B###Say Ngủ.
Mùa xuân năm tròn 16 tuổi, tôi đặt chân lên đất Tokyo lần đầu tiên.
Xuống khỏi tàu tốc hành tuyến shinkansen Tohoku, đi qua cửa soát vé, tôi bất giác khựng lại trước biển người. Ga Tokyo rất rộng, không có cửa sổ, trông như thành phố dưới lòng đất. Nếu không có biển chỉ dẫn, hẳn tôi đã không thể ra khỏi tòa nhà.
Tôi tìm thấy tuyến tàu điện ngầm Marunouchi, bước vào sân ga. Tôi vừa dừng chân thì tàu đến. Ấn tượng thật. Tôi cảm thán lần nữa khi được trải nghiệm thế giới mới lạ nơi tàu chạy năm phút một chuyến. So với chốn tôi từng thuộc về, dòng thời gian ở đây hoàn toàn khác.
Tôi đến Tokyo chính vì những điều này.
Tôi nhớ lại cảnh rời nhà ở Minmaya sang nay. Mẹ muốn đi cùng lên Tokyo, hay chí ít cũng tiễn tôi đến Aomori hoặc Hachinohe, nhưng tôi một mực từ chối. Mục đích ra đi của tôi là làm mới bản thân. Tôi tuyệt đối không muốn đem theo dư âm của quê hương tới tận đây.
Tôi xuống ga Nishi-Shinjuku. Leo lên cầu thang, bước ra đường lớn, tôi liền bắt gặp một tòa nhà cao tầng vươn thẳng lên trời, với khối kiến trúc trông như chiếc đĩa tròn nằm trên nóc. Cao quá, tôi thầm nghĩ.
Tôi rẽ phải ở ngã tư Naruko Tenjin, vừa xem bản đồ vừa đi bộ chừng năm phút. Ngẩng đầu nhìn, tôi thấy hàng loạt cao ốc quy mô ngang ngửa tòa nhà lúc nãy bủa vây tứ phía.
Cảnh tượng thực choáng ngợp.
Tôi hình dung mình đang ngắm một rừng tháp.
Nơi này cũng là thành phố của tháp. Rừng tháp mọc lên giữa trung tâm đô thị Shinjuku lạnh lùng nhìn tôi từ trên cao, nhưng không gây sức ép. Nhờ vậy tôi rất yên tâm.
Đi bộ thêm khoảng mười phút, tôi thấy khung cảnh phố phường đột ngột thay đổi. Những cao ốc chen nhau xâm lấn không gian theo phương thẳng đứng bỗng biến mất, nhường chỗ cho khu dân cư cũ trải dài theo phương ngang như bám lấy mặt đất.
Sự biến đổi này rất mới mẻ đối với tôi, khi mà tâm trí đang từ chỗ thấp hướng lên trời bất ngờ bị lôi tuột sang ngang. Nhờ đứng trên dốc, tôi có thể ngắm toàn cảnh khu dân cư ở chỗ đất trũng, sự tương phản về cảnh sắc càng thêm ấn tượng.
Nhìn qua một lượt, tôi nhận thấy khu dân cư cũ thực sự cũ kĩ, hoàn toàn không có nét khoa trương. Tôi có cảm giác phố phường đưực giữ gìn nguyên vẹn từ khoảng giữa thời Chiêu Hòa. Phần lớn nhà cửa lợp mái ngói. Điều này khiến kẻ lớn lên ở xứ tuyết, chẳng mấy khi thấy ngói như tôi khá xúc động. Một khu phố đầy sinh khí. Hóa ra Tokyo không chỉ có những nơi như Shibuya, Harajuku hay Ginza.
Tôi thong thả bước xuống cầu thang đá uốn lượn dẫn xuống khu phố cũ. Dưới đó có kí túc xá nơi tôi sẽ sống trong ba năm tới.
Loay hoay hồi lâu, tôi tìm ra tòa kí túc tồi tàn, thuộc sở hữu của một tổ chức phúc lợi.
Mang danh kí túc xá, nhưng nó không phải kiểu kí túc truyền thống, nơi mọi người buộc phải sinh hoạt chung với nhau. Đến nơi tôi mới biết nó là một căn hộ hai tầng bằng gỗ, có kèm bếp. Phòng tôi ở tầng hai. Bố tìm cho tôi nơi này qua người quen ở chỗ làm.
Quan sát kĩ, tôi chắc mẩm căn nhà ra đời cách đây không dưới bốn mươi năm. Nhà tắm kết hợp nhà vệ sinh, không có bồn ngâm mình. Bù lại giá thuê rẻ đến khó tin. Âu cũng là tiền nào của nấy, chẳng có gì phải phàn nàn. Tôi vốn không trông chờ cuộc sống một mình nhàn nhã, miễn có chỗ ngủ thì những chuyện khác thế nào xong thôi.
Những thùng các tông gửi qua đường chuyển phát nhanh nằm chất đống ngổn ngang trong phòng tôi. Tôi lách qua đám thùng, băng ngang căn phòng, mở cửa sổ cho thoáng khí. Khi tôi đẩy tấm kính sang ngang, khung cửa sổ gỗ kêu ken két chói tai do không có rãnh trượt nhôm.
Hôm ấy trời đẹp. Nắng từ cửa sổ lọt vào căn phòng âm u, tạo cảm giác khá dễ chịu.
Tôi để mở cửa sổ, ra ngoài, lững thững dạo bộ. Tôi định bụng tìm hiểu sơ qua khu vực lân cận, chuẩn bị cho cuộc sống mới.
Tôi dừng chân ở sảnh trước, nhìn quanh. Hai bên kí túc lần lượt là tiệm giặt đồ tự động và nhà tắm công cộng. Đi thêm một đoạn là ra đến đường lớn, bên đường có cửa hàng tiện lợi cùng rất nhiều quán ăn. Tôi thầm ngạc nhiên khi thấy hai cửa hàng tiện lợi cùng hãng trong ngõ nhỏ đối diện.
Theo những gì tôi thấy, chỗ này không hề bất tiện, đúng hơn là cái gì cũng có.
Tôi đã hình dung đây là một khu phố ồn ào, đây tiếng xe cộ lẫn tiếng cãi cọ, bởi dù gì cũng thuộc Tokyo, nhưng hóa ra nó khá yên tĩnh.
Dọc con đường hẹp chẳng đủ chỗ cho ô tô đi qua, cây cối mọc dày như ở công viên, trông khá mát mắt. Tôi đi theo lối đó rồi vòng sang đường khác. Tôi thử rẽ trái rẽ phải, tất nhiên vẫn chú ý chừng mực để khỏi lạc. Một lúc sau, tôi ra đến phố Ome. Lang thang về phía Tây, tôi bắt gặp bên đường một khu đất bị vây kín bằng hàng rào kim loại. Có vẻ người ta sắp xây nhà ở đó.
Trong khoảnh khắc, tôi nhớ tới căn nhà của Sayuri, nay đã thành đất trống. Ở Tokyo này, nhà cửa hay cao ốc bị tháo dỡ rồi thay thế là chuyện hết sức bình thường. Nghĩ vậy, tôi trấn tĩnh trở lại. Mọi thứ hối hả đổi khác, chẳng có thời gian cho tôi chìm vào hồi tưởng. Nhìn từ góc độ nhất định, đó là điều có lợi với tôi.
Tôi bâng quơ nhìn trời. Rồi bàng hoàng.
Tồi vừa nhác thấy một đường thẳng mờ nhạt, dựng đứng như ruột bút chì kim phía trên những mái nhà, ở bầu trời phương Bắc.
Tôi nhắm mắt, rồi bừng mở, toàn thân nổi da gà.
Nó ở đó, không thể nhầm được. Ngọn tháp.
Không nghi ngờ gì nữa, chính là ngọn tháp trên đất Ezo, dù từ đây trông nó nhỏ, rất nhỏ so với khung cảnh ở Aomori.
Vô lý. Rõ ràng nó nằm ngoài tầm nhìn.
Tôi nhớ lại khoảng cách giữa Aomori và trung tâm Hokkaido, hình dung kích thước ngọn tháp nhìn từ Aomori, nhẩm tính đường kính tháp. Giả sử đường kính thực tế lớn gấp đôi con số đó, tôi cũng không thể nhìn thấy ngọn tháp từ Tokyo. Trên lý thuyết là vậy.
Nhưng lúc này nó đang ẩn hiện trước mắt tôi.
Tôi lên tiếng chào một ông cụ có vẻ là người sống gần đây tình cờ đi ngang, nói rằng mình mới chuyển đến, hỏi ông có phải vốn dĩ vẫn thấy ngọn tháp từ đây không. Ông cụ bảo mắt đã kém nên không nhìn rõ, nhưng đôi khi có thấy tháp cùng núi Phú Sĩ vào những ngày đẹp trời.
Sao có thể...
Ông cụ đi rồi, tôi vẫn đứng sững như trời trồng. Có chuyện ngược đời thế này ư? Tôi chạy đến tận đây chỉ để khỏi phải nhìn thấy nó kia mà?
Tôi lảo đảo, lưng va vào hàng rào kim loại “xoạch” một tiếng.
Lễ khai giảng kết thúc, năm học mới bắt đầu.
Tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nhận nỗi lẻ loi khi học cấp ba xa nhà, không người quen biết, nhưng thực tế chẳng đến nỗi nào. Học sinh trong trường đa phần sinh ra ở Tokyo, song cũng có những đứa đến từ các vùng khác nhau trên cả nước. Ai nấy đều đã quen với chuyện này. Vì thế, tôi hầu như không thấy lạc lõng dù là dân tỉnh lẻ.
Dù chưa tới mức hiếm nhưng quả thật, số học sinh lặn lội lên thủ đô học trường này như tôi không nhiều. Bạn bè xung quanh tò mò, thậm chí ghen tị với cuộc sống một mình của tôi. Tôi đùa cợt về lối sống lặng lẽ chẳng có gì đáng ghen tị ấy để đổi lấy tiếng cười.
Tôi vốn dễ có được thiện cảm của người khác (đánh mất phẩm chất đó rồi tôi mới thấm thía nó vô cùng quan trọng), làm quen và sống hòa hợp với đám đông là chuyện không mấy khó khan. Chẳng mấy chốc tôi đã có kha khá bạn chơi cùng, cũng không thấy buồn vì sống một mình, chí ít là trong suy nghĩ.
Trường tôi nằm giữa khu quy tụ nhiều chung cư hoành tráng của Nishi-Shinjuku. Tuy ở trung tâm thành phố, sân vận động trong trường vẫn là sân đất chứ không trải bê tông.
Từ của sổ lớp học ở tầng ba, tôi có thể thấy rõ kiến trúc chọc trời ở đô thị mới.
Từ ngày tình cờ nhìn thấy ngọn tháp, tôi bắt đầu coi rừng cao ốc ở Nishi-Shinjuku là họ hàng của nó. Hễ nhìn những tòa nhà sừng sững vươn cao đầy ngạo nghễ, tôi lại thấy bất an. Sao lại tạo ra chúng? Xây vừa cao vừa to như vậy làm gì?
Đôi khi tôi tự hỏi, rốt cuộc người ta đang làm gì trong những tòa nhà ấy? Chẳng phải tôi muốn vào trong xem, nhưng vì lý do nào đó, tôi cảm thấy mình thực sự bị chối bỏ.
Tôi học cấp ba khá nghiêm túc.
Dù sao đi nữa, tôi đã viện cớ ôn thi đại học để trốn lên Tokyo, không nghiêm túc không được. Tôi từng nghĩ lên đến nơi là tha hồ làm theo ý mình, nhưng cuối cùng vẫn thấy chí ít phải học hành tử tế. Vả lại tôi chẳng muốn làm gì khác.
Vì thế tôi học hành chăm chỉ ngoài sức tưởng tượng của tôi hồi cấp hai. Việc ấy không hề dễ. Nhưng nó giúp tôi giết thời gian, tránh nghĩ ngợi linh tinh. Trường tôi thực sự chú trọng thi cử, nên tuyệt nhiên không ai có thái độ coi thường bài vở. Ở đây, học tốt là đúng, là lý do tôn trọng nhau. Nhờ thế tôi chiếm được vị trí nhất định trong môi trường mới. Bạn cùng lớp khá nể phục, coi tôi là đứa dễ gần. Cũng có vài đứa khó ưa, nhưng không thành vấn đề. Công bằng mà nói, tôi khá may mắn vì được ông trời ưu ái.
Nhưng chẳng hiểu sao, nỗi bất an vô cớ khi vắng mặt khỏi nơi mình muốn trốn chạy không chịu biến mất.
Tôi vốn không muốn lắp điện thoại ở kí túc, nhưng vẫn phải làm. Bố còn dư một suất đăng kí điện thoại nên đã kéo dây vào phòng tôi.
Lúc chúng tôi đang làm bài thi giữa kì một, một trận động đất nhỏ đã xảy ra ở Kanto. Nó nhỏ đến độ tôi còn chẳng biết có động đất. Vốn tính hay lo, mẹ gọi điện cho tôi. Tôi hỏi lại động đất xảy ra khi nào khiến bà ngạc nhiên.
Hai ngày sau, mẹ gửi lên một phong bì tiền mặt, cài tờ giấy nhớ bên trong, dặn tôi dùng tiền đó mua ti vi để theo dõi thông tin thiên tai.
Tôi nhét phong bì tiền vào túi quần, đến cửa hàng điện máy Yodobashi Camera. Bước vào khu trưng bày, tôi thấy đủ loại ti vi lớn bé được bày san sát, không chừa lại chỗ trống nào. Từ lâu tôi đã có cảm giác kì quặc rằng chương trình truyền hình ở cửa hàng điện máy cực kì ngớ ngẩn. Có lẽ vì quá nhiều màn hình chiếu cùng một thứ nằm cạnh nhau. Ý định mua ti vi bay biến sạch. Dù sao tôi cũng chẳng xem ti vi nhiều.
Tìm chỗ ăn tạm cái gì rồi về vậy, tôi nghĩ. Lúc đi tắt qua khu bày ti vi, ánh mắt tôi dừng lại ở một thứ. Nó khiến tôi liên tưởng đến con cá khổng lồ trơ xương.
Tôi nhìn kĩ. Ra là cây vĩ cầm chỉ có khung.
Một cây vĩ cầm vô thanh của hãng Yamaha. Cơ cấu tạo âm bị giản lược hoàn toàn, gần như không phát ra tiếng. Chỉ người chơi nghe được âm thanh vốn có của nó qua tai nghe. Đây là loại vĩ cầm không gây ồn, chuyên dùng để tập luyện.
Tôi chần chừ đôi chút trước khi mua nó. Cây đàn giúp tôi tích khá nhiều điểm vào thẻ. Tôi dùng số điểm đó mua thêm chiếc đài bỏ túi.
Tôi hỏi nhân viên cửa hàng xem quanh đây có chỗ nào bán sách dạy chơi nhạc cụ không. Nhân viên giải đáp rất tận tình. Tôi đến cửa hàng nhạc cụ theo chỉ dẫn, mua vài cuốn sách dạy chơi vĩ cầm.
Từ hôm đó, tôi bắt đầu tập vĩ cầm. Tôi học từ con số không theo đúng trình tự sách chỉ, lần lượt tự chơi được các bản nhạc trong đó.
Mỗi khi chán học, chơi nhạc cụ để thay đổi không khí là việc khá thú vị. Sau vài tháng, dù chưa giỏi, tôi đã đạt tới trình độ khá so với tay mơ. Rồi không rõ từ khi nào, tôi gần như nhớ được bản nhạc Sayuri chơi vào ngày hè đó.
Tôi chắt chiu chút kí ức mơ hồ, dùng đầu ngón tay dò tìm từng nốt. Mỗi lần như thế, đôi mắt nhắm hờ, ngón đàn hơi cứng và mái tóc đung đua của Sayuri lại hiện ra, đẩy tôi vào một thứ cảm xúc không lời nào diễn tả được.
Nhưng đương nhiên tôi không thể nhớ ra toàn bộ.
Tiếng gọi phương xa.
Thật may tôi nhớ tên bản nhạc. Tôi đến một thư viện nổi tiếng vì lưu trữ nhiều nhạc phổ, tìm bản nhạc đó rồi phô tô lại.
Thời gian tiếp tục trôi. Tôi dậy sớm, đến trường, trải qua một ngày với tâm trạng khá vui vẻ, vào thư viện tự học, đi mua đồ rồi về kí túc. Ngày nào cũng như ngày nào. Đôi khi, chỉ thỉnh thoảng thôi, tôi về phòng, đóng cửa, cảm nhận nỗi mỏi mệt nặng nề.
Những lúc đó, tôi sẽ chơi bản nhạc cùa Sayuri.
Cứ thế, một năm sắp qua.
Tôi chơi khá thân với vài đứa bạn cùng lớp. Mấy đứa này đều hòa đồng, lớn lên trong gia đình tử tế, nhưng cũng rất rành khoản chơi bời. Đám bạn tôi phần đông sinh ra ở Tokyo, sẵn lòng dẫn tôi đi thăm thú nhiều nơi trong thành phố. Tôi đã đến những chỗ hào nhoáng tựa tranh vẽ như Shibuya, Harajuku, Odaiba, cũng từng qua Kichijoji hay Shimokitazawa. Nhưng tôi lang thang nhiều nhất ở khu Shinjuku vì gần nhà. Thi thoảng tôi còn đến club, uống rượu thâu đêm. Tôi không rõ bây giờ thế nào, còn thời đó văn hóa club vẫn rất thịnh hành. Nhiều quán sẵn lòng để học sinh cấp ba vào, miễn là không mặc đồng phục.
Chơi bời như vậy quả thật rất vui. Tôi có bạn, có nơi để thuộc về, có những mối giao hảo đơn giản. Nhưng đôi khi, không hiểu sao, những điều tai nghe mắt thấy lẫn trải nghiệm trong lúc vui chơi cho tôi cảm giác thật giả tạo.
Lúc ấy tôi tự hỏi, “Đây là đâu?” Tôi căng thẳng, bối rối như đứng trên một sân khấu nhỏ, nơi mọi thứ đều là đồ giả. Tôi linh cảm nếu nhắm mắt, tất cả sẽ biến mất, như phông nền sân khấu bị dọn sạch.
Buổi chiều nọ, trên đường về nhà, tôi ngước nhìn rừng cao ốc của Shinjuku.
Gần như vô thực.
Tôi khép mi, tưởng tượng khung cảnh ấy vụt tan như cách phông nền sân khấu bị dẹp đi.
Nhưng điều đó không xảy ra. Đây chính là hiện thực. Tôi ngỡ mình đang nhìn ảo ảnh bên kia đại dương, nhưng chúng đều là thật. Những thứ tôi thấy thực sự tồn tại trên mặt đất.
Mi mới là ảo ảnh. Một cao ốc bảo tôi.
Tôi có cảm giác nó đang nói chuyện với mình.
Mi chỉ là một hồn ma không thực thể. Một cao ốc khác lên tiếng.
Cũng có thể.
Tôi lững thững bước như một hồn ma trắng xanh lang thang trên phố. Thứ vô thực là tôi, không phải thành phố này. Chắc đây mới là bản chất của sự việc lúc nãy.
Tôi ngước nhìn những tòa nhà chọc trời, tự hỏi rốt cuộc ở đó có ai, chuyện gì đang diễn ra.
Mi chẳng bao giờ vào được trong này. Mi không được đón nhận ở đây.
Ý nghĩ nặng nề ấy bủa vây tâm trí, dồn ép, đè bẹp tôi.
Mình bị cô lập. Mình không thuộc về thành phố này.
Tiếng nói của chính tôi vang vọng hỗn loạn trong đầu, giày vò tôi.
Nhưng bất chấp thực tế, tôi vẫn phải sống tiếp ở đây, hòa mình vào chốn này bằng mọi giá.
Một năm trôi qua, tôi lên lớp Mười một. Tôi chưa về nhà lần nào, kể cả dịp lễ Obon* và Tết.
Một ngày nọ, tôi lạc đường.
Chuyện xảy ra vào hôm đợt thi giữa kì một kết thúc, khi tiết xuân đã qua quá nửa. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình bị mù hướng, nhưng từ lúc lên Tokyo, tôi rất hay đi lạc. Lạc ở ga Shinjuku, nơi lộn xộn như khối mô sống phình ra mà thành. Lạc cả ở ga Ikebukuro, vốn được quy hoạch chỉnh tề như bàn cờ.
Tôi đang trên đường đi chơi đêm theo lời rủ rê của mấy đứa bạn, nhân dịp thi xong. Trời sâm sẩm tối. Chúng tôi thống nhất về nhà thay đồ rồi mới tập trung tại quán đã hẹn. Tôi chủ trương không từ chối lời mời kiểu này, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Tôi cần làm thế. Làm quen với phố xá, con người nơi đây, trở thành một phần của nó. Vì vậy, dù chẳng thích thú, tôi vẫn đi cùng bạn bè, giấu tiệt vẻ chán nản.
Nơi chúng tôi hẹn gặp là một club nhỏ theo phong cách rock, phân nửa xây chìm dưới lòng đất ở Nishi- Shinjuku. Nó nằm sát khu dân cư, hơi tách biệt khỏi phố phường sầm uất. Tôi từng đến đây vài lần. Quán bé, ồn ào, rất thích hợp để vẫy vùng giải tỏa.
Chẳng hiểu sao, hôm đó tôi không tìm ra quán dù đã đi lòng vòng hồi lâu. Rẽ ở chỗ cần rẽ, đi đúng đường cần đi mà mãi chưa đến đích. Tôi không có di động nên cũng vô phương liên lạc với đám bạn.
Rõ ràng nó ở đây…Tôi luẩn quẩn gần vị trí mình nhớ được. Chính lúc ấy, một cô gái trạc tuổi tôi bước tới từ phía sau, lên tiếng gọi.
“Bạn làm gì thế?”
Tôi giật thót. Ban đầu tôi tưởng mình bị nhầm là kẻ mờ ám vì đi loanh quanh, nhưng hình như không phải.
Trông cô gái có vẻ khá thân thiện. Cô mặc áo mỏng hở vai và quần jeans bó, đứng nghiêng người như dồn hẳn trọng lượng cơ thể lên một chân.
Tôi bối rối đáp, “Không... Mình lạc đường.”
“Bạn đi đâu?”
“Ờ...”
Vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi nhớ lại tên quán rồi trả lời cô. Gặp tình huống bất ngờ thế này (Được một cô gái lạ mặt vô cớ bắt chuyện là tình huống không thể bất ngờ hơn), tôi sẽ thật thà trả lời mọi câu hỏi như thằng ngốc, hồi lâu mới bắt kịp tình hình.
“À, mình biết chỗ đó. Bạn đi quá hai ngã rẽ rối.” Cô gái nói. “Phải đi hết đường này, rẽ ở lối thứ hai.”
“Cảm...”
Tôi chưa nói hết câu cảm ơn, cô đã tiếp lời.
“Bạn mù hướng hả?”
“Hình như vậy.”
Sỗ sàng quá nhỉ, tôi vừa đáp vừa nghĩ. Tôi muốn thanh minh rằng mình không mù hướng, ngặt nỗi đang đi lạc, nói ra cũng chẳng có sức thuyết phục.
“Bất ngờ thật đấy. Hóa ra Fujisawa đến cả những chỗ thế này.”
Tôi nhìn cô chằm chằm. Sao cô lại biết tên tôi?
Tôi không nhớ từng gặp cô. Nói đúng hơn, tôi hầu như chẳng có dịp tiếp xúc với con gái. Nhìn vẻ mặt hoang mang của tôi, cô chủ động lên tiếng.
“Mình biết bạn. Mình và bạn học chung lớp từ năm nay mà.”
“Ơ...”
“Bạn không nhớ à?”
“Ờ...”
Cô đưa tay túm mái tóc dài quá vai thành hai lọn. “Bình thường mình để tóc thế này.”
“À.”
Cuối cùng tôi cũng nghĩ ra. Đúng là có bạn gái như vậy trong lớp. “Xin lỗi, mình nhớ rồi.”
“May quá. Bạn mà không nhớ ra thì mình sẽ bị coi là đồ kì quặc mất.”
“Xin lỗi.” Nói xong, tôi tự nhủ sao mình phải làm thế. “Tại bạn không mặc đồng phục, còn để kiểu tóc khác nữa.”
“Ừ, cũng phải.” Cô nói tiếp với vẻ sắc sảo. “Nhưng mình biết kiểu tóc không phải lý do thực sự. Fujisawa là kiểu con trai đến cuối năm học cũng chẳng nhớ nổi mặt và tên con gái trong lớp, đúng chứ?”
Đúng chóc. Tuy nhiên, tôi chỉ ậm ừ kiểu nước đôi vì không muốn thừa nhận.
“Thật ra mình muốn bắt chuyện với Fujisawa từ lâu rồi.”
“Tại sao?” Tôi chân thành đặt câu hỏi. Nói thẳng, tôi không có điểm nào thu hút con gái.
“Tự nhiên muốn thôi.” Cô nối. “Nhưng Fujisawa lúc nào cũng ngẩn ngơ, mình nghĩ không nên làm phiền bạn nên chẳng dám đánh tiếng ở trường.”
“Ừm, vậy à?”
“Ừ. Bạn không biết sao? Bạn hay lơ đễnh nhìn chăm chăm vào một điểm trong không khí mà. Bạn nhìn gì vậy?”
“Mình không nhìn gì cả. Mắt mình còn chẳng tập trung vào đâu.”
“Vậy lúc đó bạn nghĩ gì?”
“Mình không nghĩ gì hết. Đầu mình trống rỗng...”
“Lạ thật. Bạn nên bỏ thói quen đó đi. Thỉnh thoảng bạn lại bất động như vật trang trí ấy.”
“Không, chuyện này...”
Tôi tự hỏi rốt cuộc cô gái này muốn gì. Tôi còn cuộc hẹn với bạn, điểm đến cũng biết rồi, phải đi ngay cho kịp.
“Sao bạn lại muốn đến quán đó?” Cô hỏi.
“Ý bạn là sao?”
“Lại ăn mừng sau kì thi đúng không? Fujisawa, đừng tới đó nữa.”
“Không tới đó thì đi đâu?”
“Cùng mình đến chỗ khác. Chỗ nào không có mùi thuốc lá ấy.”
Dường như tôi đã rơi vào một tình huống kì quặc. Được cô gái gần như mới quen bắt chuyện ở lề đường, rồi bị lôi đến quán nước, ngồi đối diện nhau. Tôi chẳng hề tự tin về bản thân nên tránh được hiểu lầm, tức là không ảo tưởng cô có hứng thú với tôi hay tương tự.
Nhưng tôi thấy khó xử vì chẳng nhớ nổi tên cô. Bầu không khí lúc này càng không thích hợp để hỏi. Lúc đi đường tôi đã cố lục tìm trong đầu. Bí quyết nhớ lại khi quên tên ai đó của tôi là dựa vào phụ âm và ấn tượng về hình ảnh. Cô bạn này gắn với gam màu lạnh thì phải. Còn âm tiết... Tôi lần lượt điểm qua k, s, t, n...
Cô dẫn tôi đến một quán cà phê sang trọng trên tầng hai một tòa nhà nhìn ra đường lớn. Mặt tiền của quán là vách kính nên khách có thể ngắm phố xá và người đi bộ bên dưới. Chúng tôi ngồi ghế giáp cừa sổ.
Mãi tới khi nhân viên đến lấy order, tôi mới nhớ ra cô là ai. Chúng tôi gọi cà phê và hồng trà. Đợi nhân viên đi khỏi, tôi lên tiếng thăm dò.
“Họ bạn là Mizuno phải không?”
“Bạn nhớ giỏi đó.” Cô chống cằm cười. “Vậy tên mình là gì?”
Trước bộ dạng lúng túng của tôi, cô cười bí ẩn, “Rika.”
“Rika?”
“Ừ, mình là Rika. Đừng quên nữa nhé.”
“Mình biết rồi. Giờ thì làm sao quên được nữa.”
“Tốt.” Mizuno Rika hài lòng gật đầu.
Cuối cùng tôi cũng đủ bình tĩnh để suy nghĩ. Tôi đã biết tên, nhưng chưa hiểu ý đồ của cô.
“Mizuno đang làm gì vậy? Bạn không mặc đồng phục, chắc là có việc ở khu đó?”
“Không... ừm...”
Mizuno ngó ra ngoài cửa sổ giây lát rồi quay lại nhìn tôi. “Mình hẹn gặp bạn nhưng bị cho leo cây. Đã cất công lên đồ, trang điểm, cứ thế đi về thì bực lắm.”
“Rồi bạn tình cờ thấy mình ở đó, bèn quyết định bắt chuyện?”
“Ừ.” Mizuno gật đầu không hề ngượng nghịu. “Mình càng đi càng tức. Đúng lúc ấy mình gặp Fujisawa ngẩn ngơ đi đi lại lại, sợ để mặc thì bạn sẽ ngã mất, mình gọi.”
Cách ăn nói sỗ sàng thật. Nhưng tôi lại thấy thuyết phục khi bị bảo là ngẩn ngơ. Có vẻ với cô gái này, “ngẩn ngơ” là từ khóa miêu tả tôi chính xác nhất.
“Mình lơ đãng lắm à?”
“Ừ. Ngay ban nãy đây thôi.” Mizuno khảng định chắc nịch. “Fujisawa lúc nào chẳng thế. Ngẩn ngơ, bần thần, tâm hồn lang thang tận đẩu đâu. Thình thoảng trông mặt bạn như đang thắc mắc ‘Sao mình lại ở đây?’. Nói thế nào nhỉ, mình có cảm giác Fujisawa luôn tự hoài nghi bản thân đang ở nhầm chỗ.”
Cô nhận xét như thể nhìn thấu tim gan tôi. Tôi im lặng. Tôi đã chú ý không bộc lộ thái độ đó ra ngoài cơ mà.
Dường như mặt tôi vừa biến sắc.
“Ấy, mình nối trúng tim đen phải không? Xin lỗi nha, tại mình khá nhạy cảm.”
Mizuno thẳng thừng nói đỡ. Cô có vẻ là người tốt, tính tình phóng khoáng.
Cô hỏi nhiều điều về tôi.
“Fujisawa là người thế nào?”
“Câu hỏi chung chung quá, mình không biết trả lời sao.”
“Vậy đổi câu khác, bạn sống ở đâu?”
“Trong quận Shinjuku. Cách trường mười phút đi bộ.”
“Ồ, thích thế! Bạn chọn trường vì gần nhà hả?”
“Không phải. Mình ở kí túc.”
Nghe nói tôi ở Aomori đến, bây giờ đang sống một mình, cô ngạc nhiên.
“Sao bạn lại chọn trường trên này?”
“Tại mình chán tuyết rồi.”
Tôi cười đáp, nhưng Mizuno không tin. Vì thế tôi trôi chảy nhắc lại lời giải thích dùng đi dùng lại cả năm nay. Thay vì ở quê, ngày ngày bắt tàu thường đến trường làng, thà lên thủ đô học trường điểm cho đỡ tốn thời gian, chi phí cũng chẳng chênh nhau mấy. Đại khái là vậy.
“Hừm...”
“Còn nữa, mình muốn đến nơi mình chưa biết.”
“À, chuyện đó thì mình hiểu.”
“Bạn hiểu thế nào?”
“Bố mẹ mình đều là người Tokyo.” Mizuno đưa tay chỉ mình. “Mình không có họ hàng ở quê, nên chỉ biết Tokyo thôi. Mình thực lòng ngưỡng mộ bạn đấy.”
“Chỗ nào ở Tokyo vậy?”
“Nhà mình á? Zoushigaya. Aomori là nơi thế nào?”
“Xứ tuyết. Nổi tiếng với táo, nhím biển, mực, lễ hội Nebuta và Dazai Osamu.”
“Mình không cần câu trả lời kiểu hiệp hội du lịch như thế. Cái mình muốn biết là lối sinh hoạt với không khí sống cơ.”
“Hỏi vậy cũng khó, chẳng có gì đáng nói đâu.”
Thú thật, tôi không muốn nhớ về quê lắm.
“Mình thắc mắc quá trớn à?”
“Không.” Tôi lắc đầu. “Mình mới phải xin lỗi vì chẳng nghĩ ra chuyện gì hay ho. Được các bạn nữ hỏi han mình cũng vui mà.”
“Cái này hơi khó nói, nhưng... Bạn đừng hiểu lầm nhé. Mình không có ý đó đâu...” Mizuno nghiêm mặt, ngồi thẳng dậy. “Mình có bạn trai rồi.”
“Cũng phải.” Tôi đáp.
Mizuno có vẻ phật ý. Tôi không biết vì sao.
“Sao bạn lại bảo ‘cũng phải’?”
Mấy năm nay tôi đã nghiệm ra, những cô nàng mà tôi thấy dễ thương đều có bạn trai cả rồi.
“Nhìn là biết. Bạn trai bạn là người thế nào? Cùng trường hả?”
“Ừ.” Cô khẽ gật đâu. “Bọn mình học chung hồi lớp Mười. Năm nay bị tách lớp rồi.”
Cô nói tên bạn trai. Tôi biết cậu, khá cao ráo, mặt mũi cũng ổn. Tôi nhớ lại mấy lần nói chuyện với cậu, không thấy ấn tượng xấu. Chắc là một thằng con trai tốt tính bình thường.
“Hai bạn bắt đầu hẹn hò thế nào? Một bên chủ động tỏ tình à?” Tôi hỏi.
“Sao nhỉ, tự nhiên đến với nhau thôi. Mình từng nghĩ giữ nguyên quan hệ mập mờ như thế cũng hay. Sau đó mình nghĩ lại, rồi quyết định bày tỏ trước.”
“Bạn nghĩ lại cái gì?”
“Cậu ấy đẹp trai.”
Câu trả lời tức thì của cô làm tôi bật cười. Dường như cô gái này có khả năng khiến những lời bình thường khó nghe trở nên lọt tai.
Đẹp trai nên thích, tôi thấy đó là cách nghĩ đúng. Đơn giản, dễ hiểu, tiêu chuẩn rõ ràng. Vướng mắc duy nhất là tôi không đời nào được xếp vào hàng trai đẹp...
“Vậy đứa như mình chắc chẳng hợp gu bạn đâu nhỉ?” Tôi thử hỏi cô.
“Ừ. Mặt bạn hoàn toàn không phải kiểu mình thích.”
Mizuno vừa cười vừa đáp dứt khoát. Tôi hơi thất vọng, song không giận.
“Nhưng có vẻ Fujisawa không hiểu lắm. Vậy là mình yên tâm rồi. Mình muốn hỏi bạn một chuyện. Thỉnh thoảng mình rủ bạn đi chơi được không?”
Tôi bất ngờ, lập tức hỏi tại sao. Cô vừa bảo đã có bạn trai, giờ lại nói những lời này, thật khó hiểu.
“Chỉ có bạn trai là bạn khác giới để nói chuyện, hơi tẻ nhạt phải không? Bạn đi với mình nhé, những lúc mình bị bỏ bom như hôm nay chẳng hạn, còn hơn cứ thơ thẩn một mình.”
Lối suy nghĩ thực khác người. Nhưng tôi cũng phần nào hiểu tâm trạng của cô.
Xét trên quan điểm đó thì Mizuno quả là có mắt nhìn người khi tìm ra tôi, đứa có thể yên tâm chơi cùng. Nhận định của cô khá chính xác. Tôi chẳng mấy hứng thú với vụ hẹn hò, dù việc này là rất bất thường trong trường hợp một thằng con trai đang tuổi lớn.
“Được thôi.” Tôi đáp. “Với điều kiện không nhầm lẫn linh tinh nhé.”
Chúng tôi chia tay trước quán cà phê. Tôi nhìn theo chốc lát khi cô hướng ra ga, rồi vừa đi bộ về nhà, vừa nhớ lại cuộc trò chuyện không đầu đuôi giữa hai đứa.
Cô nàng kì lạ thật, tôi nghĩ. Suy nghĩ, cảm nhận, cách nói chuyện đều khác thường.
Có đôi lúc tôi không bắt kịp tâm tư của cô. Cũng khó trách, mỗi người một khác mà. Đối với kẻ thơ thẩn sống từng ngày tẻ nhạt như tôi, gặp gỡ cô là một sự thay đổi. Nói ngắn gọn là mới mẻ và thú vị.
Đêm đó, tôi mơ về Sayuri.
Trong mơ, Sayuri ở một nơi lạ lùng mà tôi không biết đến. Không trung bao la nhuốm tông trầm như màu ảnh cũ. Tôi từng thấy sắc trời đó, nhưng không nhớ nổi thấy ở đâu.
Dưới vòm trời là rừng tháp nhọn xoắn. Nhiều vô kể. Hình dáng khác hẳn tháp Liên bang. Tháp Liên bang mang phong cách hiện đại, còn tháp ở đây toát lên tính nguyên thủy, tính dân tộc, tính hữu cơ nhiều hơn.
Chúng có màu ấm nóng của gốm nung sơ, vươn cao vút tựa trôn ốc, dài cỡ ngọn giáo.
Phần đỉnh bị cắt phăng như đầu nhọn của thanh lao bằng tre. Lõi có dạng trụ rỗng xoắn ốc, vừa vặn lộ ra ở đỉnh, tạo thành chỗ như đài quan sát với tầm nhìn bao quát tầng không.
Thứ duy nhất thấy được từ đỉnh là bầu trời. Ngẩng lên đương nhiên gặp trời, trông xuống cũng chỉ có trời bao la. Mặt đất không tồn tại nơi đây.
Sayuri đang ở đó.
Cô trưởng thành hơn đôi chút so với kí ức của tôi. Chắc hơn khoảng một, hai tuổi...
Cô ngồi ôm gối, cúi đầu. Hình bóng cô mong manh đến đáng sợ, trong suốt hệt linh hồn. Cô khóc thút thít. Trừ đôi lúc run rẩy bờ vai, cô hoàn toàn bất động. Giấc mơ chỉ xoay quanh Sayuri sụt sùi khóc không thôi.
Tiếng gió reo. Tiếng khóc rấm rứt.
Hai âm thanh ấy hòa vào nhau, vang vọng đây đau đớn giữa khoảng không vô tận.
Tôi tỉnh giấc, chìm trong tâm trạng bất lực, bứt rứt như có con sâu liên lục ngọ nguậy nơi lồng ngực. Tại sao Sayuri không ở bên tôi? Tại sao Sayuri biến mất? Tôi ngờ ngợ có gì đó nhầm lẫn. Cái sai ấy ngày càng tai hại. Cảm giác thật kì lạ, như vừa lạc sang thế giới khác.
Sao Sayuri lại ở nơi lạnh lẽo như vậy?
Không gian trong mơ vắng bóng sự sống.
Chính lúc đó, ý nghĩ Sayuri đã chết, không còn trên thế gian nữa nảy ra trong đầu tôi. Mọi thứ trước mắt tối sầm. Một năm rưỡi này, tôi chưa hề nghĩ đến điều đó. Có lẽ tôi đã vô thức trốn tránh.
Tôi đến trường, vào lớp, vừa bỏ cặp lên bàn thì bị vỗ “bộp” lên lưng. Tôi quay lại. Hóa ra là Mizuno Rika. Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, mỉm cười đầy ẩn ý nhưng hình như không định nói chuyện, nhanh chóng lướt tới chỗ đám con gái đang tụ tập.
Tôi đưa mắt dõi theo Mizuno. Trong khoảnh khắc, tôi đã hi vọng cô là Sayuri. Rồi tôi lập tức nhận ra, ý nghĩ đó thật méo mó, sai lầm và thất thố, lòng tràn ngập cảm giác căm ghét chính mình.
Thứ Bảy tuần tiếp theo, tôi nghe Mizuno gọi khi đang đi dọc hành lang ở trường. Theo quy định của trường, cuối tuần vốn là ngày nghỉ. Nhưng sáng thứ Bảy có giờ ôn thi, luật bất thành văn là tất cả học sinh đều phải tham gia. Khi ấy là sau giờ học, tôi đang định về kí túc. Mizuno hỏi tôi có bận gì không.
“Không. Mình về nhà ăn trưa rồi mới tính tiếp.”
“Hôm nay là thứ Bảy mà sao bạn rảnh thế? Không tin nổi bạn là người hiện đại luôn.”
“Có vấn đề gì đâu.”
“Ừ, tất nhiên. Cũng chẳng liên quan đến mình.”
“Rồi sao, gọi mình làm gì?”
“Rảnh thì đi ăn với mình nhé? Rồi đi cùng mình đến chỗ này?
“Được thôi? Tôi đáp. “Mình là kẻ nhàn hạ hiếm hoi trong đám người hiện đại mà?
Tôi và Mizuno rời trường, đi bộ ra ga Shinjuku.
“Giờ bọn mình đi đâu?” Tôi hỏi.
“Lên tuyến Yamanote, đi Ikebukuro?
Xuống ga Ikebukuro, cô kéo tôi vào một quán cơm hộp có chỗ ngồi. Quán dùng sản phẩm trồng trọt không hóa chất làm nguyên liệu nấu nướng. Khách được phục vụ ba món tự chọn kèm cơm, đồ muối chua và xúp miso tận bàn. Đồ ăn ngon hơn tôi nghĩ, cũng khá rẻ.
“Chỗ này ổn nhỉ. Nếu có chi nhánh ở Shinjuku, chắc ngày nào mình cũng tới?
“Ừ. Ở Nagano có đấy, nhưng ghé vào trên đường đi học về thì hơi xa.”
“Mà này, giờ bọn mình sẽ làm gì?”
“Ừm.” Mizuno nhìn đồng hồ. “Cứ thong thả chừng hai mươi phút nữa. Rồi đi xem kịch.”
“Kịch?”
“Ừ. Kịch nói đó. Bạn có hay xem kịch nói không?”
“Không... Mình chưa chủ động đi xem bao giờ.”
“Lần cuối bạn xem kịch là khi nào?”
“Ờ...” Tôi ngẫm nghĩ. “Hồi tiểu học, lúc mình theo ông tới Osaka chơi và xem kịch mới* thì phải...”
“Bạn có ông à?” Mizuno hỏi. “Thích thế...”
“Ừ. Nhưng sao bạn lại dẫn mình đi xem kịch?”
“Mình thích sân khấu kịch nhỏ, kiểu diễn nghiệp dư chẳng hạn. Nhưng chẳng ai chịu đi xem với mình. Chỉ rủ được một lần, đến lần hai là bị từ chối. Hình như mọi người đều thấy chán, dù không nói thẳng ra.”
“Thế à...”
“Đoàn kịch này có chừng năm người, do người quen của mình điều hành. Mình khá thích kịch của họ, nhưng lại mắc cái tính kén chọn, lúc ưng lúc không. Fujisawa khác người, biết đâu lại hợp gu.”
“Mình không khác người nhé.” Tôi buột miệng, tự dưng muốn phản pháo. “Mình chẳng có gì lạ cả, cũng chưa bị ai nhận xét như vậy bao giờ.”
“Rồi rồi, bạn thích nghĩ vậy cũng được.” Mizuno đáp qua loa. “Nói chung là đi với mình thêm lúc nữa.”
Đây là lần đầu tiên tôi đến sân khấu kịch nhỏ. Nghiêm túc mà nói thì đó là một không gian hẹp, được miễn cưỡng cải tạo để cho thuê, nằm trên tầng ba một tòa nhà phức hợp.
Tôi và Mizuno đến nơi trước giờ diễn chừng mười phút. Chúng tôi leo lên cầu thang hẹp, bước vào khán phòng. Chỗ ngồi của khán giả là những hộp gỗ xếp thành hàng, bên trên trải đệm ngồi, có vẻ là loại đệm mua ở cửa hàng đồng giá 100 yên.
Dù nhồi nhét chật cứng, chỗ này cũng chỉ chứa được năm mươi người là cùng. Khoảng một nửa chỗ đã kín. Khán giả phần lớn có dáng dấp sinh viên hoặc ăn mặc theo kiểu bụi bặm, rất có thể là người trong giới hay diễn viên kịch. Chỉ có tôi, Mizuno cùng hai cô gái khác mặc đồng phục cấp ba.
Sự tồn tại của sân khấu mộc mạc này cùng thực tế có khán giả đến xem khá là mới mẻ với tôi, kẻ chi biết đến dạng khán phòng có chỗ ngồi đâu vào đấy như rạp chiếu phim.
Không lâu sau, hai tiếng buzz đơn điệu vang lên, đèn chiếu sáng ghế khán giả tắt phụt. Âm thanh chuẩn bị lạch cạch phát ra từ phía sân khấu. Một lúc sau, đèn sân khấu từ từ bật sáng.
Không gian trước mắt khán giả mô phỏng phòng chung cư khép kín với nội thất tối giản. Sau hiệu ứng âm thanh tái hiện tiếng mở cánh cửa thép, một cô gái trẻ bước ra sân khấu. Cô mệt mỏi cởi áo khoác, nói chuyện với mèo, vuốt ve nó, cho nó ăn. Nhưng trên sâu khấu chẳng có con mèo nào cả. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh có một con mèo, dù nó không có thật. Đó là nội dung vở diễn.
Cô gái là nhân viên công sở, sống một mình, mang vẻ mệt mỏi thường thấy ở phụ nữ trẻ độc thân. Cô kể nhiều chuyện với con mèo, những câu chuyện ấy lại hé mở nhiều bối cảnh khác nhau.
Con mèo không có lời thoại hay hình dáng, nhưng nó dịu dàng và yêu thương cô gái. Khán giả nhận ra điều đó qua diễn xuất của cô. Thỉnh thoảng con mèo bỏ nhà đi với nàng mèo của nó, khi lại bị tai nạn không về được. Mỗi lúc như thế, cô gái vô cùng lo lắng. Nhưng cuối cùng, cô vẫn lấy lại được động lực bước tiếp nhờ con mèo. Vở kịch có nội dung như vậy.
“Hay hơn mình nghĩ rất nhiều.”
Tôi nói với Mizuno lúc hai đứa đang đứng trong hàng người có phần nhốn nháo hướng về phía cửa ra, sau khi vở kịch hạ màn.
“Chỗ ngồi chật có làm bạn khó chịu không?”
“Chỗ ngồi chật có làm mình khó chịu. Tôi thành thật đáp. “Nhưng nội dung vở kịch hay. Mình thích cảm giác thủ công toát lên từ mọi thứ. Đạo cụ sân khấu do diễn viên tự làm hết phải không?”
“Chắc thế. Toàn người không có tiền mà. Mình đoán họ tận dụng đồ đạc, có khi là đồ của chính họ, biến tấu đi để dùng trên sân khấu.”
“Cách làm hay thật.”
“Nội dung thì sao?”
“Bố cục chặt chẽ. Dòng thời gian đổi chiều liên tục, phức tạp, tưởng như chạm ngưỡng rối loạn, nhưng thú vị.”
“Có vẻ họ phải công phu như thế vì ít diễn viên.”
Ra khỏi tòa nhà, chúng tôi bắt gặp dàn diễn viên vừa diễn trên sân khấu khi nãy đang dàn hàng chào khán giả. Nhìn thấy Mizuno, anh chàng đeo kính đóng vai phụ cất tiếng gọi. Lúc sau hỏi Mizuno tôi mới biết, anh ta là trưởng đoàn kịch.
“Nhóc Rika, cảm ơn em đã đến xem nhé.Thấy thế nào?
“Anh chàng khó tính này bảo là hay tuyệt ạ.” Cô chỉ tôi, đáp.
“Ơ, cậu này khác cậu lần trước. Bạn trai mới hả?”
“Thật ra không phải, nhưng cũng đại loại thế ạ.” Mizuno nói bằng giọng trêu đùa.
“Cơ mà đẹp đôi đấy. Trông tự nhiên hơn cậu hồi trước.” Anh trưởng đoàn nói.
Sau đó tôi và Mizuno đi bộ ra ga. Đang đi, tôi chợt thắc mắc.
“Có phải bạn từng diễn trên sân khấu không?”
“Sao bạn lại nghĩ thế?”
“Chẳng biết, mình có cảm giác vậy thôi.”
“Ừ.” Mizuno gật đầu. “Mình tham gia một đoàn kịch không chuyên kiểu đó từ lớp Chín đến hết hè năm ngoái. Nhưng mình nghỉ rồi.”
“Tại sao?”
“Kể ra dài lắm. Một khi đã diễn cùng, quan hệ giữa con người ta với nhau sẽ rất sâu đậm. Dần dà nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh, nhóm giải tán, các thành viên tản mát rồi lần lượt gia nhập những đoàn kịch nhỏ khác nhau. Mình thì nản, có nhiều lời mời nhưng không nhận. Nhưng mình vẫn đi xem kịch của người quen cũ, như hôm nay chẳng hạn.”
“Ừm, vậy à.” Tôi đáp. Tôi không rõ lắm, có vẻ ý cô là kịch làm cho quan hệ giữa người với người sâu sắc hơn, kéo theo không ít áp lực. Nhìn lại chính mình, tôi thấy cô nói cũng đúng. Mối quan hệ càng khăng khít thì người trong cuộc càng mệt mỏi.
Chúng tôi xuống ga Ikebukuro. Mizuno kêu mệt nên sẽ về Higashi-Ikebukuro bằng tàu điện ngầm. “Gặp sau nhé”, tôi nói và dợm bước về phía sân ga đi Shinjuku của tuyến Yamanote, nhưng lại bị cô kéo tay áo, “Tiễn mình đi, đến cửa soát vé cũng được.” Tôi đành làm theo. Thế là cô quẹt thẻ đi qua cửa soát vé, leo thẳng lên cầu thang dẫn tới sân ga, không quay lại lần nào.
Chẳng phải bạn mới là người bất thường hả?
Đòi người khác tiễn mà chẳng thèm ngoái đầu nhìn, cũng chẳng vẫy tay chào. Thật không hiểu nổi cô gái này nghĩ gì nữa.
Tôi lên tàu với tâm trạng bức bối, trở về căn phòng của mình ở Nishi-Shinjuku.
Sau hôm đó, tôi và Mizuno còn hẹn hò thêm nhiều dịp, với tần suất khoảng hai lần một tháng. Tôi không gọi những buổi đi chơi đó là hẹn hò. Mizuno mới là người luôn miệng nói “Chúng mình hẹn hò đi” khi rủ tôi.
Có hôm chúng tôi chỉ uống trà, cũng có hôm tôi bị cô kéo đi mua sắm từ trưa đến hết ngày. Hình như cô chỉ tìm đến tôi khi không rủ được người bạn nào khác. Vậy thì hẳn là cô thường xuyên đi chơi kiểu này với nhiều người khác nhau, ở những chỗ khác nhau. Tưởng tượng thôi đã thấy vô cùng vất vả.
Những khi rủ tôi, trông cô luôn có vẻ mệt mỏi. Thi thoảng cô lại đột ngột chìm vào im lặng, nuốt xuống từng đợt sóng khó nhọc trào dâng trong lòng. Có lẽ cô đang cố thoát khỏi nỗi mỏi mệt bằng cách dịch chuyển không ngừng nghỉ dù chẳng thấy phương hướng. Tôi thích cách nghĩ đó và cũng đồng cảm với cô. Vì thế, tôi cố gắng ở bên cô hết mức có thể.
“Liệu bọn mình có bị hiểu lầm không nhỉ?”
Tôi nêu ra băn khoăn của mình khi hai đứa đang ở quán stand coffee* tự phục vụ.
“Ai hiểu lầm? Hiểu lầm cái gì?”
“X ấy.” Tôi nhắc tên cậu bạn cùng khóa đang hẹn hò với Mizuno. “Ngày nghỉ mà bọn mình còn gặp nhau thế này.”
“Sao? Bạn muốn nói về chuyện đó hả?”
“Mình không muốn nói đâu. Nhưng kiểu gì cậu ta chẳng để bụng.”
“Cũng phải, nếu biết chắc cậu ấy sẽ khó chịu.” Mizuno thản nhiên nói. “Nhưng chả sao, cậu ấy nghĩ thế nào cũng được. Mặc kệ đi.”
“Kệ được sao?”
“Ừ. Mình đã quyết định bơ cậu ấy một thời gian.”
Tôi không biết nên can thiệp đến mức độ nào, bèn gật đầu qua loa.
Chúng tôi chuyển chủ đề tán gẫu được một lúc thì cô đột nhiên bảo.
“Tóm lại là, cậu ấy rất tò mò về cơ thể mình.”
Ban đầu tôi bối rối không hiểu đầu đuôi ra sao, lúc sau mới nhận ra cô đang nói về bạn trai.
“Âu cũng là chuyện đương nhiên thôi.” Tôi nói.
“Đương nhiên?”
“Mình thấy bình thường mà?”
“Ừ... Cũng đúng.” Cô im lặng một lúc rồi nói.
“Nhưng mình không thích thế.”
Tôi lựa lời thật cẩn thận, tránh đả động đến hàm ý kia.
“Tức là bạn không thích cậu ấy đến vậy?”
Mizuno đột ngột tỏ vẻ nghiêm nghị, nhìn thẳng vào tôi, “Bạn đừng nói những lời như thế.”
Tôi cười trừ, lên tiếng xin lỗi, “Cậu ta được đấy, mình chỉ muốn nói vậy thôi.”
“Mình biết.”
“Mình thích cậu ấy. Nhưng hai chuyện khác nhau. Fujisawa hiểu mà. Cậu ấy thì không.”
“Ừm.” Tôi khịt mũi, thầm cảm thông với cả hai. Có vẻ tình cảm của họ không êm ấm cho lắm. “Mình hiểu cảm giác ấy...”
“Cảm giác của ai?”
“Tất nhiên là của con trai rồi.”
“Ơ, thật sao?” Cô ngạc nhiên thấy rõ. “Fujisawa cũng tơ tưởng đến chuyện đen tối hả?”
“Từ từ đã, bạn nói gì thế? Bạn nghĩ mình là kiểu người gì vậy?”
“Không được. Mình không thích.” Mizuno nhổm dậy, nói. “Fujisawa đừng dính đến mấy chuyện đó. Đừng nghĩ đến. Mình không muốn Fujisawa dây vào. Bạn cứ thơ thơ thẩn thẩn còn hơn...”
“Bạn nói vô lý quá...”
Rốt cuộc cô nghĩ thế nào về tôi nhỉ? Mà dù sao tôi cũng chẳng bận tâm...
Có lẽ trong hoàn cảnh này, người khác sẽ nổi cáu hoặc khó xử vì không được coi là đàn ông. Nhưng tôi vốn có đức tính không để bụng chuyện nhỏ nhặt như vậy.
Lơ đãng nhìn những ngón tay mảnh dẻ của Mizuno nắm lấy cốc trà đá, tôi bỗng nhớ về Sayuri, nhớ lại giây phút giữ chặt tay Sayuri lúc cô sắp rơi xuống nước ở nhà ga bỏ hoang, vào ngày tôi gặp cô lần cuối.
Ngẫm mới thấy, đó gần như là lần duy nhất tôithực sự chạm vào cơ thể Sayuri.
Tôi nhìn tay mình. Xúc giác hầu như không còn đọng lại. Nhưng tôi nhớ mình đã hoảng hốt và hôi hộp thế nào. Tôi ngạc nhiên trước bản thân khi kịp nắm lấy tay Sayuri trong gang tấc, trước cảm giác mảnh khảnh, lạnh lẽo, mềm mại nơi cổ tay cô.
Hành động ấy là một kì tích, hệt như trong phim điện ảnh Hollywood. Chắc chắn nó không bao giờ xảy đến lần thứ hai.
Không... không phải.
Nếu quay lại mùa hè năm lớp Chín, chắc chắn tôi có thể làm điều tương tự, dù bao nhiêu lần đi nữa. Ít nhất, khi đó tôi có lòng tin vững vàng rằng mình làm được. Không hiểu sức mạnh dồi dào khi đó đã biến đi đâu?
Đúng rồi... Có lẽ tôi đã truyền hết cho Sayuri vào ngày hè ấy.
Dường như tôi đang bị ám ảnh bởi kí ức về cái ngày dùng hết sức bình sinh giữ lấy Sayuri. Tôi muốn trân trọng kí ức này chăng?
Ý nghĩ thật ngu ngốc. Sayuri không còn nữa, cũng chẳng có cơ hội gặp lại.
Nhưng mất một lúc lâu, tôi vẫn không thể rời mắt khỏi bàn tay đã mất hết vết chai sần của mình.
Cái nóng oi bức của mùa hè qua đi, cuối cùng mùa thu cũng tới.
Hôm đó, trông Mizuno bồn chồn, xuống tinh thần hơn mọi ngày.
Có vẻ cô ghét bị hỏi han chi li về sức khỏe hay tâm trạng, nên lúc đầu tôi vờ như không thấy. Nhưng nhìn cô gõ ngón tay lên bàn, vô cớ nhìn quanh, tôi không kìm được thắc mắc.
“Có chuyện gì à?”
Tan học, chúng tôi đi Ikebukuro. Tôi đứng lại, hỏi bằng giọng dịu dàng nhất có thể.
“Ừ.”
Mizuno gật đầu đáp cho qua. Có vẻ cô không muốn nói. Cũng chẳng sao. Ai cũng có bí mật cả.
Nhưng sau đó cô liên tục thở dài. Không phải tiếng thở dài vì chán nản, mà là tiếng thở khó nhọc như phải tìm cách hô hấp. Đó là hơi thở cùa người đang cố giữ bình tĩnh. Sắc mặt cô cũng không tốt.
Tôi chăm chú nhìn cô, “Bạn khó chịu hả?”
Cô im lặng gật đầu.
“Hôm nay đừng đi nữa. Mình đưa bạn về nhà.”
“Không.” Mizuno lắc đầu quầy quậy, “Ở nhà chẳng có ai. Hôm nay mình không muốn một mình.”
“Đúng là có chuyện rồi.”
Cô khẽ gật. Không phải vì đồng ý mở lòng mà vì hết năng lượng để bác bỏ, đành cúi đầu thừa nhận. Tôi đỡ cô tựa vào bức tường ốp gạch của quán pizza trước mặt. Sau đó tôi cũng đứng dựa vào tường, đợi cô bình tình lại.
“Bạn mình...”
“Ừ?”
“Mình có một đứa bạn...”
Mizuno bắt đầu kể bằng giọng nhỏ, ngắt quãng.
Tôi nghĩ nên vừa nghe vừa xen vào đôi lời cho cô dễ giãi bày.
“Bạn gái à?”
“Ừ.”
“Mình có biết không?”
“Chắc là không.”
“Ừ.”
“Mình cãi nhau với bạn ấy. Bọn mình vẫn hay cãi cọ, nhưng đây là lần đầu lớn chuyện như vậy. Mấy tháng nay bọn mình tuyệt giao hoàn toàn, gặp nhau ở trường cũng chẳng nói câu nào. Nhìn thấy mặt bạn ấy là mình tức.”
“Lý do là gì?”
“... Mình không muốn nói.” Cô cọ đế giày xuống mặt đường lát gạch. “Nhưng mình không sai. Rõ ràng bạn ấy mới có vấn đề. Nghĩ đến chuyện lúc đó là mình tức. Mình bực suốt từ bấy đến giờ. Chừng nào bạn ấy chưa chịu nhượng bộ, mình tuyệt đối không tha thứ.”
Nói tới đây, cô im lặng.
Đúng hay sai thì trái tim vẫn tổn thương, thỉnh thoảng lại đau nhói. Tôi định nói để khuyến khích cô kể thêm, nhưng lại thôi.
“Theo lời bạn kể, bạn đã chơi với cô ấy khá lâu phải không?”
Cô ừ một tiếng qua hơi thở, “Bọn mình quen nhau từ lúc lên cấp hai, bốn, năm năm rồi.”
Tôi cố gắng không nhớ lại thời cấp hai của mình. Nhưng tôi vẫn lên tiếng với sự đồng cảm từ thâm tâm.
“... Khó chịu thật.”
“Hà Lan ấy.” Cô đột ngột nói. “Đất nước của hoa tulip rồi cối xay gió gì đó. Đồ ngốc.”
“Bạn bảo sao?”
“Bạn ấy qua đó. Đi bằng máy bay. Vì chuyện gia đình.” Cô nhát gừng đáp như cái máy.
“Khi nào?”
“Hôm nay.”
“Bạn không đi tiễn à?”
“Không. Hiển nhiên còn gì. Mình không thích. Bạn ấy sẽ lại giận mình cho xem... Giận là phải, mình còn chẳng hỏi địa chỉ mới của bạn ấy mà. Mình ngẫm ra, bạn bè cũng chỉ đến thế mà thôi. Đành chấp nhận chứ biết làm sao. Nhưng mình cứ bứt rứt khó chịu, mình muốn có ai đó để san sẻ. Nên hôm nay Fujisawa phải đi cùng mình đến tối. Hiểu chưa?”
Nghe lời kể dài dòng của cô, càng lúc tôi càng bực. Cơn giận như một thứ chất lỏng dâng lên tận cổ họng. Cố lắm tôi mới nhịn được mà nghe cô nói hết. Cô dứt lời, tôi liền nổi đóa.
“Đồ ngốc! Còn đứng đó làm gì!”
Mizuno giật mình co người lại.
“Mấy giờ bay?”
“Mình không biết... “
“Chắc chắn bạn biết!”
“Hình như là 7 giờ gì đó... Này!”
Tôi nắm lấy cổ tay Mizuno, kéo cô theo, vừa đi vừa nhẩm lại bản đồ đường sắt nội đô. Tháng đầu tiên ở Tokyo, tôi đã chăm chỉ nghiên cứu bản đồ, ghi nhớ từng điểm đổi tuyến để quen với đường sá trong thànhphố. Ra ga Ikebukuro, đón tàu tuyến Yamanote, xuống ga Nippon, chuyển sang tàu tốc hành tuyến Keisei Honsen, đi thêm một giờ. Chừng tiếng rưỡi là đến nơi. Vẫn kịp. Đầu óc tôi bừng bừng vì tức giận.
“Này, đau mình. Này! Bạn kéo mình đi đâu thế?”
“Narita* chứ còn đâu nữa!”
“Không thích! Mình không đi!”
“Mình không cho phép.”
Giọng tôi vừa trầm, vừa như gầm gừ, chính tôi cũng thấy đáng sợ. Tôi sẽ không buông tay. Không thể để cô trốn chạy ở đây. Tôi bước nhanh về phía ga, nửa như lôi cô theo.
Vào đến ga Ikebukuro, Mizuno lên tiếng.
“Chờ chút! Mình không chạy đâu, bạn cứ bỏ tay ra đã.”
Nghe giọng điệu nghiêm túc của cô, tôi đồng ý buông tay.
“Nghe mình nói này. Bạn đang giận hả? Sao lại giận?”
“Mình đang giận.” Tôi nói. “Mình không chấp nhận được chuyện như thế.”
“Chuyện như thế nào?”
“Trốn tránh điều quan trọng vào thời khắc quan trọng.”
“Mình chẳng hiểu gì hết.” Cô nói. “Chỉ là đi tiễn hay không thôi mà. Bạn ấy đâu ở nước ngoài mãi, mình cũng biết địa chỉ và số điện thoại nhà bạn ấy ở đây. Sao phải làm quá lên?”
“Mình không hề làm quá. Bạn không hiểu đâu.” Tôi chặn lời cô. “Có thể đây là lần chia ly suốt đời đó, hoàn toàn có thể. Bạn chẳng biết gì cả. Địa chỉ liên lạc sẽ thay đổi ngay thôi. Danh bạ hay sổ địa chỉ cũng sẽ biến mất lúc nào không hay. Kí ức còn phai mờ cơ mà. Con người ta chia lìa mãi mãi chỉ vì những lý do giản đơn như thế đấy. Nếu hôm nay không đi, chắc chắn bạn sẽ hối hận. Ngày này sẽ là ngày hai bạn cách biệt mãi mãi, về sau muốn gặp cũng không thể. Không phải lúc giận dỗi vì những chuyện cỏn con đâu.”
“Đâu phải chuyện cỏn con...”
“Được rồi. Không cỏn con. Kể cả thế cũng không phải lúc.” Tôi đanh giọng khẳng định như thể dựng lên bức tường sắt.
“Để mình nghĩ chút đã.”
“Được. Lên tàu tha hồ nghĩ.”
Biết tôi hoàn toàn không có ý nhượng bộ, nét mặt cô cứng lại.
“Mình đi mua vé đây.”
Tôi mua hai vé rồi quay lại. Mizuno không bỏ đi mà ngoan ngoãn đứng đợi. Nhận lấy tấm vé tôi đưa, cô uể oải đi qua cổng soát vé. Dường như cô bỏ cuộc không phải vì bị tôi thuyết phục, mà vì cảm xúc đã dịu đi, chẳng còn sức kháng nghị nữa.
Chúng tôi lên tàu tuyến Yamanote, xuống ga Nippori. Chuyển sang tuyến Keihan hai đứa mới có chỗ ngồi. Cả hai im lặng trên tàu. Mizuno cứ nắm vào rồi xòe ra hai bàn tay đặt trên đùi. Tàu điện tốc hành tiến vào ga sân bay Narita rồi dừng lại.
“Đến nơi rồi.”
Cô vẫn ngồi im.
“Phải rồi.” Vừa dợm đứng dậy, tôi lại ngồi xuống. “Bọn mình cùng nghĩ thêm lúc nữa nhé.”
“Không cần đâu. Mình sẽ đi.” Cô nói khẽ qua tiếng thở.
Chắc lúc nãy tôi đã quá lời với cô bạn tâm tình bất ổn. Tôi bỗng thấy áy náy.
Trông cách cô uể oải đứng lên, tôi không yên tâm nổi, bèn nắm lấy tay cô, không hề có suy nghĩ bậy bạ trong đầu. Cô cũng nhẹ nhàng nắm lại.
Hai đứa cầm tay nhau đi vào sảnh sân bay.
Cô không biết số hiệu chuyến bay và giờ cất cánh chính xác, nên tôi ra quầy thông tin gần đó kiểm tra, xem luôn cổng lên máy bay. Tôi hỏi nhân viên cách yêu cầu sử dụng loa phóng thanh. Rồi tôi dẫn cô đến trước sơ đồ sân bay, giơ tay chỉ, nói rằng chắc chắn bạn cô sẽ đi từ điểm hẹn gặp đến quầy này, hãy thử tìm quanh đó, không thấy thì gọi qua loa phóng thanh xem sao. Cô ngoan ngoãn gật đầu.
“Bạn đi đi. Cố lên.”
Lúc này can thiệp thêm chính là gây cản trở. Tôi vẫy tay rồi quay người đi.
“Không được. Khoan đã.”
Bị cô kéo lưng áo, tôi đứng lại.
“Sao thế?”
“Ở lại đây đợi mình.”
“Nhưng...”
“Đợi đi!”
Nói rồi cô chạy đi luôn, không chờ câu trả lời. Tôi đành tựa vào tường, đợi cô quay lại. Dòng người đông đúc kéo va li ra vào gian sảnh rộng hơn cả sân vận động trường cấp ba.
Tôi nhắm mắt, ngăn tâm trí khỏi âm thanh ồn ào.
Mizuno thật may mắn. Tôi ghen tị với cô.
Giữ được mối liên hệ với người mình hằng tin tưởng là một niềm hạnh phúc. Muốn là có thể nói chuyện qua điện thoại, tưởng hiển nhiên, nhưng lại ngoài tầm với của tôi.
Tôi nghĩ về Sayuri, lòng đau nhói. Tôi chẳng có phương thức nào để kết nối với cô.
Mizuno gặp bạn chưa nhỉ? Không nghe tiếng loa, chắc họ gặp nhau rồi. Tôi mừng cho cô, như thể chính t