← Quay lại trang sách

Chương X (2)

Trong lúc đó, những ý nghĩ trước kia không một lần trở lại trong tâm trí Ben-Hur. Anh cảm thấy hoàn toàn tĩnh tâm. Anh chỉ cầu nguyện để mọi chuyện kết thúc mau chóng hơn. Anh hiểu được những gì đang diễn ra trong đầu Simonides. Ông hẳn vẫn còn đang ngập ngừng chưa dám hoàn toàn tin tưởng. Anh có thể nhìn thấy ông cúi mặt, nghiêm nghị và trầm ngâm. Thỉnh thoảng ông lại băn khoăn nhìn lên mặt trời như thể để tìm hiểu nguyên do khiến trời bỗng tối lại. Anh cũng nhận thấy cả sự lo âu của Esther khi cô níu chặt lấy ông, cố gắng kìm nén nỗi sợ hãi để sẵn sàng thực hiện mọi yêu cầu của ông.

“Đừng sợ,” anh nghe thấy ông nói với cô; “mà hãy ở lại nhìn cảnh này với cha. Mặc dù con có thể sống lâu gấp đôi cha đi nữa, chưa chắc con sẽ có dịp được chứng kiến một điều kì diệu như thế này nữa; và hẳn còn nhiều điều nữa sắp được hé lộ. Hãy cùng nán lại cho tới khi kết thúc.”

Sau ba tiếng rưỡi, vài người thuộc tầng lớp hạ lưu nhất – những kẻ sống trong các hầm mộ quanh thành phố – đi tới chỗ cây thập giá ở giữa.

“Đây chính là kẻ tự xưng là vua của người Do Thái đây,” một người nói.

Những người khác cười phá lên, “Vạn tuế, vạn tuế Vua của người Do Thái!”

Không nhận được lời đáp nào, họ đến gần hơn.

“Nếu ngài là vua của người Do Thái hay con của Chúa thì hãy trèo xuống đây đi,” họ nói lớn.

Nghe câu này, một trong hai tên trộm cùng bị hành hình thôi không kêu la nữa và nói với người Nazareth, “Nếu anh là Đấng Christ, hãy cứu lấy mình và cả chúng tôi nữa.”

Đám người bên dưới cười nhạo và vỗ tay; và rồi trong khi họ lắng tai nghe xem người Nazareth sẽ đáp lại như thế nào, tên trộm thứ hai nói với tên thứ nhất, “Anh không sợ Chúa hay sao? Chúng ta đã bị trừng phạt đích đáng vì những tội lỗi của mình; nhưng người này thì chưa từng phạm tội gì cả.”

Những người xung quanh lấy làm kinh ngạc; giữa những tiếng xì xào, tên trộm thứ hai lại nói, nhưng lần này là với người Nazareth:

“Xin Đấng Cứu thế hãy nhớ đến tôi khi tới vương quốc của Người.”

Simonides giật mình. “Khi tới vương quốc của Người!” Đó chính là điều mà ông vẫn băn khoăn, cũng là điều mà ông đã tranh luận với Balthasar.

“Ông có nghe thấy không?” Ben-Hur nói với ông. “Vương quốc ấy không thuộc về thế giới này. Ông vừa nghe thấy người ấy nói nhà vua sắp đến vương quốc của Người, và đó cũng chính là những lời mà tôi nghe được trong giấc mơ của mình.”

“Suỵt!” Simonides nói với vẻ sốt ruột chưa từng thấy khi đáp lại Ben-Hur. “Xin anh hãy im lặng để nghe người Nazareth trả lời...”

Trong khi ông nói vậy, người Nazareth trả lời rành rọt, đầy tin tưởng:

“Ta có thể khẳng định với con, ngày hôm nay con sẽ được đồng hành cùng ta trên Thiên đàng!”

.

Simonides lắng nghe xem liệu người ấy còn nói gì thêm không; sau đó ông khoanh hai tay lại và nói, “Vậy là đủ, vậy là đủ, ơn Chúa! Bóng tối đã được cuốn đi rồi, và giờ con có thể nhìn thấy rõ ràng bằng đôi mắt còn lại – giống như Balthasar, con đã có thể nhìn bằng đôi mắt của đức tin.”

Người gia nhân trung thành cuối cùng cũng nhận được phần thưởng xứng đáng với mình. Thân thể tàn tật của ông dù không bao giờ chữa lành được; tâm trí ông, dù không thể thôi nhớ đến những khổ đau mình phải chịu hay những năm tháng cay đắng; nhưng một kiếp sống mới bỗng như hiện ra trước mắt ông – một kiếp sống mới phía sau kiếp sống hiện tại – tức là Thiên đàng. Ở đó ông sẽ tìm thấy vương quốc mà mình hằng mơ ước, và tìm thấy vị vua của mình. Trong ông chỉ còn sự yên bình tuyệt đối.

Trước cây thập giá bỗng phát ra những tiếng kêu kinh ngạc. Chính đám thầy tế quỷ quyệt như vậy là đã gộp điều kiện của câu hỏi và sự thừa nhận trong câu trả lời với nhau. Khi người ta đồn khắp nơi rằng người này là Đấng Cứu thế, họ đã đóng đinh người Nazareth lên cây thập giá, và nhìn kìa, trên đó, với niềm tin vững vàng hơn bao giờ hết, người ấy không chỉ khẳng định bản thân mình là Đấng Cứu thế mà còn hứa hẹn cuộc sống trên Thiên đàng với một kẻ bị hành quyết cùng mình. Họ sợ hãi run rẩy vì những việc mình đã làm. Viên thượng tế dù kiêu ngạo là vậy nhưng giờ cũng phải sợ mất mật. Từ đâu người này có được sự tin tưởng tối thượng như vậy nếu không phải là sự thật? Và sự thật đó là gì nếu không phải Chúa? Chỉ cần thêm bất cứ biểu hiện nào từ người đó là bọn họ sẽ co cẳng bỏ chạy ngay.

Tiếng thở của người Nazareth ngày càng trở nên nặng nhọc hơn. Chỉ mới ba tiếng trên cây thập giá mà người ấy đã sắp chết rồi!

Tin này được truyền đi trong đám đông. Tất cả đều im lặng; gió tắt dần; không khí như đặc quánh lại. Trong bóng tối, cái nóng trở nên ngột ngạt. Nếu ai không biết trước thì chẳng thể tin nổi ba triệu người đang đứng vây quanh ngọn đồi đó – họ kinh ngạc đến mức đứng im như trời trồng!

Bỗng nhiên, từ trong bóng tối, phía trên đầu những người vẫn còn nán lại trên đồi bên cạnh người đàn ông đang hấp hối, một tiếng than pha lẫn trách móc vang lên:

“Lạy Chúa! Lạy Chúa! Sao Người lại bỏ rơi con?”

Tiếng than đó khiến tất cả những người nghe thấy đều giật mình. Ben-Hur thì cảm động tới không thể cầm lòng.

Bọn lính mang tới một bình rượu và nước, đặt nó cách Ben-Hur một quãng. Chúng nhúng một tấm mút vào đó, cắm lên đầu gậy để có thể cho những phạm nhân bị hành hình uống. Ben-Hur chợt nhớ lại cơn khát mình đã phải chịu đựng bên miệng giếng gần Nazareth. Trong cơn xúc động, anh giằng lấy tấm mút, nhúng vào bình và chạy tới chỗ cây thập giá.

“Để kệ hắn!” Những người xung quanh kêu lên giận dữ. “Để kệ hắn!”

Không để tâm tới họ, anh cứ thế chạy tới đặt tấm mút lên môi người Nazareth.

Muộn quá, muộn quá rồi!

Gương mặt mà Ben-Hur có thể thấy rõ bị bầm tím, nhuốm đầy máu và bụi, giờ bỗng sáng lên; đôi mắt người ấy mở rộng, hướng lên Thiên đàng như để nhìn ai đó mà chỉ mình người ấy thấy được. Rồi bỗng người ấy kêu lên một tiếng sung sướng và nhẹ nhõm, thậm chí còn có vẻ đắc thắng.

“Kết thúc rồi! Kết thúc rồi!”

Đó là lời reo mừng cuối cùng của con người vĩ đại trong giờ phút lâm chung. Ánh sáng trong đôi mắt tắt đi; mái đầu đội vòng gai gục xuống ngực. Ben-Hur tưởng rằng người ấy đã ra đi rồi; nhưng rồi người ấy chợt tỉnh lại. Anh và những người xung quanh cây thập giá có thể nghe được những lời thì thầm cuối cùng như đang nói với ai bên cạnh.

“Lạy Cha, con xin trao lại linh hồn mình cho Cha.”

Một cơn run lan khắp cơ thể; rồi tới một tiếng thét đau đớn tột cùng, và vậy là sứ mệnh cùng kiếp sống trên cõi trần của người ấy chấm dứt. Người ra đi với trái tim tan vỡ!

Ben-Hur trở lại chỗ nhóm của mình và nói, “Kết thúc rồi; Người đã chết.”

.

Trong một khoảng thời gian cực ngắn, tất cả mọi người trong đám đông đều biết được tin đó. Không ai dám nói lớn xung quanh ngọn đồi chỉ rộ lên những tiếng thầm thì, “Người ấy chết rồi! Người ấy chết rồi!” Bọn họ đã có được thứ mình muốn; người Nazareth đã chết; thế nhưng lúc này bọn họ lại quay sang nhìn nhau kinh ngạc. Máu của người ấy đã đổ xuống đầu họ! Và trong khi họ chưa hết bàng hoàng, mặt đất bỗng rung chuyển. Người này phải ôm lấy người kia thì mới đứng vững. Trong nháy mắt, bóng tối bỗng biến mất, mặt trời ló ra; ai nấy đều nhìn lên những cây thập giá trên đỉnh đồi nghiêng ngả như người say rượu trong cơn động đất. Ba cây thập giá vẫn còn đó, nhưng cây ở giữa thì vừa lắc lư vừa vươn thẳng cao mãi lên bầu trời xanh. Tất cả những người đã từng giễu cợt người Nazareth; tất cả những người đã đánh đập người ấy; tất cả những người đã hùa theo đoàn đi từ thành phố tới bắt người ấy; tất cả những người trong thâm tâm từng muốn người ấy phải chết – họ phải chiếm tới chín phần trong đám đông – đều cảm thấy mình như bị tách riêng ra khỏi đám đông, và nếu muốn sống thì chỉ có cách chạy trốn thật nhanh khỏi tai họa như đang lơ lửng trên trời cao. Ai nấy điên cuồng bỏ chạy trên lưng ngựa, trên lưng lạc đà, trên những cỗ xe, và cả chạy bộ; nhưng cứ như thể giận dữ vì những gì họ đã làm và giờ đang ra tay trả thù cho con người cô độc vô tội kia, cơn động đất đuổi theo họ, khiến họ càng kinh hoàng bởi tiếng những tảng đá khổng lồ vỡ vụn dưới chân mình! Những người kia chỉ còn biết đấm ngực, rít lên kinh hoàng. Máu của người ấy đã đổ xuống đầu họ! Những kẻ vốn sinh trưởng ở đây hay đám người ngoại quốc, thầy tế hay dân thường, bọn ăn mày, Sadducee, Pharisee, ai cũng cuống cuồng giẫm đạp lên nhau. Họ khẩn cầu Chúa, nhưng mặt đất giận dữ như đáp lại thay cho Người. Nó thậm chí không thèm quan tâm viên thượng tế là người cao quý hơn những kẻ có tội khác; để rồi khi lan tới nó cũng khiến lão ta ngã nhào, làm bẩn hết viền áo rực rỡ, nhét đầy cát vào cái mũ giống quả chuông vàng và cả cái miệng của lão. Lão ta và tất cả đám người cùng phải chịu tội về cái chết của người Nazareth!

Khi ánh mặt trời chiếu lên cây thập giá, trên đỉnh đồi vẫn còn lại mẹ của người Nazareth, vị tông đồ và những người phụ nữ trung thành từ đất Galilee, viên bách binh trưởng cùng toán lính, và cuối cùng là Ben-Hur cùng đoàn của mình. Những người này không có thời gian để quan sát cuộc trốn chạy của đám người kia vì còn phải tự cứu lấy mình.

“Em hãy ngồi đây,” Ben-Hur nói với Esther và chỉ xuống chân cha cô. “Giờ hãy che mắt lại, đừng nhìn lên; nhưng hãy tin tưởng Chúa và linh hồn của con người chính trực vừa bị giết hại một cách dã man kia.”

“Không,” Simonides sùng kính nói, “từ giờ hãy gọi Người là Đấng Christ.”

“Xin vâng,” Ben-Hur đáp.

Cơn động đất khiến ngọn đồi rung chuyển. Tiếng kêu thét của hai tên trộm trên cây thập giá thật khủng khiếp. Mặc dù phải chống chọi với những xung chấn, Ben-Hur vẫn kịp để mắt nhìn Balthasar, thấy ông vẫn quỳ trên mặt đất. Anh chạy tới chỗ ông mà gọi, nhưng không thấy tiếng trả lời. Ông già ấy đã ra đi! Ben-Hur chợt nhớ lại mình đã nghe thấy một tiếng kêu như để đáp lại lời nói của người Nazareth trong giờ phút cuối cùng; nhưng lúc ấy anh không ngoảnh lại nhìn xem nó bắt nguồn từ đâu. Từ đó anh luôn tin rằng linh hồn của người Ai Cập đó đã đồng hành cùng với Đấng Cứu thế của mình vượt qua biên giới để vào vương quốc Thiên đàng. Ý niệm đó không chỉ bắt nguồn từ tiếng kêu mà anh nghe thấy, mà còn vì đó quả là cái kết xứng đáng dành cho con người ngoan đạo ấy. Nếu đức tin là phần thưởng dành cho Gaspar, tình yêu là phần thưởng dành cho Melchior, vậy thì hẳn Balthasar phải nhận được một phần thưởng đặc biệt vì đã cống hiến trọn bao nhiêu năm tháng cuộc đời mình cho cả ba đức hạnh – Đức Tin, Tình Yêu, và Nghĩa Cử.

Những người hầu của Balthasar đã bỏ trốn hết; nhưng khi mọi chuyện đã qua, hai người Galilee mang ông già trên kiệu trở về thành phố.

Những người bước vào qua cánh cổng phía Nam của dinh thự nhà Hur vào buổi hoàng hôn của cái ngày đáng nhớ ấy đều có chung tâm trạng buồn bã. Cũng khoảng giờ đó, thi hài Đấng Christ được mang xuống khỏi cây thập giá.

.

Thi hài của Balthasar được mang tới phòng khách. Tất cả người hầu trong nhà đều khóc khi nhìn thấy ông, bởi lẽ ông vốn được hết thảy mọi người yêu quý. Thế nhưng khi thấy gương mặt và nụ cười của ông, họ lau nước mắt và nói, “Tối nay ngài ấy đã được hạnh phúc hơn nhiều so với khi xuất hành buổi sáng.”

Ben-Hur không giao cho gia nhân tới báo cho Iras. Thay vào đó, anh tự mình mang thi hài ông tới gặp cô. Anh tưởng tượng ra nỗi đau buồn của cô. Giờ cô chỉ còn một mình trên thế gian này; đã tới lúc anh nên tha thứ và tỏ lòng xót thương cô. Anh còn nhớ mình không hề hỏi tại sao sáng nay cô không đi cùng họ hay lúc ấy cô ở đâu; anh nhớ mình đã không hề nghĩ tới cô; và trong sự hổ thẹn, anh sẵn sàng làm mọi thứ để dàn hòa với cô, nhất là khi anh sắp mang đến cho cô nỗi đau tột cùng như vậy.

Anh rung tấm rèm che cửa buồng cô; và dù nghe thấy tiếng những chiếc chuông nhỏ bên trong, anh vẫn không thấy ai trả lời. Anh gọi lần nữa. Vô hiệu. Anh kéo tấm rèm sang một bên và đi vào phòng; cô không còn ở đó nữa. Anh vội vã đi lên sân thượng để tìm cô mà không thấy. Anh hỏi han các gia nhân, nhưng không ai gặp cô trong suốt cả ngày hôm đó. Sau khi đã tìm kiếm rất lâu mọi chỗ trong dinh thự, Ben-Hur trở lại phòng khách, ngồi xuống ở chỗ lẽ ra dành cho cô bên thi hài. Anh thầm nghĩ Đấng Christ quả là đã trọng đãi ông – người đã luôn trung thành phụng sự Người. Ở cổng vương quốc Thiên đàng, mọi đau đớn của kiếp sống trần thế, kể cả sự ruồng bỏ của người thân cũng đều được những người tới an nghỉ bỏ lại phía sau và lãng quên.

Khi bầu không khí u ám của tang lễ đã gần nguôi ngoai, vào ngày thứ chín sau khi họ được chữa lành, theo luật định, Ben-Hur đón mẹ và Tirzah về nhà. Kể từ đó trở đi, trong ngôi nhà đó, tên gọi của những Đấng thiêng liêng nhất mà con người biết tới luôn được gắn liền với nhau một cách sùng kính.

CHÚA CHA VÀ ĐẤNG CHRIST CON CỦA CHÚA.

Khoảng năm năm sau sự kiện đó, Esther khi ấy đã là phu nhân của Ben-Hur đang ngồi trong phòng mình trong dinh thự tuyệt đẹp ở Misenum. Lúc đó là buổi trưa. Ánh mặt trời ấm áp của nước Ý đem tới mùa hè cho những bông hồng và những cây leo bên ngoài. Mọi thứ trong căn phòng đều mang đậm nét La Mã, ngoại trừ Esther vẫn mang bộ y phục Do Thái. Tirzah và hai đứa trẻ đang chơi với một tấm da sư tử trên sàn; và nếu quan sát kĩ vẻ quan tâm của cô dành cho chúng, ta có thể đoán ngay rằng đây chính là con của cô.

Thời gian đã tỏ ra rất rộng lượng với cô. Cô xinh đẹp hơn lúc nào hết, và giờ khi trở thành chủ nhân của tòa dinh thự này, cô đã thực hiện được ước mơ của mình.

Giữa khung cảnh bình dị này, một gia nhân xuất hiện ở ngưỡng cửa và nói với cô.

“Một người phụ nữ đang chờ ngoài phòng khách muốn nói chuyện với phu nhân.”

“Hãy để cô ấy vào. Tôi sẽ tiếp cô ấy ở đây.”

Người lạ mặt bước vào. Khi nhìn thấy cô ta, cô gái người Do Thái đứng dậy định mở lời; nhưng bỗng cô ngập ngừng, mặt biến sắc, giật mình lùi lại mà nói, “Trước đây tôi đã từng gặp cô. Cô là...”

“Tôi là Iras, con gái của Balthasar.”

Esther cố nén sự kinh ngạc của mình và ra lệnh cho gia nhân mang ghế tới cho cô gái Ai Cập.

“Không,” Iras lạnh lùng nói. “Tôi sẽ đi ngay.”

Hai người nhìn nhau. Trong khi Esther đã trở thành một thiếu phụ xinh đẹp, một người mẹ sung sướng, và một người vợ hạnh phúc, vận may lại không mỉm cười với địch thủ trước đây của cô. Thân hình dong dỏng cao của Iras vẫn giữ được phần nào vẻ thanh thoát, nhưng một cuộc đời xấu xa đã khiến cả con người cô bị vẩn đục. Da mặt cô xù xì; đôi mắt lớn hoe đỏ, mi dưới phồng lên, trong khi hai gò má đã không còn giữ được sắc hồng như xưa. Đôi môi cô khô cứng, và sự thiếu săn sóc đã khiến cô già đi trước tuổi. Trên mình cô bận bộ y phục tồi tàn. Đất bụi trên đường đã bám cả vào đôi dép cô đi. Cuối cùng Iras là người phá tan sự im lặng đau đớn.

“Kia là con của cô?”

Esther nhìn chúng và mỉm cười.

“Phải. Cô có muốn nói chuyện với chúng không?”

“Tôi sẽ khiến chúng sợ hãi mất,” Iras đáp. Rồi cô tiến lại gần Esther, nhưng khi thấy Esther lùi lại, cô nói, “Đừng sợ. Xin hãy chuyển cho chồng cô lời nhắn của tôi. Hãy nói với anh ấy rằng kẻ thù của anh đã chết rồi. Chính tay tôi đã giết hắn để trả thù những đau khổ mà hắn gây ra cho tôi.”

“Kẻ thù của anh ấy!”

“Chính là Messala. Ngoài ra, hãy nói với chồng cô rằng để chuộc tội cho những điều mà tôi đã gây ra cho anh, tôi đã bị trừng phạt ghê gớm đến mức có lẽ chính anh cũng sẽ rủ lòng thương hại tôi.”

Mắt Esther ngấn lệ, định cất lời đáp lại.

“Đừng,” Iras nói, “tôi không cần sự thương hại hay nước mắt. Hãy nói với anh ấy rằng cuối cùng tôi cũng hiểu ra rằng người La Mã là những kẻ xấu xa như thế nào. Xin cáo biệt.”

Cô xoay người ra đi. Esther bước theo.

.

“Xin hãy nán lại đây mà gặp lại chồng tôi. Anh ấy không còn giữ trong lòng mối thù nào dành cho cô nữa. Anh ấy đã tìm cô khắp nơi. Anh ấy, và cả tôi sẵn sàng làm bạn với cô. Chúng tôi là những người theo Thiên Chúa.”

Nhưng Iras không lay chuyển.

“Không; tôi đã đi theo con đường mình lựa chọn. Cuộc đời tôi sẽ kết thúc sớm thôi.”

“Nhưng,” Esther ngập ngừng “chúng tôi dành cho cô một thứ gì đó hay sao; thứ gì đó để... để...”

Gương mặt của cô gái Ai Cập dịu đi; một thứ gì đó giống như nụ cười lướt qua đôi môi cô. Cô nhìn những đứa trẻ đang chơi trên sàn.

“Có đấy,” cô nói.

Esther dõi theo ánh mắt cô, sau đó trả lời, “Xin cô cứ tùy ý.”

Iras tiến tới chỗ những đứa trẻ, quỳ lên tấm da sư tử, và hôn cả hai. Từ từ đứng lên, cô lại nhìn chúng, sau đó bước ra khỏi cửa mà không nói thêm lời nào. Cô đi thật nhanh, đến nỗi Esther còn chưa kịp nghĩ xem nên làm gì tiếp theo.

Ben-Hur khi được kể lại vì chuyến viếng thăm đó đã hiểu hết – vào ngày hành hình người Nazareth, Iras đã bỏ rơi cha mình để đến với Messala. Anh lên đường ngay để tìm cô nhưng vô hiệu. Họ không bao giờ nhìn thấy hay nghe tin gì về cô ta nữa. Mặt biển xanh tươi đẹp dưới ánh nắng cũng chất chứa những bí mật của riêng mình. Nếu biết nói, có lẽ chúng sẽ kể cho ta nghe về cô gái Ai Cập.

Simonides sống rất thọ. Vào năm thứ mười của triều đại Nero, ông bán đi hết sản nghiệp mà lâu nay mình đã gây dựng ở Antioch. Cho tới giờ phút cuối cùng, ông vẫn giữ được trí óc minh mẫn, trái tim nhân hậu, và là một thương nhân vô cùng thành đạt.

Cũng năm đó, một buổi tối ông ngồi trên chiếc xe lăn trên sân thượng của nhà kho. Ben-Hur và Esther cùng ba đứa con của họ cũng đang ở đó cùng ông. Con tàu cuối cùng bỏ neo dưới dòng sông; trong khi mọi tàu thuyền khác của ông đã được bán hết. Trong suốt quãng thời gian kể từ ngày Đấng Christ bị đóng đinh, gia đình họ chỉ phải đón nhận một tin buồn khi mę của Ben-Hur qua đời. Lúc ấy cùng như lúc này, hẳn nỗi đau của họ sẽ còn lớn hơn nếu không nhờ vào đức tin Thiên Chúa.

Con tàu vừa nói đến vừa mới chỉ đến đây ngày hôm trước, mang đến tin tức về những vụ khủng bố người theo Thiên Chúa giáo ở Rome bởi tay Nero. Những người trên sân thượng đang bàn tán về việc đó thì Mallush người trợ tá trung thành của họ – xuất hiện và đưa cho Ben-Hur một bức thư.

“Ai đã mang tới vậy?” Anh hỏi sau khi đọc.

“Một người Arab.”

“Anh ta đang ở đâu?”

“Người ấy đi luôn rồi.”

“Xin cha hãy lắng nghe,” Ben-Hur nói với Simonides.

Anh đọc to lá thư:

“Tôi, Ilderim, con trai của Ilderim hào phóng và tộc trưởng của gia tộc Ilderim gửi cho Judah, con của Hur.

“Tôi mong rằng anh biết cha tôi đã luôn yêu quý anh nhiều đến thế nào. Hãy đọc văn kiện được gửi kèm đây, và anh sẽ hiểu. Ý muốn của cha tôi cũng là ý muốn của tôi; và vì thế những gì cha tôi trao cho anh đều sẽ thuộc về anh.

“Tất cả những gì mà những người Parthia giành được từ cha tôi trong trận chiến mà ông đã tử trận, tôi đã giành lại được cả – văn bản này cùng với nhiều thứ khác, sự trả thù, và dòng giống của Mira vốn xưa kia từng là mẹ của những vì sao.

“Xin chúc phúc lành tới anh và cả gia đình.

Lá thư này được gửi đi từ chốn sa mạc bởi

Tộc trưởng Ilderim.”

Ben-Hur mở ra một tấm giấy đã ngả vàng như chiếc lá khô. Anh phải rất cẩn thận khi cầm lấy nó và đọc:

“Ilderim, người mang biệt danh hào phóng, tộc trưởng của gia tộc Ilderim, gửi tới con trai.

“Tất cả những gì cha có sẽ thuộc về quyền thừa kế của con ngoại trừ vùng đất bên ngoài Antioch mà người ta gọi là vườn Cọ. Nó sẽ thuộc về người con của Hur, người đã đem lại cho chúng ta vinh quang tột đỉnh trên trường đua – nó sẽ thuộc về người ấy mãi mãi.

“Hãy thực hiện đúng theo ý nguyện của cha. ILDERIM HÀO PHÓNG, tộc trưởng.”

“Cha thấy sao?” Ben-Hur hỏi Simonides.

Esther vui vẻ cầm lấy tờ giấy đọc lại. Simonides vẫn im lặng. Ánh mắt ông hướng về phía con tàu; nhưng gương mặt lại tỏ vẻ trầm tư. Mãi sau ông mới nói.

“Hỡi người con của Hur,” ông nghiêm trang nói, “Chúa đã rất biệt đãi con trong những năm tháng vừa rồi. Con chịu ơn Người rất nhiều. Giờ chẳng phải là lúc con cần quyết định ý nghĩa món quà là gia sản lớn lao ngày một sinh sôi nảy nở trong tay con?”

“Con đã quyết định việc đó từ lâu. Gia sản đó là để phục vụ cho Đấng Gia ơn; không phải một phần, mà là tất cả gia sản, thưa cha. Với con, câu hỏi cốt lõi chỉ là, Làm thế nào con có thể sử dụng nó để phụng sự người cho hiệu quả nhất? Xin cha hãy chỉ lối cho con.”

.

Simonides trả lời.

“Cha đã đứng ra làm nhân chứng cho những khoản lớn mà con đã quyên tặng cho nhà thờ ở Antioch. Giờ thì món quà của vị tộc trưởng hào phóng lại đến với con đúng vào lúc những đồng đạo của chúng ta ở Rome đang bị khủng bố dã man. Đây chính là sự khởi đầu của một công cuộc mới. Ánh sáng không thể lụi tàn ở Rome được.”

.

“Hãy cho con biết làm thế nào để khơi dậy được nó.”

“Những người La Mã, ngay cả Nero cũng vậy, coi trên đời có hai thứ thiêng liêng hơn cả – ngoài ra cha không thấy bọn họ tôn kính bất cứ điều gì – là tro cốt của người chết và hầm mộ chôn chất. Nếu con không thể xây dụng những đền thờ dành cho Chúa trên mặt đất, hãy xây dựng nó bên dưới mặt đất; đồng thời để tránh bị xâm phạm, hãy mang tới đó thi hài của những người đã tử vì đạo.”

Ben-Hur sốt sắng đứng vụt dậy.

“Đó quả là một ý tưởng thiên tài,” anh nói. “Con muốn thực hiện nó ngay lập tức. Chúng ta không có thời gian để trì hoãn. Con tàu đã mang tói tin tức về nỗi thống khổ của những đồng đạo của chúng ta cũng sẽ đưa con tới Rome. Con sẽ lên đường ngay ngày mai.”

Anh xoay về phía Malluch.

“Hãy chuẩn bị tàu sẵn sàng, Malluch, để anh cũng có thể lên đường cùng tôi ngay ngày mai.”

“Tốt lắm,” Simonides nói.

“Còn em, Esther, em nghĩ sao?” Ben-Hur hỏi.

Esther đến bên anh, đặt bàn tay mình lên cánh tay anh và trả lời.

“Người chồng yêu quý của em, nếu anh cho rằng đó là cách tốt nhất để phụng sự Đấng Christ, em sẽ không những không cản trở anh mà còn muốn được đồng hành cùng anh nữa.”

Nếu có độc giả nào tới Rome mà dành thời gian đi đến hầm mộ San Calixto vốn còn cổ xưa hơn San Sebastiano, bạn sẽ thấy gia sản của Ben-Hur đã được dùng làm việc gì và tỏ lòng biết ơn chàng. Từ hầm mộ vĩ đại đó Thiên Chúa giáo đã được truyền đi khắp thế gian để trường tồn hơn cả các Caesar.

HẾT