B###Mùa Hè.
Mười mấy năm về trước.
Tôi sinh ra và lớn lên tại thị trấn Sotogahama, tỉnh Aomori. Nó nằm ở rìa bán đảo Tsugaru, mà có lẽ gọi là điểm xa nhất về phía Bắc của Nhật Bản* sẽ dễ hình dung hơn.
Chỗ tôi chẳng có gì, chỉ thấy biển, núi, vài căn nhà thưa thớt, đồng ruộng, cùng lắm có thể kể thêm đài tưởng niệm Tsugaru trên mũi Tappi. Ngay cả siêu thị cũng mất vài chục phút lái ô tô mới tới. Không có xe hơi thì không thể sinh hoạt bình thường ở chốn này.
Nghe nói trước kia cũng có thời thị trấn nhộn nhịp người câu cá ghềnh đá*, nhưng vì đường biên giới với Liên bang* nằm ngay trước mặt, nên sau khi hai nước cắt đứt quan hệ ngoại giao, khu vực này rơi vào tình trạng căng thẳng, khách tới câu thưa dần. Thậm chí nghề cá ở cảng Hamana còn không biết sẽ đi về đâu.
Dù vậy, thị trấn vốn gần như chưa bao giờ chứng kiến cảnh thịnh vượng, nên người dân ở đây cũng không quá lo ngại, họ vẫn sống rất bình thản.
Nhắc đến Aomori, người ta thường nghĩ về Xứ tuyết*, Dazai Osamu*, Terayama Shuji*, căn cứ quân sự Mỹ Nhật ở Misawa*, lễ hội Nebuta*...
Liên tưởng đến Xứ tuyết cũng đúng thôi, vì thực tế những trận tuyết lớn trút rầm rập từ trên trời xuống (quả thật tuyết rơi rầm rập). Nhưng hình ảnh nơi này trong tôi lại có màu lục sẫm.
Bán đảo Tsugaru là vùng đất của những dãy núi thấp, thoai thoải chạy dài đến bờ biển. Vào mùa hè, sau khi tuyết tan, cây cối trên núi ngả màu xanh đậm xinh đẹp, giống màu xanh crôm trên bảng màu vẽ. Ngược lại, cỏ và chồi non ánh lên màu xanh lá mạ tươi sáng dưới nắng. Tôi vẫn hay ngắm sự tương phản giữa hai sắc xanh đậm và nhạt ấy qua cửa sổ nhà mình. Việc đó khiến tôi cảm thấy được thả lỏng, thư thái, tâm trạng đang u ám cũng bừng sáng, hoàn toàn an tâm.
Nên thơ yên ả là vậy, nhưng xét tình hình thế giới, mười mấy năm nay Aomori luôn thu hút sự chú ý không nhỏ.
Nguyên nhân đương nhiên xuất phát từ vùng đất Ezo do Liên bang chiếm đóng, nằm ngay bên kia eo biển Tsugaru. Vùng đất này chính là biên giới phân chia Nhật Bản và Liên bang, tức Liên hiệp các quốc gia cộng sản hùng mạnh chiếm trọn nửa thế giới.
Ở Aomori, trong chương trình học môn Xã hội lớp Bảy có một phần đặc biệt xoay quanh lịch sử của Nhật Bản và Liên bang giai đoạn cận đại. Chúng tôi phải học để hiểu rõ chuyện đang xảy ra trên mảnh đất quê hương.
Giờ học vô cùng tẻ nhạt, nhưng không hiểu sao, tôi nhớ khá rõ những gì được dạy. Cuối tháng Mười năm 1945, Liên Xô chiếm đảo Hokkaido*. Sau khi Nhật Bản lấy lại quyền sở hữu vào năm 1950, đảo Hokkaido cũ, với tên gọi mới là Ezo, vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô. Năm 1956, tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 20, Khrushchev* ra tuyên bố thành lập Liên bang, hợp nhất nước Nga và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Tây Á thành một khối. Nửa cuối năm 1960, các cuộc biểu tình theo chủ nghĩa dân tộc dâng cao trên lãnh thổ Ezo. Nhằm đối phó với tình hình trên, Liên bang chấm dứt quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1975. Nhật Bản bị chia cắt thành hai vùng Nam Bắc cho đến nay... Những câu hỏi trong bài kiểm tra luôn lặp đi lặp lại, vì thế đến giờ tôi vẫn thuộc làu từng mốc thời gian trong lịch sử cận đại liên quan đến Liên bang.
À không, không hẳn chỉ nhờ giờ học hay bài kiểm tra.
Quan hệ ngoại giao đột ngột bị cắt đứt vào một ngày năm 1975, chia cắt Hokkaido và Honshu, nên ở khu vực này có nhiều gia đình đến giờ vẫn chưa thể đoàn tụ.
Rất đông bạn bè của tôi không được gặp mặt anh chị em họ, lắm đứa còn có ông bà kẹt ở Ezo. Tôi cũng có một người bác mất tích trong thời kì Bắc-Nam chia cắt.
Có lẽ vì thực tế tàn nhẫn ở ngay trước mắt, nên lịch sử cận đại cứ thế ăn sâu vào trí nhớ.
Và một thứ nữa. Là ngọn tháp.
Tôi sẽ kể về ngọn tháp.
Tôi yêu ngọn tháp.
Khi tôi ra đời, nó đã đứng sừng sững ở trung tâm Ezo. Tôi lớn lên, mỗi ngày đều ngước nhìn ngọn tháp ấy.
Từ thị trấn chẳng ra dáng thị trấn nơi chúng tôi sống, nhìn về phía Bắc, tôi thấy ngọn tháp trắng dựng đứng trên vùng đất Hokkaido xa xôi, mảnh như thanh ruột bút chì kim được đúc dài vô tận.
Bây giờ nhớ lại, khung cảnh đó vẫn đượm vẻ kì quái.
Ngày nào tôi cũng ngắm nó, vậy mà cảm giác lạ lùng không hề vơi đi.
Ngọn tháp cao khủng khiếp. Nó lôi tuột ánh nhìn của người ta lên cao như phẩy một nét vẽ thẳng tắp, vươn xa mãi, xa mãi, càng lên cao càng mảnh, rồi mất hút. Không có đỉnh. Không, thực tế là có, nhưng nằm ngoài tầm mắt.
Khi còn nhỏ, tôi thường tưởng tượng cảnh ngọn tháp vươn tới vũ trụ, kết nối với hành tinh khác. Nó thực sự khiến người ta có cảm giác ấy.
Từ bán đảo Tsugaru nơi tôi sống, miễn trên đầu là khoảng không, chỉ cần nhìn về phía Bắc là sẽ thấy ngọn tháp. Ngọn tháp luôn ở đó, cũng hiển nhiên như mặt trời, trăng, sao và mây.
Nếu có điểm gì khiến nó khác mặt trời hay những vì sao, thì đó là tính chất nhân tạo rành rành, muốn đến vẫn đến được. Mặc dù trên thực tế nó thuộc phần lãnh thổ đang trong tình trạng căng thăng vì tranh chấp quân sự của quốc gia khác, rất khó tiếp cận.
Vậy mà tôi từng muốn đến...
... ngọn tháp đó.
Bất chấp tất cả.
Một trong những lý do khiến ngọn tháp để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi cũng như nhiều người khác, là chúng tôi hoàn toàn không biết nó được dựng lên với mục đích gì.
Một tồn tại không rõ lai lịch, nhưng mang lại cảm giác vô cùng choáng ngợp.
Mọi người, hay chính tôi, đều lãng mạn hóa nó.
Đương nhiên người ta không bỏ cả núi tiền xây một tòa nhà chỉ để cổ vũ chủ nghĩa lãng mạn mà chẳng dùng cho mục đích thực tiễn nào. Liên bang có lý do khi xây nó. Nhất định là có.
Đúng, ắt là một động cơ khủng khiếp. Nằm ngoài sức tưởng tượng. Hoặc một mục đích vĩ đại. Hào nhoáng. Đầy quyền năng, có thể thay đổi vạn vật...
Những phỏng đoán nảy sinh từ chỗ vô tri, lớn dần thành niềm khao khát. Ý nghĩ “muốn đến” chuyển sang “phải đến”, cuối cùng trở thành “không đến không được”. Câu hỏi “Ở đấy có gì nhỉ?” được thay thế bằng lời khẳng định “Ở đấy có gì đó!”. Chắc chắn trong ngọn tháp có một bí mật tồn tại vì tôi, sẽ thay đổi toàn bộ thế giới của tôi.
Mình phải tới ngọn tháp. Tôi hạ quyết tâm. Rồi ý nghĩ ấy trở thành lý tưởng không gì lay chuyển nổi. Tôi tin nó chứa đựng mọi tiềm năng của bản thân. Một khi chưa đến đó, tôi không thể đi đâu khác. Nếu không đặt chân tới tháp, tôi sẽ mất hết những cơ hội lẽ ra thuộc về mình. Tôi sẽ chẳng làm nên chuyện gì, biến thành kẻ sống mòn mỏi qua ngày, dần dần tàn lụi trên con đường thẳng không lối rẽ...
Xung quanh còn rất nhiều người ngưỡng vọng ngọn tháp, nhưng có lẽ ít ai thấy ám ảnh vì nó như tôi. Dẫu sao tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng nhận định của mình.
Và Takuya là một trong số ít người có suy nghĩ tương tự.
Đến giờ tôi vẫn hơi giận Sayuri, dù chỉ một chút, quả thật không hơn thoáng dư âm nằm sâu trong tâm trí.
Nói ngắn gọn, sự xuất hiện của Sayuri đã khiến tình bạn giữa tôi và Takuya thành ra gượng gạo, đó là sự thật không thể phủ nhận.
Nhà tôi ở khu Minmaya trong thị trấn Sotogahama, ngay cạnh chùa Gikeiji, nơi nổi tiếng với truyền thuyết về Miyamoto no Yoshitsune*. Nhà Takuya cũng ở Minmaya, chỉ cách nhà tôi khoảng mười phút đi bộ. Vậy mà đến khi vào cấp hai chúng tôi mới biết nhau. Chúng tôi học khác trường tiểu học, vì ranh giới phân chia đối tượng nhập học nằm ngay giữa hai nhà.
Tôi học trường Minmaya, Takuya học trường Imabetsu. Vì thế tôi và cậu không phải bạn từ nhỏ. Chúng tôi chỉ chơi với nhau trong ba năm cấp hai. Nhưng trong lòng tôi, cậu luôn chiếm vị trí đặc biệt hơn so với những đứa bạn khác, bây giờ vẫn thế, dù tôi đã ngoài ba mươi.
Tôi và Takuya gặp nhau lần đầu khi lên cấp hai, học cùng lớp.
Vào ngày khai giảng, từng người trong lớp đều phải giới thiệu bản thân. Có điều tôi hoàn toàn không nhớ cậu đã nói gì, hay hai thằng làm quen như thế nào. Tôi chỉ nhớ chúng tôi bắt đầu chơi với nhau nhờ những chiếc phi cơ. Giữa chúng tôi luôn có sự hiện diện của phi cơ.
Chuyện xảy ra trước kì nghỉ hè, hình như vào tháng Sáu. Đã quá quen với kiểu mỗi giáo viên dạy một môn ở cấp hai và bắt đầu thấy chán, tôi mở cuốn tạp chí máy bay ra, đặt dưới ngăn bàn để đọc.
Bỗng nhiên, gáy bị đập một cái.
Gì thế...
Tôi bực mình quay lại, thấy đứa ngồi sau để mẩu tẩy chì trên lòng bàn tay trái, chuẩn bị búng đi bằng ngón giữa tay phải. Thằng này thấy tôi quay xuống bèn nhe răng cười.
Tôi khá bất ngờ, vì đó là Shirakawa Takuya.
Có một kiểu người không cần bày trò gây chú ý vẫn nhanh chóng trở thành ngôi sao sau khi nhập học. Shirakawa Takuya chính là người như vậy.
Cậu ta đẹp trai, dư sức thu hút con gái. Không những thế, cậu còn có vẻ chững chạc, ra dáng người lớn. Nói chung là toát lên phong thái lôi cuốn người đối diện. Cực giỏi thể thao, thành tích học tập tốt không tưởng. Tôi nghe đồn cậu còn đứng nhất toàn khối trong cả bài kiểm tra học lực đầu năm học lẫn đợt thi giữa kì. Về sau tôi đã chính miệng hỏi, và cậu xác nhận là đúng.
Hóa ra “con nhà người ta” là có thật.
Nghĩ thế, tôi ngạc nhiên, thực lòng còn ngưỡng mộ cậu, nhưng chỉ dừng lại ở mức đó.
Tôi thì nhìn thế nào cũng khác xa kiểu “con nhà người ta”. Không phải tôi không có điểm mạnh, nhưng đụng đến điểm yếu là tôi hoàn toàn vô dụng, mà số lượng sở đoản lại nhiều hơn sở trường. Cho nên dù ở gần người như Takuya, tôi cũng coi như cậu thuộc về thế giới khác hẳn, chẳng muốn so đo.
Vậy mà Takuya lại đột nhiên chủ động trêu tôi. Thật không hiểu vì lý do gì.
Giờ học kết thúc, cậu lập tức đứng dậy, đi thẳng tới chỗ tôi.
“Cái đó là tạp chí máy bay phải không? Cho tôi xem với.” Nói đoạn, cậu giơ tay chỉ cuốn tạp chí hơi thò ra khỏi ngăn bàn.
Tôi ậm ừ “ờ” một tiếng, lôi cuốn tạp chí dày cộp gáy đóng ghim ra đưa cho cậu. Takuya đứng tại chỗ, một tay cầm cuốn tạp chí, tay còn lại thoăn thoắt lật từng trang. Thật là, tên này làm gì trông cũng bảnh!
“Tôi thích loại cánh ngược cơ,” cậu nói. “Dù với người mê máy bay thì gu của tôi chắc hơi xoàng. Nói thế nào nhỉ, cảm giác khá hay ho, kiểu lạ mắt ấy.”
“À, tôi hiểu.” Tôi đáp. “Giống F-16FSW. Nhìn trên ảnh khác hẳn loại F-16 bình thường, nhưng cái khác ấy lại hay hay.”
“Công nhận. Mẫu S-37 Sukhoi nữa, thiết kế khá độc đáo.”
“Mẫu Thần sấm số 2 cũng thế.”
“Chiếc đó xịn thật.” Cậu cười. Nụ cười rất chân thành. “Còn YF-22 và 23, cậu thấy sao?”
Đó là hai mẫu phi cơ thử nghiệm, đang được cân nhắc cho vai trò dòng máy bay chiến đấu chủ lực tiếp theo của quân đội Mỹ.
“Tôi thích con 23 hơn.” Tôi đáp.
“Cậu thích cánh đuôi chữ V hả?”
“Chính xác. Sao cậu biết?”
“Vì tôi cũng thích loại đó.”
Mình và tên này có thể làm bạn. Lúc đó tôi đã tin chắc như vậy.
Cậu hỏi tiếp, “Cậu khá thích máy bay nhỉ?”
Tôi khoe, “Tôi còn lắp máy bay nữa cơ. Ở nhà. Mô hình thôi nhưng bay được đấy.”
“Cái gì!? Thật không?” Cậu có vẻ kinh ngạc tột độ. “Này, cậu nói thật hả? Sao không bảo sớm? Tôi đến xem luôn hôm nay được chứ?”
Cậu chủ động đề nghị, quá đột ngột, khiến tôi hơi khựng lại, “Hôm nay à... Cậu phải đến câu lạc bộ mà, tôi cũng thế.”
“Bỏ một buổi có sao đâu.” Cậu đáp không suy nghĩ. “Câu lạc bộ ngày nào chẳng đến tập được, chứ mong muốn xem máy bay mà không thực hiện luôn thì sẽ nguội mất. Tôi chúa ghét vụ đó. Khỏi nói nhiều nữa, hết giờ học nhớ dẫn tôi đi xem đấy.”
Kết quả là hôm đó, tôi bỏ buổi tập ở câu lạc bộ bắn cung vừa đăng kí tham gia để đưa Takuya về nhà. Có lẽ chính những lời “không thực hiện luôn thì sẽ nguội mất” của cậu đã khiến tôi đổi ý.
Bởi tôi cũng quan điểm như vậy.
Tôi thuộc kiểu nghĩ mà không làm ngay là thấy bứt rứt. Tôi chẳng thể dành thời gian nuôi dưỡng ý tưởng cho tới khi chín muồi. Định làm gì mà không bắt đầu luôn là khó chịu, nên tôi sẵn sàng bỏ qua ăn, ngủ, hay bài tập về nhà. Cũng vì thế mà tôi gặp không ít thất bại lãng xẹt, nhưng tôi chưa từng nghĩ đến chuyện sửa cái tính này.
Ở góc vườn nhà tôi có một nhà kho bằng gỗ đã cũ mà tôi vẫn tiện miệng gọi là gara, tuy cũng thấy thẹn vì nói quá. Tôi vừa kéo cánh cửa cuốn kêu cọt kẹt lên, Takuya liền cảm thán.
“Chà!” Cậu tròn mắt trầm trồ. “Chỗ này oách thật đấy!”
“Thế à?” Tôi hơi ngượng. “Không phải mọi thứ đều do tôi làm ra đâu.”
Gara này vốn thuộc về bác tôi. Bác là anh trai của bố tôi. Tôi chưa gặp ông bao giờ, nhưng luôn cảm thấy thân thiết. Vì bác là người đam mê máy bay.
Bác tôi là sĩ quan Lực lượng Phòng vệ Trên không, mất tích trong thời kì bất ổn sau sự kiện Bắc-Nam chia cắt năm 1975. Khi đó tôi còn chưa ra dời. Nếu chưa hi sinh, chắc ông vẫn đang ở đâu đó bên Liên bang.
Hoàn cảnh ấy khiến bố tôi trở thành người thừa kế căn nhà. Ngay từ lúc đó gara này đã ngổn ngang đồ đạc. Trong gara đầy mô hình thu nhỏ hay mô hình điều khiển vô tuyến* của vô số mẫu phi cơ trên thế giới, bộ phận máy bay thật từ cánh quạt, kính chắn gió đến cần lái, rồi bản vẽ thiết kế, bản vẽ chi tiết, linh kiện lắp ráp máy bay mô hình... Thậm chí có cả máy tiện, máy khoan bàn*, máy dập. Với tôi, đó là một núi báu vật. Bố hoàn toàn không hứng thú với máy bay, tôi lại là con một, nên có thể độc chiếm những gì bác để lại theo nghĩa đen.
Từ bé tôi đã coi gara là sân chơi. Gọi nó là phòng riêng của tôi cũng chẳng phải nói quá. Tuy không thể ngủ lại vì gió lùa, tôi vẫn dành khá nhiều thời gian còn lại trong ngày ở đây. Lúc đó tôi có thể ở bên bộ sưu tập của mình.
Trước khi vào tiểu học, tôi đã mê mệt máy bay và mô hình phi cơ. Ở trường, tôi luôn chọn làm máy bay trong giờ thủ công, khi không có bài tập tôi cũng sẽ chế ra kiểu máy bay nào đó. Máy bay giấy, mô hình bay tự do chạy bằng động lực cao su, máy bay lông chim, đủ loại. Tôi cẩn thận bày từng sản phẩm của mình lên giá gỗ trên tường gara, sẵn sàng cho chúng bay bất cứ lúc nào. Tất nhiên tôi làm cả mô hình RC, đến khi không thỏa mãn với mô hình nữa, tôi tự chế tạo một chiếc máy bay mới theo thiết kế của riêng mình, chỉ tận dụng động cơ có sẵn. Đó là một cỗ máy mạnh mẽ sử dụng động cơ bốn kì, thay vì chạy bảng điện. Tôi hoàn thành nó vào năm ngoái, lúc học lớp Sáu.
“Cậu tự chế ra mấy cái này ấy hả? Siêu thật đấy.”
Takuya bước vào, háo hức nhìn quanh với nét mặt phấn khích. Trông cậu giống hệt đứa trẻ con đứng trong tiệm đồ chơi. Mà thật ra vẻ mặt kia không khác gì biểu cảm của tôi mỗi khi đặt chân vào cửa hàng bán mô hình. Tôi hết sức bất ngờ. Bình thường Takuya luôn tỏ ra chững chạc như người lớn. Tôi cứ nghĩ cậu là thằng con trai không bao giờ hấp tấp, bình tĩnh trước mọi việc, trầm lặng như tượng Phật.
Vì thế, khi phát hiện khía cạnh mới mẻ ở cậu, tôi vừa ngạc nhiên, vừa thấy thân thiết.
Không, đâu chỉ ở mức độ thân thiết. Giây phút đó, tôi đã hoàn toàn bị cậu thu hút.
Takuya sục sạo khắp gara không chút khách sáo, chỉ vào từng mẫu vật trong bộ sưu tập rồi bắt tôi giới thiệu. Đương nhiên, tôi đáp lại rất nhiệt tình. Mẫu đó ra đời bao giờ, xuất phát từ ý tưởng thế nào, gây khó khăn gì trong lúc thực hiện, hoặc mất bao nhiêu tháng mới xong, bộ phận này có được từ đâu...
Tôi vốn luôn muốn chia sẻ với ai đó về những gì đã làm được, khao khát tìm ra người hiểu đúng giá trị của từng thứ mình sáng tạo.
Tôi mang tác phẩm hoàn thành năm ngoái ra ngoài, đưa Takuya bộ điều khiển, lấy đường ruộng gần nhà làm đường băng cho nó cất cánh. Quanh chỗ này chỉ có lác đác vài căn nhà, là nơi lý tưởng để chạy thứ máy bay mô hình.
Khi chiếc máy bay rời khỏi mặt đất, chúng tôi đồng thanh hét lên.
Tôi luôn kích động khi cho phi cơ bay, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ quen được với việc đó.
Lần nào cũng vậy, cơ thể tôi run lên khi nhìn đôi cánh nhân tạo cứng nhắc bay trên trời. Dù quan sát vào thời điểm nào, cho nó bay lên bao nhiêu lần, cảm giác kì lạ ấy vẫn vẹn nguyên, rạo rực lan tỏa khắp sống lưng.
Không cần giải thích cặn kẽ Takuya vẫn biết cách thao tác, cậu còn lập tức nắm được mấu chốt để điều khiển máy bay theo ý mình. Từ phía trên, bộ động cơ nhỏ bé truyền xuống mặt đất nơi chúng tôi đứng xung động của không khí ở tầng cao. Chiếc phi cơ cầm được bằng hai tay khi bay cao, khi xuống thấp, thong thả lượn vòng trên bầu trời vời vợi, loáng thoáng những đám mây nhuốm màu cam.
Hôm đó chúng tôi cũng thấy ngọn tháp mảnh trên đất Ezo rõ mồn một. Takuya cho phi cơ bay về phía Bắc, liệng theo đường tròn hẹp như thể quấn quanh ngọn tháp.
Khoảng không trên đầu đậm mà trong, vòm trời tròn như ống kính máy ảnh, khiến tôi thấy lòng nhẹ bẫng như bị bầu khí ấy hút lên.
“Giờ cậu đang làm dở cái nào? Định làm gì tiếp theo?”
Takuya ngồi xuống chiếc ghế đẩu tròn cạnh bàn vẽ, cất tiếng hỏi. Tôi vừa lau chùi mô hình RC vừa ậm ừ đáp.
“Mới ở giai đoạn lên ý tưởng thôi, tôi chưa bắt tay vào làm. Tôi đang nghĩ đến mấy thứ khá rắc rối. Chẳng biết cụ thể nên bắt đầu từ đâu, có vẻ không khả thi lắm.”
“Gì chứ, bí mật à.”
“Không hẳn là bí mật..” Tôi thoáng ngập ngừng. Tôi muốn làm phi cơ biến hình trong lúc bay.”
“Biến hình? Như F-14* ấy hả?”
“À, kiểu đó cũng hay. Nhưng mà...” Tôi định không nói vì sợ cậu cười cợt, nhưng rồi lại quyết định tiết lộ. “Tôi muốn một chiếc hoành tráng giống X-wing trong Star Wars* cơ.”
Takuya không cười, nhưng có vẻ hơi sốc, “Cái đó cũng bay được hả?”
“Tôi bảo ‘giống’ thôi mà. Bắt chước y chang thì không bay được đâu. Ý tôi không phải thế... Nói sao nhỉ. Kiểu vừa bay vừa thay đổi hình dạng ấy, đẹp, lại còn ngầu.”
“Ừm...”
“Nhưng muốn biến hình mà không tính đến khí động học thì cũng chẳng đâu vào đâu. Tạm thời tôi vẫn đang cân nhắc...”
Tôi cất mô hình RC lên giá, bước tới chỗ Takuya, cầm lấy cuốn sổ để mở trên bàn vẽ. Đó là tập phác thảo tôi dùng để ghi lại những thứ nảy ra trong đầu. Tôi lật cuốn sổ, mở trang ghi chép về máy bay biến hình rồi đặt xuống bàn.
“Tôi đã có vài ý tưởng thiết kế tổng thể. Vấn đề là cơ cấu điều khiển. Thử bao nhiêu cách mà chỉ thu được mấy mớ bòng bong rối tung. Tôi đang lo không làm được cái đó...”
“Này, cho tôi mượn bút chì.” Nãy giờ Takuya ngồi im như tượng xem bản phác thảo, mãi mới lên tiếng, tay với lấy cây bút chì B trong ống bút. Cậu lật trang mới, bắt đầu hí hoáy vẽ.
“Cậu vẽ gì thế?”
“Ở yên đấy chờ tôi.”
Tôi định ngó vào cuốn sổ, cậu liền dùng tay che. Có vẻ cậu không thích để người khác xem thứ đang vẽ dở.
“Cậu thấy cái này thế nào?”
Một lúc sau, cậu đẩy cuốn sổ sang, lúc ấy tôi mới biết được nội dung bức vẽ.
Nó khiến tôi kinh ngạc. Trên trang giấy là những ý tưởng cho bộ phận điều khiển, giúp hiện thực hóa thiết kế của tôi. Cậu vẽ nháp bằng tay không nên phần chi tiết bị lược bỏ, nhìn qua chỉ như tờ giấy lộn. Nhưng khi đọc kĩ những diễn giải bên cạnh, tôi biết đây là thiết kế khá khả thi và sáng tạo. Cơ cấu này cho phép thay đổi hình dạng, đồng thời điều chỉnh trọng tâm giúp ổn định chuyển động trong quá trình bay. Quả là một hệ thống thanh thoát.
Tôi trầm ngâm một lúc rồi nhìn Takuya chằm chằm.
“... Cái này thực sự dùng được đấy.”
“Còn phải nói, tôi vẽ ra để dùng mà.” Takuya tỉnh bơ đáp.
Tôi khá sốc, dẫu không muốn thể hiện ra mặt. Tôi vốn rất tự tin về lĩnh vực này, đừng nói bạn cùng tuổi, ngay cả người lớn trong giới chơi mô hình cũng ít ai đủ khả năng đọ với tôi. Vậy mà cậu lại giải được bài toán mà tôi không sao tìm ra đáp án suốt một, hai tháng nay trong nháy mắt.
Sững sờ hồi lâu, tôi thốt lên, “Cậu là thứ gì vậy?”
“Bố tôi chuyên làm mấy việc liên quan đến thiết kế cơ khí kiểu này mà. Nhờ làm chân sai vặt của ông, tôi cũng biết tự cắt kim loại rồi đủ thứ. Chẳng phải tự mãn gì đâu, chứ mấy cuộc thi Robocon ở trường nghề với tôi chỉ là trò trẻ con.”
“Siêu thật...” Tới lượt tôi thốt ra câu nói mà cậu luôn miệng nhắc đi nhắc lại ngày hôm nay. “Cậu đúng là thiên tài...”
“Cứ khen thoải mái đi.” Takuya đắc ý cười nhăn nhở.
Phấn khích một hồi, tôi chợt nhớ ra.
“Nhưng mà...” Tôi nói. “Ờ, chỗ đó.”
Thiết kế của Takuya có một vấn đề. Đương nhiên, cậu cũng biết rõ.
Tôi thở dài nói nốt, “Hệ thống phức tạp thế này, gần như không thể chế tạo theo tỉ lệ mô hình...”
“Cũng phải.”
Ý tưởng cậu vẽ ra quá tinh xảo, yêu cầu độ chính xác rất cao, quả thật khó chế tạo ở kích thước mô hình.
“Làm máy bay thật thì còn có thể...” Tôi bâng quơ nói, giật mình vì những lời vừa thốt ra.
“Được đấy. Đã thế thì chế hẳn máy bay thật đi. Dùng máy tính điều khiển.” Takuya thản nhiên nói.
Máy bay thật ư... Khi lỡ miệng nói ra tôi đã giật mình, nhưng nghĩ lại mới thấy, tại sao trước giờ tôi không có dự định hay ý muốn chế tạo phi cơ thật nhỉ? Quả là khó hiểu.
Làm máy bay thật...
Đúng rồi, giờ mình có thứ kia mà.
Suy nghĩ đó khiến tôi phấn khích, say mê theo cách chưa từng có.
“Này, tôi có chuyện muốn bàn.”
Takuya lên tiếng. Tôi quay sang nhìn cậu.
“Gì?”
“Hết kì nghỉ hè là đến lễ hội trường nhỉ? Lấy đó làm thời hạn, tôi với cậu chế tạo cái gì đi?”
“Ờ, được đấy.”
Đây là ý tưởng hay. Có lẽ tôi cũng hơi nản khi cứ một mình đưa ra quyết định, một mình tiến hành mọi thứ. Tôi hỏi, “Nhưng cậu bảo nên làm gì đây?”
“À...” Cậu cười tươi. “Cái mà cả tôi và cậu đều chưa làm bao giờ.”
Chúng tôi quyết định chế tạo phi cơ phản lực điều khiển bằng sóng vô tuyến. Trước giờ tôi mới làm máy bay cánh quạt, chưa làm chiếc nào chạy động cơ phản lực dùng cho mô hình.
Nghe tôi nói vậy, Takuya đáp “Chính thế”, tay trỏ vào mặt tôi.
“Nhưng động cơ phản lực dùng cho mô hình đắt lắm đấy. Hét giá sơ sơ đã hơn một triệu còn gì. Đồ cũng phải vài trăm nghìn.”
“Dĩ nhiên là tôi biết.” Mặt Takuya tỉnh queo.
“Rồi cậu định làm thế nào?”
“Không nhất thiết phải mua, kiếm nguồn rồi xoay xở đem về là được đúng không?”
“Cậu nói cái gì thế? Kiếm nguồn với xoay xở là sao?”
“Thôi, chuyện đó để tôi lo. Tôi có cách rồi.”
Vài hôm sau, vào Chủ nhật, Takuya mang động cơ phản lực dùng cho mô hình đến nhà tôi thật. Trên poocpaga xe cậu còn chở một can nhựa nhỏ dựng nhiên liệu dùng cho máy bay phản lực. Động cơ cậu mang đến không phải đồ mới, rõ ràng đã qua sử dụng, nhưng là hàng do Tây Đức sản xuất nên chất lượng cực tốt. Chính là chiếc động cơ khiến tôi thở dài thèm thuồng mỗi khi xem ảnh trong catalô.
Tôi dành khá nhiều thời gian vuốt ve, tận hưởng bề mặt mát lạnh của kim loại, ngắm nghía từ mọi góc độ, tán thưởng hình dáng đẹp hoàn hảo không chút dư thừa của nó. Mùi nhiên liệu xộc vào mũi cũng khiến tôi mê mẩn. Lùa ngón tay qua những rãnh xoắn tròn ở cửa lấy khí của động cơ, tôi có cảm giác một dòng điện vừa chạy khắp người. Thì ra trên đời có thứ xinh đẹp, quyến rũ nhường này. Tôi suýt quên mất cả thời gian lẫn Takuya ở ngay bên cạnh.
Một lúc sau, tôi thình lình quay sang hỏi cậu, “Nhưng này, làm thế nào cậu có được nó?”
Cậu thoáng bối rối, “À, chuyện đó... Muốn nghe tôi kể không?”
“Thôi đi, cậu đã làm gì?”
“Nói ra cũng được, nhưng tôi nghĩ cậu không nên hỏi đâu. Nếu biết, cậu sẽ phải dùng nó trong mặc cảm tội lỗi đấy.”
“Ý cậu là...”
Có vẻ Takuya đã dùng phương thức không đứng đắn cho lắm để lấy được thứ này. Chắc mặt tôi lúc đó rất nhăn nhó. Takuya thì chẳng buồn mặc cảm, hào hứng nói tiếp, “Kệ đi. Dù sao cũng mang đến đây rồi. Nó muốn bay trên trời chứ không thích nằm chết gí trong kho đâu.”
Nói đoạn, cậu gõ “boong boong” lên động cơ. Câu trả lời đó đã chấm dứt màn chất vấn, tôi không hỏi thêm gì nữa.
Sau này tôi dần hiểu ra, ở Takuya có một phần hư hỏng khác xa vỏ bọc học sinh ưu tú thường thấy. Tôi không rõ nó thuộc về bản chất, hay cậu chỉ cố tỏ vẻ phá phách.
Có thể kể ra vài ví dụ, hút thuốc lá là một trong số đó. Dù mới học lớp Bảy, cậu đã nghiện thuốc khá nặng.
“Tôi phải đóng vai con ngoan trò giỏi mà. Căng thẳng tích tụ. Cậu coi như không biết đi?”
Cậu nói thế khi chúng tôi đang đo kích thước động cơ, miệng nhả khói dù chẳng có vẻ ngon lành cho lắm. Takuya là đứa cẩn thận, những người xung quanh tuyệt nhiên không biết cậu hút thuốc. Nhưng trước mặt tôi, Takuya lại bình thản hút hết điếu này tới điếu khác.
Vì chuyện này, tôi phải hết sứt chú ý không để tóc tai hay quần áo bị ám mùi, kẻo bố mẹ và thầy cô nghi ngờ.
“Cậu biết bàn là hơi nước dùng để làm phẳng nếp nhăn trên áo vest chứ? Lấy cái đỏ ủi qua là hết mùi thuốc ngay.”
Nghe lời Takuya, ngày nào tôi cũng mượn bàn là của bố, ủi một lượt quần áo đồng phục. Cũng nhờ vậy, suốt ba năm cấp hai chơi với Takuya, tôi là một thanh niên khá tươm tất.
“Con ngoan trò giỏi trông thế mà mệt nhỉ...” Tôi thở dài, lầm bầm. “Nhưng tôi vẫn muốn thử làm học sinh ưu tú một lần xem sao, có tí áp lực cũng được.”
“Tôi nghi ngờ câu đó đấy.” Takuya bỏ tàn thuốc vào chai trà Ô Long rỗng, cười thăm dò. “Cậu chẳng bao giờ có ý nghĩ ấy, chỉ giỏi khoác lác.”
“Sao lại không? Tôi muốn thử thật mà.”
“Không, cậu không nghĩ thế. Tôi biết mà.” Takuya tự tin khẳng định. “Tôi thấy cậu mới đáng ghen tị.”
Câu nói tiếp theo của cậu làm tôi hơi bất ngờ, “Sao tôi lại đáng ghen tị?”
“Cậu chỉ làm việc muốn làm, thư thả theo cách riêng. Mặc kệ xung quanh nói gì, cậu cứ là chính mình. Tôi thích thế lắm, nhưng người như tôi không giỏi sống kiểu đó.”
“Vậy à...”
Giọng Takuya trầm lắng khác thường, khiến tôi cũng chùng xuống đôi chút.
“Tôi nổi bật đúng không? Chắc phải đến mức hơi chướng mắt.”
“Ừ.” Tôi thành thật đáp. Đúng là cậu làm gì cũng gây chú ý.
“Nổi bật nghĩa là phải thuận theo ánh mắt hay đánh giá của người khác. Bị ràng buộc, không hành động theo ý mình. Trông thế mà mệt lắm đấy.”
“Ừm.”
Tôi lẩm bẩm. Đây là lần đâu tiên tôi nghe điều này. Hóa ra thế giới của mỗi người lại khác nhau. Chỉ cần góc nhìn thay đổi, dù ở cùng không gian, cùng trường học, cảm nhận về mọi thứ vẫn chênh lệch rất nhiều.
“Cho nên từ đầu năm học tôi đã để ý đến cậu. Tôi thấy cậu vừa hợp tính, vừa đáng sợ. Cứ bảo nhạt nhẽo, không nổi bật, nhưng nhãng đi một cái là có thể làm ra chuyện vĩ đại gì đó, ở cậu có kiểu áp lực như thế đấy. Thành ra tôi chợn.”
“Ừ, vậy à.” Tôi nhìn xuống bộ động cơ, loay hoay thao tác, giọng nhát gừng. Thật ra trong thâm tâm, tôi vô cùng xúc động.
Takuya nói về điểm yếu của mình vô tư như kể chuyện phiếm. Cậu đem lại cảm giác kì lạ mà trước nay tôi chưa từng gặp. Cách nói chuyện không câu nệ cũng khiến tôi bất ngờ.
Tôi vốn thật thà, hay ít nhất, không phải loại người quá phức tạp. Còn cậu đã sớm biết tạo vỏ bọc làm hài lòng người khác rồi tùy ý gỡ nó xuống khi muốn sống thật với bản thân. Với tôi, việc đó thực sự đáng kinh ngạc và vô cùng mới mẻ.
Quả thật ở Takuya có những điểm thu hút tôi rất mạnh mẽ.
“Nhưng mà, hút thuốc có hại cho sức khỏe đấy.” Tôi nghĩ mình nên nói gì đó, bèn đưa ra lời cảnh báo chiếu lệ.
Takuya châm điếu thuốc mới với vẻ mặt hơi khó chịu, rồi đột nhiên nhoài người phả khói thuốc vào mặt tôi.
“Cậu làm cái gì thế hả!”
Tôi ho sù sụ, vừa dùng tay xua khói vừa nói. Takuya nở nụ cười thâm sâu kì lạ.
“Có sao đâu. Tôi với cậu cùng chết vì ung thư phổi là cùng.”
Chúng tôi có thể chọn làm mô hình theo tỉ lệ phi cơ thật, hoặc một khung máy chính thống với hình dáng tương tự.
Tôi hiểu rất rõ làm vậy nó sẽ bay. Tôi đã khá trầy trật tự học về khí động lực, cũng từng thiết kế và vận hành thành công máy bay của riêng mình, vì thế tôi có tự tin về điểm này. Điều tuyệt vời khi thiết kế phi cơ chính là, chỉ cần thiết kế chính xác, chế tạo đúng kích thước đã tính toán, mô hình chắc chắn sẽ cất cánh thành công. Nếu nó không bay thì chỉ có hai nguyên nhân, hoặc thiết kế sai, hoặc kĩ năng thao tác không đủ.
Tôi tự tin trong cả hai vấn đề đó. Không cần quá dụng công, sản phẩm của tôi vẫn bay được. Nhưng làm mãi theo lối đó cũng chán. Tôi muốn thử thách.
Tôi còn nghĩ, vật giống phi cơ bay trên trời là chuyện hiển nhiên. Tôi muốn tạo ra “vật thể bay có hình thù kì dị”. Tôi muốn thử làm một thứ mà chính mình cũng chưa chắc có thành công hay không.
“Kiểu cánh bay* thì sao?”
Takuya mở cuốn Fan Hàng không, chỉ bức ảnh bên trong. “Như chiếc này chẳng hạn. Trông giống UFO, mới lạ đấy chứ?”
“Hình dáng hay thật. Nhưng tôi thấy cũng dễ bay mà.”
“Cậu đúng là đồ lắm chuyện.” Takuya trợn một mắt, tỏ vẻ bó tay. “Muốn làm thứ bay được mà lại bảo không thích loại dễ bay.”
“Chịu thôi, biết trước kết quả chán lắm.”
“Kiêu ngạo quá đấy.” Cậu nói qua khóe môi ngậm điếu thuốc cháy dở. “Có điều, tôi cũng hiểu cảm giác đó.”
“Cậu hiểu? Thật không?” Tôi hỏi.
“Tất nhiên là thật.” Cậu đáp. “Thứ chưa thấy bao giờ. Chuyện chưa biết. Trải nghiệm chưa từng có. Cảm giác chưa từng trải qua. Đấy cũng là những thứ tôi muốn. Trên đời chỉ có một thứ thực sự giá trị. Nói ngắn gọn chính là ‘vô tri’.”
“Nói thì nghe hay thật đấy...”
“Máy bay cánh tròn thì sao?”
“Cánh tròn à...”
Tôi thử cân nhắc lựa chọn này. Máy bay cánh tròn là loại phi cơ có cánh chính dạng vòng kín hoặc ống trụ. Vì cánh không có đầu mút, nên máy bay không gặp phải hiện tượng mất lực nâng ở cánh. So với cánh phẳng, diện tích mặt tiếp xúc của cánh tròn nhỏ hơn, thoạt nhìn khó mà bay được, nhưng tôi vẫn có thể làm cho chiếc cánh nhỏ đó bay. Nói cho dễ hình dung thì nó gần giống tên lửa. Chỉ là...
“Có vẻ khó đây...” Tôi buột miệng.
“Đúng ý cậu còn gì?” Takuya chộp ngay câu này để chặn họng tôi. “Quyết rồi nhé.”
Và từ hôm đó, chúng tôi bắt đầu vẽ thiết kế. Takuya vốn không biết nhiều về khí động lực, nhưng sau một đêm, cậu đọc hết ba cuốn sách chuyên môn tôi cho mượn và đạt đến trình độ có thể chế tác mô hình mà chẳng gặp khó khăn gì cả. Chỉ mất một đêm, cậu đã tiếp thu hết những kiến thức mà tôi mất khá nhiều thời gian mới học được. Tố chất thiên tài thật đáng gờm. Tôi phát hoảng, gần như sợ hãi khả năng của cậu, nhưng có bạn bè cùng trình độ hiểu biết quả là điều đáng quý. Đó là lần đầu tiên tôi gặp một đứa bằng tuổi dùng máy tiện hay máy phay ngang cơ.
“Nhà tôi cũng có cái máy thế này, với lại từ bé tôi đã thích chế tác. Giờ tay tôi vẫn còn đủ mười ngón là kì tích đó.”
Takuya nói, mỉm cười khiến khóe miệng tôi cong lên theo. Khi đã quá đồng cảm với nhau, người ta sẽ bật cười. Chuyện tay tôi còn đủ mười ngón cũng không khác kì tích là mấy.
Thiết kế khí động quả thật rất khó, nhưng cả hai đã xoay xở được. Đương nhiên, tôi và Takuya đều không thích thiết kế chỉ để bay. Chẳng những bay tốt, nó còn phải bay thật ngầu. Chúng tôi vẽ các ý tưởng ra giấy, sửa chỗ này, chỉnh chỗ kia, cuối cùng khi hoàn thành bản vẽ ưng ý thì tháng Bảy đã qua.
Chúng tôi dùng sợi cacbon và gỗ balsa* làm thân máy. Lý do thì nhiều, nhưng chủ yếu là vì ở nhà tôi có sẵn cả núi, đến mức đủ đem bán. Từ tận đáy lòng, tôi vô cùng biết ơn người bác chưa bao giờ gặp mặt.
Cùng ai đó chế tạo một thứ là việc rất vui vẻ.
Suốt kì nghỉ hè, tôi và Takuya ở lì trong gara làm máy bay. Chúng tôi im lặng cắt tạo hình, gia công vật liệu bằng giấy nhám với bộ mặt nghiêm túc. Khi thực sự tập trung làm cái gì đó, người ta sẽ không nghe thấy bất cứ âm thanh nào, cũng chẳng thốt ra lời.
Ngay cả lúc ấy, tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của người đồng sự bằng một giác quan khác, không phải tai hay mắt. Tôi không biết cảm giác của Takuya thế nào. Nhưng tôi đã hi vọng, và tin chắc, cậu cũng nghĩ như tôi.
Chúng tôi tán gẫu khi giải lao. Toàn chuyện lặt vặt, từ thành phần gia đình, chuyện về đứa nào đó trong lớp, đến chương trình ti vi ngày xưa thường xem.
Thỉnh thoảng, chúng tôi tạm gác việc chế tạo lại, lên tàu vào thành phố Aomori chơi. Mua sắm, ăn uống ở cửa tiệm trong trung tâm thương mại bên trên nhà ga, đi bơi. Tôi không hề cảm thấy hào hứng một cách vô cớ như những lần đi chơi với bạn mới quen. Tôi và Takuya hợp nhau như thể hai thằng đã làm bạn nhiều năm nay.
Tới ngày 20 tháng Tám, thời điểm kì nghỉ hè ngắn ngủi ở Tohoku kết thúc, thân máy gần như đã hoàn thiện. Hội trường diễn ra vào ngày 25 tháng chín, vậy là chúng tôi dành trọn tháng còn lại để sơn máy, tinh chỉnh và bảo dưỡng động cơ.
Chúng tôi chọn màu xanh dương cho thân máy bay.
“Màu xanh tạo cảm giác nhanh nhất.”
Takuya nói. Tôi ồ lên trầm trồ. Cậu bảo vậy thì chắc phải có bằng chứng khoa học hay tâm lý học gì đó. Khi tôi hỏi, cậu trả lời.
“Không, cảm quan cá nhân thôi.”
Tôi hơi thất vọng. Nhưng xanh dương là màu đẹp. Tôi rất thích màu xanh của đội phi cơ Blue Impulse*.
Tôi và Takuya thống nhất không tiến hành bay thử trước ngày hội trường. Khoe thứ mình biết có thể bay ngon lành cũng chỉ là trình diễn đơn thuần, hết sức nhàm chán. Nhàm chán trong mắt người xem, và hơn hết, là trong mắt hai kẻ trực tiếp làm ra nó như chúng tôi.
Chúng tôi muốn thử nghiệm thứ chưa rõ kết quả trước mặt mọi người.
Dù vậy, nếu ai đó hỏi nó bay được không, câu trả lời chắc chắn là có. Chúng tôi đặt niềm tin tuyệt đối ở chiếc phi cơ. Bởi nó là tác phẩm do cả hai tạo ra, tôi và Takuya.
Chẳng có gì đáng tự hào, nhưng phải nói tôi là thằng đi đến đâu mang mưa đến đó. Từ xưa đã vậy, hễ tôi đi tham quan hay dự đại hội thể thao là mưa (thậm chí tuyết) sẽ rơi theo, vậy mà ngày hội trường năm đó lại nắng đẹp. Không trung trong vắt chẳng có lấy một gợn mây. Toàn bộ vòm trời nhuốm sắc xanh dương thăm thẳm của mùa hè.
Sáng hôm ấy, trên đoạn đường ngắn từ ga Minami Yomogita đến trường, tôi hơi ngẩng đầu nhìn trời rồi hít vào thật sâu. Quanh trường chúng tôi chỉ có đồng ruộng, vài căn nhà cùng mấy mảnh rừng nhỏ nằm rải rác. Núi non đều thấp và ở xa. Vì thế vào ngày nắng ráo, bầu trời trông rộng lớn đến choáng ngợp. Địa điểm và thời tiết đều lý tưởng cho phi cơ cất cánh. Tôi vừa dõi theo chú chuồn chuồn ngô bay ngang tầm mắt, vừa thở sâu để kìm nén cảm giác hưng phấn.
Ba mươi phút nữa mới đến giờ sinh hoạt chung, nhưng Takuya đã có mặt trong lớp.
“Cậu đến muộn, Hiroki.”
“Tôi không muộn. Cậu đến sớm thỉ có.”
Xung quanh chỉ có hai đứa khác đang sửa lại phần trang trí phòng học. Lớp tôi mở hàng đồ ngọt, kiểu quán bán bằng phiếu ăn có ở khắp nơi. Takuya tiến tới chỗ tôi, nói nhỏ để hai đứa kia không nghe được.
“Tôi lắp xong máy rồi.”
“Hả? Xong rồi? Cậu đến từ mấy giờ vậy?”
“Tầm một tiếng trước. Tại tôi bồn chồn không chịu được.”
Chúng tôi đã tháo rời máy bay, mang dần từng bộ phận đến trường để sẵn từ mấy hôm trước. Tất nhiên bộ dụng cụ lắp ráp và nhiên liệu cũng vậy.
Không biết bằng cách nào, Takuya đã đến phòng giáo viên kiếm được chìa khóa nhà kho bằng gỗ bỏ trống sau trường. Nhà kho đầy cát lạo xạo, nhưng nằm ở góc khuất ít ai để ý, rất thích hợp cho cậu trốn ra hút thuốc. Chúng tôi giấu máy bay trong đó.
Chúng tôi giữ bí mật chuyện này với cả nhà trường lẫn bạn học. Nói cách khác, hai thằng đang đóng vai du kích.
Chúng tôi đặc biệt không để giáo viên biết. Chắc chắn họ sẽ nhặng xị tra hỏi vấn đề an toàn, còn tệ nhất sẽ cấm cản. Tôi và Takuya đều không thích bị người lớn giảng đạo, chưa kể bọn họ toàn là tay mơ chẳng biết gì về máy bay. Chúng tôi ghét bị người khác điều khiển.
Chúng tôi muốn tự trưởng thành, tự kiểm soát cuộc sống của mình. Về chuyện này, tôi và Takuya suy nghĩ giống hệt nhau, thật không khác gì anh em sinh đôi.
Giờ sinh hoạt chung kết thúc, lẽ hội chính thức bắt đầu. Tôi và Takuya tức tốc làm cho xong phần việc ở quầy hàng của lớp rồi chạy đi. Hai thằng lao ra khỏi phòng học, phớt lờ mọi hàng quán, chia nhau tiến hành khâu chuẩn bị theo đúng những gì đã bàn trước.
Thời gian cất cánh ban đầu là 1 giờ chiều, nhưng do lắp máy xong sớm nên chúng tôi quyết định đẩy lên một tiếng.
Tôi cầm chìa khóa Takuya đưa, ra nhà kho, cẩn thận xem xét máy bay đã lắp có sai sót gì không. Từ lúc chế tác chúng tôi đã thống nhất kiểm tra chéo từng chi tiết, Takuya kiểm tra sản phẩm của tôi và ngược lại. Hoàn toàn không vấn đề. Cậu lắp nó một cách hoàn hảo. Tôi cấp nguồn, cho chạy thử để kiểm tra những bộ phận cơ động như cánh liệng, cánh lái độ cao, càng bánh xe. Càng bánh xe bị rít nên tôi chỉnh lại.
Sau đó tôi châm lửa để làm ấm động cơ phản lực. Làm việc này trong nhà kho bằng gỗ không mấy rộng rãi là khá nguy hiểm, nhưng chẳng còn cách nào khác. Không khí nhanh chóng nóng sực lên. Mùi khí thải lan ra cả nhà kho nên tôi phải hé cửa. Gian nhà được dựng cẩu thả và bị gió lùa ở nhiều chỗ, nhưng trong hoàn cảnh này đó lại là sự may mắn.
Trong lúc ấy, Takuya chuẩn bị đường băng.
Khoảng đất trống sau tòa học xá của trường cấp hai chúng tôi học được trải nhựa, dùng làm bãi đỗ xe cho giáo viên. Trường ở nông thôn nên đất có thừa, bãi đỗ vừa rộng vừa thưa xe. Bãi đỗ xe thông ra một con đường tư thẳng tắp. Trừ những người có việc phải vào trường, tuyệt nhiên không ai đi qua đây.
Trong lần vào thành phố Aomori trước đó, Takuya đã mua dây ni lông vàng và đen ở siêu thị bán đồ gia dụng. Cậu căng dây giữa bãi đỗ xe làm tín hiệu cấm đường. Phải làm thế để không có người hay ô tô cắt ngang cung đường dùng làm đường băng. Đường băng nối liền con đường sau bãi xe. Chúng tôi sẽ dùng nó để kéo dài cự li nếu cần, dù theo tính toán, diện tích bãi xe đủ cho máy bay cất cánh. Sau này biết chuyện tôi mới buồn cười. Vốn tính tỉ mỉ, Takuya đặt cả rào chắn nhặt từ công trường xây dựng nào đó ở đầu đường, cẩn thận dựng thêm tấm biển bằng ván ép đề dòng chữ “Cấm lưu thông do tổ chức lễ hội trường”. Toàn đồ giả nhưng cũng khá ra trò.
“Cứ ra vẻ thản nhiên làm việc cần làm thì có phá luật cũng không bị nghi ngờ đâu.”
Lúc còn ở giai đoạn lên kế hoạch, nghe tôi bày tỏ mối lo bị phát hiện rồi ăn mắng nếu tự ý cấm đường, Takuya đã nói vậy.
“Cho nên tôi mới nhận, phụ trách vụ đường băng. Cậu khó tỏ ra đường hoàng khi đang mưu tính chuyện bất minh, đúng chứ?”
Đúng. Tôi đành gật đầu, nghe theo kế hoạch của cậu. Quả thật bộ mặt lúc nào cũng tỉnh bơ của Takuya rất hữu dụng. Khi tôi lỉnh kỉnh xách máy bay, bộ phát tín hiệu cùng hộp dụng cụ đến nơi, cậu đã chuẩn bị xong đường băng mà không bị ai phát hiện.
“Đây là điểm xuất phát.”
Takuya nói, dùng gót giày cao su vạch một đường vô hình trên mặt đường nhựa. Tôi nhẹ nhàng đặt máy bay xuống, châm lửa làm ấm động cơ lần nữa. Ngọn lửa gần như trong suốt, không ngả hẳn sang xanh hay đỏ bập bùng trong không khí. Thỉnh thoảng, mùi nhiên liệu máy bay cháy xộc vào mũi, khiến tôi không khỏi bồn chồn.
Lúc này chúng tôi đã thu hút kha khá sự chú ý. Khán giả bắt đầu kéo đến, trong đó có cả giáo viên. Trông ai nấy đều thong dong như thể họ không nhận ra đây là sự kiện chưa được cho phép. Không, có khi họ biết nhưng cố tình lờ đi.
“Ê, tên lửa à?” Một đứa bạn cùng khối mà tôi quen lên tiếng.
“Không phải, máy bay đấy.”
“Làm gì có cánh.”
“Có chứ, trông thế thôi.”
“Bay nổi không? Hay lại kiểu trò đùa dùng một lần?”
“Mấy cậu cứ yên lặng mà xem. Takuya, bắt đâu luôn đi.” Bị dồn ép, tôi nóng nảy bảo.
“Đúng đấy. Chơi thôi.”
Takuya dang tay ra hiệu cho khán giả lùi về sau. Tôi cầm bộ phát tín hiệu lên, kéo ăng ten, gạt nhẹ cần lái. Động cơ điện servo* trong thân máy bay bắt đầu hoạt động, cánh liệng và cánh lái độ cao xòe ra. Mới thế mà đám đông đã bắt đâu xôn xao.
Tôi thở sâu, “Tôi bắt đầu đây.”
“Tới bến đi.”
Tôi gạt cần điều khiển van tiết lưu*.
Động cơ phản lực nhỏ đạp vào khoảng không đằng sau*.
Chiếc máy bay chạy một đường thẳng như bị đẩy về phía trước. Tiếng kim loại cọ xát rít lên chói tai. Thân máy được chế tạo với trọng lượng nhẹ rung lên bần bật khi gặp từng vệt gồ ghề nhỏ trên mặt đường nhựa. Tuy lo lắng, tôi vẫn biết mình không được buông lỏng van tiết lưu lúc này. Tôi dồn hết sức tập trung, dùng ngón cái giữ chặt cần điều khiển.
Thật nhẹ nhàng, như thể được nâng bởi đệm khí, chiếc phi cơ vọt lên. Khoảnh khắc này luôn khiến tôi có cảm giác trái tim vừa được kéo lên từ tầng sâu.
Tôi đã cho máy bay cất cánh.
Chiếc máy bay này có sức mạnh khác hẳn những mô hình tôi thường điều khiển. Nó rất nhanh. Tôi cho nó chao lượn rồi bay ngược lại chỗ mình. Phi cơ phản ứng với các mệnh lệnh nhạy hơn tưởng tượng, không khỏi khiến tôi lạnh gáy. Cảm giác rùng mình quen thuộc chạy dọc sống lưng, lan khắp cơ thể, làm tê liệt mọi tế bào.
Tôi cho nó bay ngang qua tòa học xá, vòng ba vòng rộng trên không. Phải đến lúc đó tiếng hò reo lẫn âm thanh ở xung quanh mới lọt vào tai tôi.
Tôi đảo mắt nhìn qua, thấy ai nấy đều đang ngẩng đầu nhìn trời như kẻ ngốc, một cảnh tượng hết sức kì quặc. Có những đứa ở tầng hai, tầng ba còn nhoài hẳn người ra khỏi cửa sổ mà ngó. Tôi đã khiến khá nhiều người chú ý.
Tôi chợt muốn nhìn máy bay ở cự li gần, bèn cho nó lượn xuống thấp như vờn qua mặt đất đúng một lần. Chiếc máy bay vụt qua trong chớp mắt, chỉ để lại tiếng động cơ êm êm nhờ hiệu ứng doppler*.
Aaaaaaaaa.
Chính là cảm giác này.
Phải miêu tả thế nào đây. Liệu những người đứng xem có hiểu không.
Cảm giác như có hai bản thân cùng tồn tại.
Lúc này, tôi vừa đứng trên mặt đất, vừa hóa thành chiếc máy bay nhỏ nương theo gió. Không phải tôi đang điều khiển phi cơ. Tôi vừa là tôi, vừa là chiếc máy bay. Tạm thời, trong tôi tồn tại hai năng lực. Chao lượn trên bầu trời và đứng vững trên mặt đất. Tôi ngước nhìn mình bay trên không, đồng thời nhìn xuống mình đứng dưới đất. Sự tách biệt dễ chịu. Đa tầng hóa cái tôi. Tôi gửi gắm cảm xúc đến một “tôi” khác cùng lúc đón nhận xúc cảm từ cái tôi đố. Đây quả là trải nghiệm đặc biệt. Không phải nhân hóa, cũng không phải hợp nhất với đồ vật, mà là tách một phần bản thân để tạo ra năng lực mới.
Hai cái tôi ấy cùng chìm trong cơn say.
“Này, đừng có đứng đực ra thế.” Là giọng Takuya. “Đổi chỗ cho tôi.”
Tôi ổn định chuyển động của máy bay, chuẩn bị chuyển giao bộ điều khiển.
Đổi người điều khiển khi phi cơ đang bay cần có kĩ thuật nhất định. Tôi giữ chắc cần lái bằng ngón tay, đưa nó cho Takuya đứng bên cạnh. Takuya ghì cần lái từ phía trên vị trí tôi đang giữ. Tôi lần lượt nhẹ nhàng thả ngón tay ra. Những động tác đó chỉ diễn ra trong tích tắc. Chúng tôi đã tập luyện rất nhiều lần, vì thế không gặp sai sót nào.
Sau khi rút tay về, tôi bần thần mất một lúc.
Buông bộ điều khiển ra, cuối cùng tôi cũng có thể bình thản chiêm ngưỡng chiếc máy bay. Khác hẳn máy bay cánh quạt, đường bay của nó sắc lẹm, kích thích mọi tế bào. Chiếc phi cơ với hình dáng mảnh và dài tựa tên lửa xuyên qua luồng gió. Bộ cánh tròn cắt không khí thành từng mảnh như dao nạo gọt vỏ trái cây. Tôi xúc động đến mức nổi da gà, tưởng như lớp vỏ của trái tim trong lồng ngực đang bị lột xuống sắc ngọt.
Tiếng hò reo hòa với tiếng kim loại rít lên từ động cơ rồi chìm mất. Cũng nhờ tiếng ồn chọc thủng màng nhĩ ấy mà không biết từ lúc nào, số người thò đầu khỏi cửa sổ ngó lên trời đã tăng lên. Đâu đó còn có tiếng vỗ tay.
Tôi nhận lại bộ điều khiển. Từng thớ thịt tự nhiên căng lên. Chuyển động của cần lái khuấy động cảm xúc của tôi lần nữa.
Tôi cao hứng cho nó bay tiếp một lúc.
Rồi linh tính không lành kéo đến. Tôi cảm nhận được sự bất thường rất khó diễn tả, giống như dấu hiệu báo trước cơn cảm cúm. Sau giây lát tôi mới nhận ra nguyên nhân. Phản ứng của máy bay không còn nhạy.
“Này, cậu có thấy lạ không?” Takuya vừa dứt lời, động cơ máy bay liền kêu “phụp” một tiếng.
“Hỏng rồi.”
Tôi vội vàng hạ độ cao, kéo phi cơ trở lại điểm xuất phát, nhưng đã muộn. Động cơ ngừng hoạt động. Máy bay đang liệng sang phía bên kia tòa học xá. Nó rơi xuống, mất hút khỏi tầm nhìn.
Rầm! Nó đâm sầm vào cái gì đấy.
“Nhà thể chất!” Tôi và Takuya đồng thanh hét, rồi cùng phóng đi.
Chúng tôi vội vàng vòng ra sau tòa nhà, chạy đến bãi đất trống. Nhà thể chất ở đằng đó. Có vẻ máy bay đã đâm vào tường hoặc cửa sổ nhà thể chất. Hai thằng vừa đi vòng quanh vừa ngẩng đầu nhìn tường. Không thấy chiếc phi cơ đâu cả.
Nghe tiếng gọi tên cả hai ở đằng xa, chúng tôi quay lại, thấy vài người thò đầu ra từ cửa sổ tầng ba, tay trỏ nóc nhà thể chất.
“Ở trên đó hả trời!”
Tôi chạy về phía tòa học xá. Hình như Takuya bám theo ngay đằng sau. Chạy qua cửa lên cầu thang, vượt qua hai tầng nhà, chúng tôi lên đến tầng ba. Thế rồi cả hai lao vào phòng học gần nhất. Thật tình cờ, chỗ này để trống. Trường nằm ở vùng quê đáng gọi là vùng sâu vùng xa, nên có phòng học bỏ không cũng chẳng phải chuyện lạ.
Chúng tôi vọt về phía cửa sổ, nhoài ra ngoài.
Phi cơ kẹt trên gờ mái nhà thể chất, trông như miếng chanh găm vào miệng ly.
Chiếc máy bay xanh dương hòa hợp lạ thường với mái nhà bằng kẽm màu nước biển.
Mái nhà trông như máng trượt ở bể bơi, phi cơ có thể trượt khỏi đó bất cứ lúc nào. Đầu phi cơ bị bẹp do là phần mềm. Nhờ chỗ bẹp ấy nó mới mắc lại trên mái thay vì rơi xuống đất.
“Aaa!” Tôi và Takuya không hẹn mà hét lên âm thanh vô nghĩa gần như cùng lúc.
Trong vài giây tiếp theo, chúng tôi ngẩn người ngắm chiếc máy bay.
Chẳng hiểu sao tôi lại thấy nhộn nhạo. Cảm giác khó hiểu vô cớ sôi lên trong dạ dày. Tôi bối rối, tát mạnh lên má để xua đi sự kì quặc ấy. Rồi tôi bất giác nhìn sang Takuya. Vì lý do nào đó, nét mặt cậu y hệt tôi.
Hai chúng tôi, không biết đứa nào trước đứa nào sau, phá ra cười.
Chúng tôi bấm bụng cười ngặt nghẽo không thành tiếng một lúc, nhưng rồi chẳng nhịn nổi, bật ra tiếng ha hả. Tràng cười ngốc nghếch. Giờ không phải lúc cười, nhưng mọi chuyện cứ lạ lùng quá sức tưởng tượng. Tôi và Takuya tựa vào thành cửa sổ với bàn học mà cười đến khi bắt đầu nấc cụt.
“Ôi...” Sau khi phát mệt vì cười, Takuya thở dài. Rồi cậu nói. “Tôi với cậu đúng là cặp đôi hoàn hảo.”
Đó là câu nói thân tình và chân thành nhất mà tôi từng nghe trong suốt ba mươi mốt năm cuộc đời.
Sau đó tôi và Takuya bị gọi lên phòng giáo viên, nghe thuyết giảng một trận ra trò. Giáo viên dặn chúng tôi không được tự ý làm chuyện nguy hiểm thêm lần nào nữa. Khuya hôm đó, hai thằng lẻn vào trường, leo lên mái nhà thể chất lấy lại chiếc máy bay, trước khi nó gặp mưa hoặc bị người lớn tịch thu.
Có vài cảnh tượng luôn tự động hiện ra trong đầu tôi mỗi khi nhớ về Sayuri. Một trong số đó là mẩu kí ức về lần bắt gặp Sayuri ở ga Minami Yomogita.
Minami Yomogita là ga gần trường cấp hai chúng tôi theo học. Nó là ga lớn trên tuyến Tsugaru, nhưng cũng chỉ có hai sân ga và một cửa soát vé phía tàu đến. Muốn sang sân ga phía tàu đi, chúng tôi phải leo lên rồi leo xuống cây cầu bộ hành kiểu tiền chế vắt qua đường ray, nối liền hai sân ga.
Trước sân ga là nhà dân, đồng lúa và rừng tạp. Nói thẳng thì nó chỉ là một ga xép như mọi nhà ga ở nông thôn khác. Đối diện cửa soát vé có phòng chờ dựng bằng gổ, vào mùa đông bếp sưởi lúc nào cũng đỏ lửa, có lẽ đủ gọi là khung cảnh đặc trưng của xứ tuyết.
Trừ những đứa đến trường bằng xe đạp, hầu hết học sinh trường tôi đều đi học qua ga này. Trường tôi là trường làng, nên nói là hầu hết chứ số lượng chẳng có bao nhiêu. Hằng ngày, tôi và Takuya mất bốn mươi phút đi tàu trước khi đặt chân xuống sân ga. Sayuri cũng vậy.
Bấy giờ là cuối năm lớp Tám. Những một năm rưỡi sau sự kiện liên quan đến chiếc phản lực RC. Tôi không nhớ chính xác ngày tháng, có lẽ khoảng hai ngày trước kì nghỉ xuân.
Học sinh trường chúng tôi gọi chuyến tàu lúc hơn 3 rưỡi là “tàu về”, còn chuyến 5 giờ hơn là “tàu câu lạc bộ”. Hằng ngày, tôi và Takuya đi chuyến dành cho nhóm câu lạc bộ. Takuya thuộc câu lạc bộ trượt băng tốc độ, còn tôi ở câu lạc bộ bắn cung, cả hai đều tham gia khá chăm chỉ.
Ngày nào cũng vậy, đến giờ tàu chạy, tôi và Takuya hẹn nhau ở chỗ cố định trên sân ga, lên tàu qua cùng cửa, ngồi chung khoang ghế. Dù trời lạnh đến thế nào, chúng tôi vẫn đợi nhau trên sân ga chứ không vào nhà chờ, đó là quy tắc ngầm giữa cả hai. Chúng tôi làm thế để đứa này có thể nhìn thấy đứa kia đang đợi, kể cả từ bên ngoài ga.
Chiều hôm đó, tôi chờ Takuya cùng chuyến tàu về nhà trên sân ga như thường lệ. Thời tiết dễ chịu, tôi giấu cằm trong cổ áo khoác, nhìn ánh nắng cuối ngày từ từ nhuộm cam bầu trời.
Một nhóm con gái lao xao trò chuyện đi qua cửa soát vé. Tôi bất giác nhìn sang. Chính là tại giọng nói của Sayuri.
Nhác thấy cô, tôi vội vàng nhìn đi chỗ khác, cố tỏ ra bình thản. Nhưng vẫn len lén dõi theo cô qua khóe mắt.
“Còn mấy phút nữa?”
“Vẫn k?