết vấn đề nhanh gọn mà nếu thiếu nó không ai có thể trở thành một người hùng trong cơn nguy biến giờ lại tê dại đi trong anh.
“Hãy cùng đi nào, hỡi những người anh em; hãy cùng đi tới Golgotha.”
Họ vượt qua những đám đông cuồng nộ đang đi về phía Nam giống như mình. Dường như tất cả mọi người dân ở những vùng phía Bắc của thành phố cũng đổ tới.
Khi được biết có thể gặp được đoàn áp giải người Nazareth gần những tòa tháp trắng của Herod, ba người bạn đi cùng nhau vòng qua phía Đông Nam pháo đài Akra. Trong thung lũng bên dưới hồ Hezekiah, họ không thể đi xuyên qua đoàn người được nữa, và vì thế buộc phải xuống ngựa, dừng chân phía sau một góc nhà.
Họ chờ đợi hệt như đứng bên dòng sông nhìn dòng nước lũ, vì đoàn người vẫn cuồn cuộn đi qua.
Ở những chương đầu của Quyển một, chúng tôi đã cố gắng giúp bạn đọc hiểu được những kinh điển của người Do Thái thời Đấng Christ. Những ghi chép ấy tiên đoán cảnh tượng này, thời điểm này; và bất cứ ai để tâm theo dõi đều có thể nhìn thấy những gì mà Ben-Hur đang chứng kiến khi Đấng Christ bị giải tới nơi hành quyết – một cảnh tượng hiếm có và kì diệu!
Nửa giờ đồng hồ trôi qua, rồi một giờ. Dòng thác người vẫn lướt qua trước mắt Ben-Hur và hai người bạn, chỉ cách họ có một sải tay, tường như vô tận không bao giờ dứt. Khi họ đã đi qua hết, anh có thể nói, “Ta đã nhìn thấy hết những hạng người ở Jerusalem, hết các giáo phái ở Judea, hết các bộ lạc Jerusalem, và người đến từ tất cả mọi quốc gia trên thế giới.” Người Do Thái Libya đi qua, theo sau là người Do Thái Ai Cập, người Do Thái sông Rhine và các nước phương Tây, mọi hòn đảo trong phạm vi thông thương; họ đi bộ, trên lưng ngựa, trên lưng lạc đà, trên kiệu, trên những cỗ xe, mặc vô số loại y phục khác nhau nhưng tất cả đều mang gương mặt kì diệu mà giờ đây được coi là đặc trưng cho con dân của Israel, dù đã phải vượt qua biết bao nhiêu thử thách của thời tiết và cuộc sống; họ nói đủ mọi thứ ngôn ngữ mà loài người từng biết đến, và chỉ qua cái đó ta mới phân biệt được nhóm này với nhóm kia; ai nấy đều vội vã – thích thú, bồn chồn, bu tới đông như kiến – tất cả chỉ để được nhìn một người Nazareth tội nghiệp phải chết cùng với hai tử tù khác.
.
Đám đông ấy phần lớn là người Do Thái, nhưng không phải là tất cả.
Đi cùng với họ là những người thuộc các sắc tộc khác vốn thù ghét và khinh bỉ họ – người Hy Lạp, La Mã, Arab, Syria, châu Phi, Ai Cập, phương Đông. Thế nên khi nhìn vào đoàn người đó, tưởng như ta có thể thấy hết mọi dân tộc trên thế gian cùng có mặt tại buổi hành quyết.
Đoàn người cứ thế đi trong im lặng. Tiếng một vó ngựa giẫm lên viên đá, tiếng những chiếc bánh xe lọc cọc, những tiếng trò chuyện và thỉnh thoảng cả những tiếng kêu gọi nhau thưa thớt là tất cả những gì ta có thể nghe thấy giữa dòng người đông đặc. Thế nhưng nhìn vào mỗi người, ta có thể thấy nét mặt đặc trưng khi họ đang vội vã muốn đi tới thật nhanh để chiêm ngưỡng một cảnh tượng khủng khiếp, một tai họa bất ngờ, hay một thảm họa chiến tranh. Qua những dấu hiệu đó, Ben-Hur đoán đây chính là những người từ phương xa tới Jerusalem dự lễ Quá hải chứ không hề liên quan gì tới phiên tòa xét xử người Nazareth. Thậm chí họ có thể là bạn của người ấy là đằng khác.
Cuối cùng, từ phía những tòa tháp lớn, Ben-Hur nghe thấy phía xa xa vang lên đám đông gào thét.
“Họ đến kìa,” một người bạn đồng hành cùng anh nói.
Những người trên phố dừng cả lại để nghe; nhưng khi tiếng kêu đó vang vọng trên đầu họ, ai nấy chỉ biết nhìn nhau, và sau đó lại im lặng bước tiếp.
Tiếng hò hét ngày một tới gần, và cả không gian như rúng động vì nó. Đúng lúc này Ben-Hur nhìn thấy những gia nhân của Simonides đi cùng với chủ nhân của mình trên chiếc xe lăn, còn Esther thì đi bộ bên cạnh ông; phía sau họ là một chiếc kiệu có rèm che.
“Xin chúc ông được bình an, hỡi Simonides, và cả cô nữa, Esther,” Ben-Hur nói khi gặp họ. “Nếu hai người đang đi tới Golgotha, hãy ở lại đây cho tới khi đám đông đã đi qua hết; sau đó tôi sẽ đi cùng với hai người. Chỗ góc nhà này vẫn còn đủ chỗ để chúng ta dừng chân.”
Cái đầu to lớn của vị thương gia cúi xuống nặng trịch trên ngực. Tới lúc này ông như mới bừng tỉnh và trả lời, “Hãy nói với Balthasar; tôi sẽ làm theo bất kì điều gì ông ấy muốn. Ông ấy đang ngồi trong kiệu.”
Ben-Hur vội vã tới kéo tấm rèm của chiếc kiệu ra. Ông già Ai Cập đang nằm bên trong, gương mặt ốm yếu của ông nhăn lại cứ như thể của một người đã chết. Anh nói ra đề xuất của mình với ông.
“Chúng ta có thể nhìn thấy Người không?” Ông yếu ớt hỏi.
“Người Nazareth? Có, người ấy hẳn sẽ phải đi qua đây ngay trước mặt chúng ta.”
“Lạy Chúa!” Ông già kêu lên sùng kính. “Một lần nữa, thêm một lần nữa! Ôi, đây quả là một ngày khủng khiếp với cả thế gian!”
Không lâu sau, họ đã cùng tới trú chân bên góc nhà. Họ nói chuyện với nhau rất ít, dường như sợ hãi không dám thổ lộ những ý nghĩ thật của mình; tất cả mọi thứ lúc này đều bất định, trong đó những suy nghĩ của con người lại càng khó nắm bắt. Balthasar run run gượng dậy bước ra khỏi kiệu, được một người hầu đỡ thì mới đứng vững. Esther và Ben-Hur thì đứng bên Simonides.
Trong lúc đó dòng người vẫn đi qua nườm nượp không dứt, thậm chí còn đông đặc hơn lúc trước. Những tiếng hò hét cũng tiến lại gần hơn, cao vút trên không trung, trong khi những tiếng khàn khàn thì như lướt đi sát mặt đất. Cuối cùng, đoàn người cũng đi qua hết.
“Thấy chưa!” Ben-Hur cay đắng nói; “Giờ tới lượt những người từ Jerusalem.”
Dẫn đầu đoàn người tiếp theo là một nhóm các thiếu niên, vừa đi vừa hò hét, “Vua của người Do Thái! Tránh ra, dẹp đường cho vua của người Do Thái!”
Simonides nhìn họ vừa hò hét vừa nhảy nhót giống như một đàn châu chấu và nghiêm trang nói, “Thật đáng buồn khi tương lai thành phố của Solomon lại nằm trong tay những kẻ kia, hỡi người con của Hur!”
Một binh đoàn lê dương vũ trang đầy đủ đi phía sau, vẫn lạnh lùng và kỉ luật trong những bộ giáp trụ sáng lóa bằng đồng.
Theo sau họ là NGƯỜI NAZARETH!
.
Người ấy đang hấp hối. Mỗi bước chân người ấy loạng choạng cứ như thể sắp ngã vật ra. Một bộ áo dài bẩn thỉu rách rưới khoác trên vai người ấy bên ngoài bộ áo liền bên trong. Đôi chân trần của người ấy để lại những vết máu đỏ tươi trên những viên đá. Trên cổ người ấy đeo một tấm bảng có ghi chữ. Một vương miện bằng cây gai bị ép vào đầu người ấy, gây ra những vết thương ghê gớm mà từ đó máu chảy xuống đã khô lại thành từng vệt đen trên gương mặt và cổ người ấy. Mái tóc dài bị rối bết lại trong mớ gai. Làn da ở những nơi có thể thấy được thì lại trắng bệch một cách ma quái. Đôi tay người ấy bị trói phía trước. Đâu đó trong thành phố, người ấy đã gục xuống kiệt sức dưới cây thập giá nặng nề mà thông thường những tử tội vẫn phải tự mình vác đi tới nơi hành hình; và lúc này nó đang được một người Do Thái khác vác trên vai. Bốn người lính đi kèm người ấy để bảo vệ trước đám đông, thế mà thỉnh thoảng vẫn có những kẻ lao tới dùng gậy đánh người ấy, nhổ nước bọt lên người ấy. Ấy vậy mà người ấy không hề kêu than một lời, mà cũng không hề ngẩng lên cho tới khi đã tới ngay phía trước ngôi nhà nơi Ben-Hur và những người đi cùng đang trú chân. Ở đó, không một ai là không cảm động bởi lòng trắc ẩn trong mình. Esther bám chặt lấy cha mình; còn ông dù vốn là người cứng rắn nhưng giờ cũng phải run rẩy. Balthasar thì ngã vật xuống không nói nổi lời nào. Đến Ben-Hur cũng phải thốt lên, “Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!” Và rồi cứ như thể thấu hiểu được cảm xúc của họ hoặc đã nghe thấy tiếng nói của anh, người Nazareth ngẩng gương mặt khắc khổ nhìn từng người, để rồi từ đó đến khi trút hơi thở cuối cùng không ai trong số họ có thể quên được ánh mắt ấy. Họ có thể thấy Người đang nghĩ cho họ chứ không phải cho bản thân mình, đôi mắt hấp hối trao cho họ phước lành mà Người không thể nói ra.
“Những binh đoàn của anh đâu, hỡi người con của Hur?” Simonides bồn chồn hỏi.
“Hannas còn biết rõ điều ấy hơn cả tôi.”
“Họ đã đánh mất đức tin?”
“Ngoại trừ hai người này.”
“Vậy thì chúng ta không thể làm gì được nữa, và người này phải chết!”
Gương mặt vị thương gia nhăn lại giật giật khi ông nói, đầu cúi thấp xuống ngực. Ông đã rất tận tụy trong vai trò của mình để hỗ trợ cho kế hoạch của Ben-Hur, bởi chính ông cũng mang những hi vọng giống hệt như anh – những hi vọng mà giờ giống như ngọn lửa tàn lụi không thể khơi dậy được nữa.
Hai người nữa vác thanh ngang của cây thập giá đi sau người Nazareth.
“Kia là ai vậy?” Ben-Hur hỏi những người Galilee.
“Những tên trộm sẽ bị hành hình cùng với người Nazareth,” họ đáp.
Đi tiếp theo là một người đội mũ thầy tu bận y phục dát vàng của thượng tế. Các cảnh binh từ đền thiêng bao quanh bảo vệ người này. Theo sau họ là viên sanhedrin và một hàng dài những thầy tế bận y phục trắng và áo choàng nhiều nếp đủ màu sắc.
“Đó là con rể của Hannas,” Ben-Hur thấp giọng nói.
“Caiaphas! Tôi đã từng nhìn thấy hắn,” Simonides đáp, sau đó ngừng lại một quãng mới nói thêm trong khi mắt vẫn dõi theo viên thượng tế ngạo mạn, “Và giờ thì tôi đã hoàn toàn bị thuyết phục. Với sự chắc chắn bắt nguồn từ sự khai sáng của linh hồn với sự chắc chắn hoàn toàn giờ thì tôi đã hiểu người đi đầu với tấm biển đeo trên cổ mang vị thế đúng như được ghi trên dòng chữ đó – VUA CỦA NGƯỜI DO THÁI. Người ta đã không tới đây chờ đợi một người tầm thường, một kẻ giả danh, một tội nhân. Nhìn kìa! Ở đây có những con người từ khắp mọi nơi – từ cả Jerusalem và khắp đất Israel. Ta có thể thấy bộ áo lễ, bộ áo dài viền đủ màu sắc, bộ y phục tím, cùng những chiếc chuông vàng mà chưa ai từng lấy ra kể từ cái ngày Jaddua bước ra gặp người Macedonia – tất cả đều cho thấy người Nazareth này quả thực là một vị vua. Tôi ước gì mình có thể đứng dậy để đi theo Người!”
Ben-Hur kinh ngạc lắng nghe, trong khi Simonides dường như bừng tỉnh bởi dòng cảm xúc mạnh mẽ trong mình và nói tiếp,
“Hãy tới nói lại với Balthasar, tôi van anh đấy, và hãy cùng lên đường thôi. Đám cặn bã của Jerusalem sắp đổ tới đây.”
Rồi Esther lên tiếng.
“Con có thể nhìn thấy mấy người phụ nữ đang than khóc đằng kia. Họ là ai vậy?”
Theo hướng tay cô chỉ, họ có thể nhìn thấy bốn người phụ nữ đang khóc; một người dựa vào cánh tay của một người đàn ông có nhiều nét rất giống với người Nazareth. Ben-Hur chợt hiểu.
“Người đàn ông ấy chính là tông đồ mà người Nazareth yêu quý nhất; người dựa vào cánh tay người ấy là Mary, mẹ của Đấng Cứu thế; còn kia là những người phụ nữ đến từ Galilee.”
Esther mắt ngấn lệ nhìn theo họ cho tới khi họ khuất hẳn sau đoàn người.
Cuộc trò chuyện trên đây không diễn ra trong bầu không khí im lặng mà trái lại, họ phải nói lớn tiếng thì mới có thể nghe được nhau, giống như khi chúng ta vẫn trò chuyện bên bờ biển giữa tiếng sóng vỗ ầm ầm – sự ồn ào xung quanh họ không hề thua kém chút nào.
Đoàn người đổ tới xem cuộc hành quyết hôm nay cũng chính là ông cha của những kẻ mà chưa tới ba mươi năm sau, dưới sự thống trị của các phe phái, đã xâu xé cả Thành phố Thiêng liêng. Ở đây bọn chúng cũng đông đảo, cuồng tín và khát máu hệt như vậy; cũng sôi sục và giận dữ, được cấu thành bởi cùng những dạng người như nô lệ, chăn lạc đà, thương nhân, những người ngoại quốc đã cải đạo Do Thái hoặc chưa cải đạo, lính gác và những kẻ phục vụ trong đền thiêng, bọn trộm cướp, và cả những kẻ mà không ai biết thuộc đẳng cấp nào nhưng trong những dịp như thế này thì lại xuất hiện, trên người ám mùi những hang đá và hầm mộ cũ – những tên vô lại để trần mái đầu và cẳng tay cẳng chân, tóc và râu rối bù bết lại, trên mình bận bộ y phục màu đất sét; những con thú với khuôn miệng méo xệch gầm lên như loài sư tử gọi nhau trên sa mạc. Vài tên mang kiếm, nhiều kẻ mang giáo và thương; còn phần lớn bọn chúng cầm theo những cọc nhọn và những cây dùi cui xù xì hoặc ná ném đá – với những tên này thì những viên đá được đựng trong túi hay những cái bị tự chế bằng cách buộc vạt trước tấm áo bẩn thỉu. Đây đó trong đám đông xuất hiện những người có địa vị cao sang – những thư ký, tộc trưởng, rabbi, những người Pharisee bận y phục có viền rộng, những người Sadducee bận áo choàng mịn – lúc này những người này vừa hô hào vừa lôi kéo đám đông đi theo. Khi đám đông đã chán cứ hò hét mãi một câu, họ sẽ nghĩ ra một câu khác; khi một lá phổi đồng tỏ ra mệt mỏi, họ lại truyền sức sống cho nó. Tuy thế, tất cả những tiếng hò hét chỉ loanh quanh mấy câu – vua của người Do Thái! Tránh đường cho vua của người Do Thái! – Kẻ làm ô uế đền thiêng! Kẻ báng bổ Chúa! Hãy đóng đinh nó lên cây thập giá! Dường như câu cuối cùng này được đám đông ưa thích nhất, vì rõ ràng nó thể hiện mong muốn của họ, đồng thời cho thấy sự căm thù của họ dành cho người Nazareth.
“Đi thôi,” Simonides nói khi Balthasar đã sẵn sàng, “hãy cùng tiến lên phía trước.”
Ben-Hur không nghe thấy tiếng của ông. Sự xuất hiện của đám đông, sự tàn ác khát máu của nó, tất cả đều khiến anh nhớ về người Nazareth – sự hiền hòa và những phép màu Người dành cho những con người đau khổ mà anh từng được chứng kiến. Những ý nghĩ cứ thế nối tiếp nhau trong tâm trí anh, và anh chợt nhớ lại mình đã mắc nợ Người nhiều thế nào; cái lần mà mạng sống của chính anh nằm trong tay toán lính La Mã khi chúng đưa anh tới nơi mà cái chết cũng chắc chắn và khủng khiếp không kém gì trên cây thập giá; gàu nước mát lạnh mà anh đã nhận được bên miệng giếng ở Nazareth, vẻ thần thánh trên gương mặt của người đã trao nó cho anh; những nghĩa cử sau này; phép màu vào ngày Chúa nhật Lễ lá; và từ đó, sự bất lực không thể đáp lại ơn huệ của người ấy khiến anh đau đớn. Anh tự trách bản thân mình. Anh coi mình vẫn chưa làm hết khả năng; lẽ ra anh có thể luôn đi cùng binh đoàn Galilee của mình để đảm bảo lòng trung thành và sự sẵn sàng của họ; và cả hôm nay nữa – ôi! Đây chính là lúc mà lẽ ra anh phải ra tay! Một đòn mạnh mẽ giáng xuống vào lúc này sẽ không chỉ giải tán được đám đông và giải thoát cho người Nazareth, mà nó còn trở thành lời kêu gọi toàn thể người dân Israel đồng loạt đứng lên chiến đấu giành lại tự do mà họ mơ ước bấy lâu. Cơ hội đang trôi qua trước mặt anh, xa dần khỏi tầm tay anh sau mỗi phút giây, và nếu anh bỏ lỡ nó thì...! Hỡi vị Chúa của Abraham! Anh không thể làm được gì nữa hay sao?
Đúng lúc đó một nhóm người Galilee khiến anh chú ý. Anh chạy băng qua đoàn người tới chỗ họ.
“Hãy đi theo tôi,” anh nói. “Tôi có điều này cần nói với các anh.”
Những người kia tuân lệnh, và khi họ đã đến dưới mái hiên, anh nói:
“Các anh là những người đã cầm gươm cùng tôi, đồng lòng cùng tôi chiến đấu vì tự do và vì vị vua sắp xuất hiện. Các anh đang mang gươm theo mình, và đây chính là lúc chúng ta vùng lên. Hãy đi tìm những đồng bào của mình và nói họ hãy tới gặp tôi ở dưới chân cây thập giá, sẵn sàng để giải cứu cho người Nazareth! Hãy nhanh chân lên! Đừng đứng như trời trồng như vậy! Người Nazareth đó chính là vị vua của chúng ta, và tự do sẽ chết đi theo người ấy.”
Bọn họ nhìn anh với vẻ tôn kính, nhưng không ai hành động.
“Các anh đã nghe rõ chưa?” anh hỏi.
Một người đáp.
“Hỡi người con của Judah,” họ chỉ biết đến anh qua cái tên đó, “hỡi người con của Judah, chính anh mới là người lầm lẫn chứ không phải chúng tôi hay những người anh em của chúng tôi đã tình nguyện chiến đấu cùng anh. Người Nazareth đó không phải là vị vua; và người ấy cũng không có cốt cách của một Hoàng đế. Chúng tôi đã đi cùng người ấy tiến vào Jerusalem; chúng tôi đã nhìn thấy người ấy trong đền thiêng; người ấy đã xúc phạm bản thân mình, chúng ta, và cả đất nước Israel; tại cổng Tráng lệ người ấy đã xoay lưng lại Chúa và từ chối ngai vàng của David. Người ấy không phải là Vua, và xứ Galilee sẽ không bao giờ đứng lên ủng hộ một người như thế. Người ấy sẽ phải chấp nhận cái chết. Nhưng xin hãy chú ý lắng nghe, hỡi người con của Judah. Chúng tôi đã đồng ý chiến đấu cùng anh và giờ đây chúng tôi sẵn sàng rút guom vì tự do. Cả xứ Galilee cũng vậy. Hãy chiến đấu vì tự do, hỡi người con của Judah, vì tự do, và chúng tôi sẽ tới cùng anh dưới chân cây thập giá.”
Giờ khắc quan trọng nhất trong cuộc đời Ben-Hur đã điểm. Nếu anh chấp nhận đề nghị đó và chỉ cần đáp lại một lời thôi, lịch sử có thể đã thay đổi; nhưng đó sẽ là dòng lịch sử bị nắn theo ý muốn của con người chứ không phải ý muốn của Chúa – điều đã và sẽ không bao giờ xảy ra được. Ben-Hur cảm thấy bối rối. Anh không biết phải giải thích những ý nghĩ của mình như thế nào, dù rằng sau này anh nói đó là do ảnh hưởng của người Nazareth, vì khi người ấy sống lại, anh hiểu rằng cái chết là cần thiết để khơi dậy đức tin vào sự tái sinh mà nếu thiếu đi nó, Thiên Chúa Giáo chỉ là một cái vỏ trống rỗng. Sự bối rối ấy khiến anh không tài nào quyết định được. Anh cứ đứng đó, không biết phải làm gì, thậm chí không biết phải nói gì. Anh đưa tay che mặt, run lên vì những giằng xé trong mình, giữa những khao khát của bản thân và một quyền năng cao cả đang chi phối anh.
“Đi thôi; chúng tôi đang chờ anh đấy,” Simonides nhắc lại lần thứ tư.
Anh thẫn thờ đi tới chỗ chiếc xe lăn và chiếc kiệu. Esther đi bên anh. Giống như Balthasar và những người bạn của ông – những nhà hiền triết – trong cái ngày mà họ gặp mặt trên sa mạc, anh đang được Chúa dẫn lối.