CHƯƠNG 3 MELANIE-New York, 1986
Cửa phòng của bác sĩ trị liệu đang mở nên tôi rụt rè bước qua ngưỡng cửa. Bên ngoài cửa sổ, mưa rả rích, và văn phòng có vẻ tối, chỉ được thắp sáng bởi một ngọn đèn đứng duy nhất trong góc, dù rèm cửa mở ra để có thể nhìn ngắm khung cảnh lá rơi đầy trời bên ngoài. Mắt tôi bị hút vào cảnh tượng thiên nhiên đó trước khi thấy bác sĩ trị liệu.
Anh ấy đang ngồi sau chiếc bàn cổ, nhưng nhanh chóng đứng dậy và tiến lại chào tôi. “Chắc cô là Melanie,” anh nồng nhiệt nói. “Tôi là bác sĩ Robinson. Mời vào.”
Cảm thấy hơi e ngại - vì tôi không có thói quen tiết lộ những bí mật và nỗi bất an sâu kín nhất của mình cho người lạ, hoặc cho bất kỳ ai - tôi buông dây đeo ví ra khỏi vai và tiến đến chiếc ghế sofa bọc da màu nâu sô-cô-la mà tôi đoán là dành cho bệnh nhân. Bác sĩ Robinson đợi tôi ngồi rồi mới thả mình xuống chiếc ghế bành bọc da lớn và đặt một cuốn sổ ghi chú lên đùi.
Không ai trong chúng tôi mở lời trong khi tôi đưa mắt nhìn quanh phòng. Tôi nghiền ngẫm tấm thảm Ba Từ màu đỏ dưới chân và những tấm ván gỗ tối màu được trang trí công phu cùng đồ nội thất cũng bằng gỗ cổ điển đầy ấn tượng. Sách ở khắp mọi nơi, xếp chồng lên nhau trên mặt lò sưởi và chất đầy ở mọi góc trên giá sách phía sau bàn làm việc của bác sĩ Robinson. Trên đầu tôi là một chiếc đèn chùm bằng đồng cần được đánh bóng kỹ lưỡng.
“Căn phòng đáng yêu quá,” tôi nhận xét, vẫn nhìn xung quanh mà không hề nhìn vào mắt bác sĩ. Nhưng anh ấy có thực sự là một bác sĩ không? Tôi vô thức tự hỏi. Một nhà tâm thần học? Hay anh ấy là tiến sĩ, giống như tôi? “Hệt như bối cảnh trong tiểu thuyết của Edith Wharton.”
Bác sĩ Robinson cũng nhìn quanh. “Tôi nghĩ vậy. Cô có phải là người hâm mộ Edith Wharton không?”
Tôi nhún vai. “Tôi đã đọc The Age of Innocence (Thời thơ ngây) hồi năm đầu đại học khi tham gia một khóa học viết lách.”
Anh ấy khoanh tay trên đùi và nghiêng đầu, kiên nhẫn đợi tôi nói tiếp.
“Tôi học chuyên ngành khoa học,” tôi giải thích. “Tôi có rất nhiều sách giáo khoa phải đọc. Những thứ cần ghi nhớ. Các phương trình phải giải. Đọc tiểu thuyết lãng mạn giống việc tôi nên làm trong kỳ nghỉ hè hơn.”
Bác sĩ gật đầu, và chỉ khi đó tôi mới cho phép mình thực sự nhìn anh ấy thay vì đồ trang trí. Anh ấy bao nhiêu tuổi? Tôi tự hỏi. Ba mươi chăng? Anh ấy có đôi mắt xanh và quai hàm chắc khỏe. Tôi lại nhìn đi chỗ khác - lần này là nhìn vào những chiếc gối tựa trên ghế sofa. Tôi vuốt phẳng một trong số chúng và cố làm nó phồng lên một chút.
Bác sĩ Robinson không nói gì. Anh chỉ ngồi đó, lặng lẽ quan sát tôi. Tôi cảm thấy mình giống như một mẫu máu trên lam kính dưới kính hiển vi.
“Vậy điều gì đã đưa cô đến đây hôm nay, cô Melanie?” Anh hỏi, và tôi rất biết ơn vì cuối cùng anh đã bắt đầu cuộc trò chuyện, bởi tôi không biết phải nói gì. Sự im lặng làm tôi rối bời.
“Tôi không định làm điều này,” tôi đáp, nhặt một sợi chỉ xổ ra từ chiếc quần jeans của mình. “Trưởng khoa Vật lý ở Columbia khuyên tôi đến đây. Tiến sĩ Fielding ấy? Ông ấy nói chi phí trị liệu sẽ do khoa lo hết.”
Bác sĩ Robinson gật đầu. “Đúng. Và tại sao ông ấy lại đề nghị cô nói chuyện với ai đó?”
“Bởi tôi đã trễ một số việc. Tôi đang làm luận án tiến sĩ về vật lý hạt cơ bản,” tôi giải thích, “nhưng dạo này hình như tôi không còn hứng thú nữa. Tiến sĩ Fielding bảo ông ấy lo lắng cho tôi.” Tôi đảo mắt nhìn đi chỗ khác. “Hoặc ông ấy chỉ nói thế thôi. Tôi nghĩ ông ấy quan tâm đến nghiên cứu hơn là quan tâm đến tôi. Có một số nhà tài trợ quan trọng đã cung cấp chi phí cho dự án.”
“Nghiên cứu gì vậy?”
Tôi nhìn thẳng vào mắt bác sĩ Robinson. “Tôi đang nghiên cứu về năng lượng điểm không[1] - trường hợp mà mọi hoạt động trong nguyên tử dừng lại - và những tác động liên quan mà chân không lượng tử có thể gây ra với máy bay. Hay nói theo cách thông thường, tôi đang cố gắng giải đáp bí ẩn tại sao máy bay mất tích ở Tam giác Quỷ Bermuda.”
Anh ấy hơi nghiêng đầu về phía sau. “Ồ, nghe thú vị đấy.”
“Tôi luôn nghĩ như vậy,” tôi trả lời. “Tất nhiên, chuyện máy bay mất tích có thể xảy ra mọi lúc, ở mọi nơi trên thế giới này, nhưng tôi đã tìm kiếm các hồ sơ tại NTSB - Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia - và thấy tần suất máy bay mất tích ở Tam giác Quỷ cao hơn nhiều so với ở nơi khác. Và tôi đang không nói tới những vụ va chạm bình thường. Những vụ việc đó đều có thể lý giải. Thứ mà tôi đang nhắc đến là những chiếc máy bay biến mất không dấu vết, và thường có những tình huống bất thường xảy ra xung quanh những vụ mất tích này, khiến các nhà điều tra phải đau đầu bối rối,” tôi dừng lại và ngả người ra sau. “Dù sao thì Tiến sĩ Fielding cũng đã nghĩ tôi cần nói chuyện với ai đó để tìm ra nguyên nhân khiến tôi không còn động lực nữa.”
Bác sĩ trị liệu của tôi vẫy tay trong không khí như thể anh ấy đang chỉ huy một bản sonata. “Tại sao cô lại nghĩ mình đã mất hứng thú?”
“Chà...” Tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn. “Mẹ tôi vừa qua đời. Đó là lý do tại sao tôi được đề nghị nói chuyện với ai đó. Để vượt qua nỗi đau của tôi.”
Bác sĩ Robinson lại nhìn tôi chằm chằm, như thể tôi là một thứ gì đó mà anh đang cố xác định từ một khoảng cách rất xa. “Tôi rất tiếc về chuyện của mẹ cô. Cô có ở cạnh bà lúc đó không?”
Không suy nghĩ gì cả, tôi thở dài thườn thượt và nhận ra có vẻ như cái thở dài ấy nghe như tôi đang thất vọng trước câu hỏi của anh, mà có khi tôi thất vọng thật. Nó quá dễ đoán. “Bà mất đột ngột,” tôi đáp. “Một cú sốc đối với tôi. Tôi nghĩ chắc hẳn anh đã từng nghe về cơn lốc xoáy ở Oklahoma gần đây rồi? Nó phá nát một bãi đậu xe kéo và khiến rất nhiều người bỏ mạng?”
“Vâng, mẹ cô là một trong số đó ư?”
“Vâng.”
Anh ấy nhíu mày. “Tôi rất tiếc khi nghe chuyện đó. Cô đã ở đâu khi nó xảy ra?”
“Tôi ở New York. Tôi đã thấy tin tức về nó, rồi cảnh sát gọi điện cho tôi và nói rằng bà ấy... anh biết ấy... nói rằng bà ấy đã mất.”
Anh gật đầu tỏ vẻ đồng cảm.
Lại một khoảng lặng kéo dài và khó chịu nữa.
“Tôi đã không ở nhà gần hai năm,” tôi giải thích, cảm thấy áp lực khi làm điều này. “Tôi thậm chí không thể nhớ lần cuối chúng tôi nói chuyện qua điện thoại là khi nào.”
Khi tôi bắt đầu nhặt sợi chỉ xổ trên quần jeans của mình lên một lần nữa, anh lại đẩy cảm xúc của tôi đi xa hơn. “Có lý do gì khiến hai người như vậy không?”
Tôi bắt đầu hiểu hơn về tình huống hiện tại. Đây không phải là một cuộc đối thoại kiểu đấu quần vợt, bóng đi đi lại lại trên lưới và cả hai tay vợt đều đóng góp như nhau. Chỉ có tôi, đánh bóng vào một bức tường không mấy nhiều lời. Điều đó có nghĩa là tôi phải tiếp tục nói chuyện - nếu không, chúng tôi sẽ chỉ ngồi đó, gặm nhấm những khoảng lặng khó xử mà thôi.
Nhìn xa xăm về phía khung cảnh lá rơi bên ngoài cửa sổ, tôi nói, “Khi tôi rời nhà để đi học đại học, tôi đã không liên lạc nhiều với bà ấy. Tôi chỉ muốn rời khỏi đó thôi.”
“Tại sao vậy?”
“Bởi tôi không được dạy dỗ tử tế,” tôi ngừng lời, nheo mắt nhìn vị bác sĩ. “Tôi đang cảm thấy thế nào ư? Đó có phải là điều mà anh đang tìm kiếm không? Có phải anh đang sử dụng cái xẻng toàn năng của bác sĩ trị liệu để đào xới tuổi thơ tôi? Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng trước khi đến đây để nói chuyện về mẹ tôi rồi.”
Anh hoàn toàn không bối rối trước giọng điệu trịch thượng của tôi. Anh chỉ nhún vai, và tôi cảm thấy hối hận ngay lập tức.
“Đó là điều mà cô muốn tôi làm à?” Anh hỏi. “Tập trung vào mẹ cô?”
Tôi cố gắng thả lỏng. “Chẳng quan trọng đâu. Cuộc đời của tôi buồn chán lắm. Nếu anh muốn, tôi có thể tóm gọn nó cho anh. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi đổi đàn ông như đổi áo. Cứ một hoặc hai năm, tôi lại có bố mới. Người cũ vừa đi, người mới đã đến. Hầu như tất cả bọn họ đều kinh khủng.”
“Thế bố đẻ cô thì sao?” Bác sĩ Robinson hỏi. “Ông ấy có xuất hiện không?”
“Không. Tôi chưa bao giờ biết ông ấy là ai. Thành thật mà nói, tôi không nghĩ mẹ tôi biết. Hoặc nếu biết thì bà cũng đã định mang bí mật này xuống mồ. Và bà ấy làm được thật.” Tôi dừng lại và suy tư về vấn đề đó một lúc. “Lúc bà có tôi, bà mới mười bảy tuổi. Bà tôi cũng không biết người đàn ông đó. Ít nhất là tôi nghĩ vậy.”
“Kể cho tôi nghe về bà cô đi.”
Tôi thích thú với câu hỏi này, có lẽ vì tôi rất tự hào về bà. “Bà là một người phi thường. Bà cũng sống ở bãi đậu xe kéo, cách nhà tôi ba căn, nên tôi có thể đến thăm bà sau giờ học khi còn nhỏ.”
“Mẹ cô có làm việc không?”
“Có. Bà ấy làm việc ở một quán ăn mở cửa đến tận nửa đêm nên thường xuyên về nhà muộn. Ít nhất đó là những gì bà tôi nói với tôi. Cũng có thể bà ấy ra ngoài tiệc tùng. Tôi không nên phán xét bà ấy. Bà ấy lúc đó chỉ mới hai mươi và phải chăm bẵm một đứa trẻ ba tuổi. Tôi không biết bà ấy sẽ làm gì nếu không có bà ngoại giúp đỡ chăm sóc tôi.”
“Nghe có vẻ bà ngoại là một phần cực kỳ quan trọng trong đời cô. Bà giờ đang ở đâu?”
“Bà mất năm tôi mười lăm tuổi. Sau đó, chỉ có tôi và mẹ và một người đàn ông nào đó sống cùng nhau.”
Bác sĩ nhíu mày lo lắng. Tôi biết ngay anh đang nghĩ gì, nên tôi giơ một tay lên. “Không không. Tôi có thể đoán ra được qua cách anh nhìn tôi... Tôi đảm bảo với anh, không có chuyện đó xảy ra đâu. Không có gì mờ ám ở đây cả. Hầu hết họ đều ổn. Tôi chỉ phải nghe rất nhiều tiếng la hét và quát tháo khi họ uống quá nhiều vào mỗi cuối tuần thôi. Mẹ tôi thích rượu whisky, và bà có biệt tài chọc tức những con gấu đang giận dữ.”
Tôi quan sát kỹ khuôn mặt của bác sĩ Robinson trong vài giây và cảm thấy khá choáng ngợp trước sự ấm áp trong mắt anh. Thật đáng kinh ngạc khi anh có thể nhìn thẳng vào mắt tôi mà không cần nhìn đi chỗ khác. Tình huống này không hề khó xử với anh chút nào.
“Điều này có thực sự quan trọng không?” Tôi hỏi. “Nói về bạn trai của mẹ tôi ấy? Mục tiêu của tôi khi đến đây là có thể quay trở lại với nghiên cứu của mình. Tìm ra cách ngăn máy bay biến mất ở Bahamas. Và những người bạn trai đó không phải là những người mà tôi phải đau buồn thương tiếc.”
Đặt khuỷu tay lên trên tay vịn ghế, với cuốn sổ ghi chép đặt trên đùi, anh đan chéo các ngón tay trỏ vào nhau rồi nói: “Tôi thấy thật thú vị khi cô sử dụng từ phải. Nó khiến tôi nhớ lại điều mà cô đã nói trước đó - rằng cô không có ý định đến đây. Cô cũng nói rằng mình có chuẩn bị trước. Có lẽ cô đang cảm thấy đến đây là một bài kiểm tra mà cô phải vượt qua chăng?”
Tôi đặt tay lên ví. “Tôi không biết. Có lẽ vậy.”
“Nếu đây là một bài kiểm tra, ai sẽ là người cho điểm đây? Trưởng khoa Vật lý? Hay tôi? Cô?”
Tôi cười khúc khích. “Anh nghĩ rằng tôi đến đây chỉ để nói những thứ phù hợp mà giáo sư muốn tôi nói để không bị tống cổ khỏi dự án ư?”
“Tôi đâu có nói vậy,” bác sĩ Robinson trả lời. “Cô cho là tôi nghĩ vậy ư?”
Đầu tôi hơi ngã ra sau, và tôi cười. “Ôi, những câu hỏi liên tiếp này khiến tôi cảm thấy hơi chóng mặt, kiểu như chúng ta đang đi lòng vòng vậy. Anh nghĩ tôi nghĩ gì về điều mà anh nghĩ là tôi nghĩ?”
Anh cũng cười khúc khích. “Tôi xin lỗi. Tôi chỉ muốn biết cô muốn đạt được điều gì từ những buổi trị liệu này. Mục tiêu cuối cùng của cô là gì, Melanie?”
“Chà, đó là một câu hỏi thú vị, thưa bác sĩ,” tôi hài hước trả lời. “Nó giống như một kiểu tồn tại ấy, anh có nghĩ vậy không?”
Anh không nói gì, vì vậy tôi buộc phải trả lời câu hỏi của anh một cách nghiêm túc. Tôi cố gắng đào sâu vì tôi nghĩ đó là điều anh muốn ở tôi. Suy nghĩ sâu sắc, quan trọng, từ tận đáy lòng.
“Tôi đoán tôi chỉ muốn biết liệu mình có đang đi đúng hướng không. Tôi luôn nghĩ rằng dự án nghiên cứu này là tiếng gọi của đời tôi, nhưng bây giờ tôi không chắc lắm. Gần đây, tôi bắt đầu tự hỏi liệu mình có đăng ký tham gia dự án này chỉ để tránh xa mẹ không. Và dự án của tôi dường như... tôi không biết nữa... nó có vẻ hơi trẻ con với tôi bây giờ.”
Anh nghiêng đầu. “Xin thứ lỗi cho tôi. Tôi chỉ đang cố gắng hiểu thôi. Cô nghĩ vật lý là trẻ con ư?”
“Tất nhiên là không rồi. Vật lý nói chung không như vậy. Chỉ là dự án của tôi có vẻ ngớ ngẩn. Tôi nghĩ nó mang tính cá nhân quá.”
“Cá nhân như thế nào?”
“Tôi xin lỗi, tôi cảm thấy nực cười khi nói thế này. Nhưng tôi cho rằng mình phải làm vậy nếu anh định giúp tôi tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình và cho tôi biết tôi nên làm gì.”
Với một nụ cười thân thiện và cởi mở, anh nói, “Tôi không ở đây để bảo cô phải sống thế nào, Melanie. Tôi sẽ chỉ giúp cô suy ngẫm xem cô đang ở đâu và tại sao thôi. Và hy vọng, điều đó sẽ giúp cô đưa ra những quyết định đúng đắn trong tương lai.”
“Được,” tôi ngập ngừng nói. Rồi tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ quả lắc cạnh cửa. “Tôi thấy mình đã ở đây được một lúc lâu rồi. Thời gian của chúng ta sắp hết chưa?”
Bác sĩ kiểm tra đồng hồ đeo tay. “Chúng ta vẫn còn vài phút nữa.”
“Được rồi... vậy thì... đôi khi tôi tự hỏi liệu mình có đang cung cấp nguồn tin cho mấy tờ báo lá cải khủng khiếp được bày bán trong siêu thị không, những tờ báo luôn kể cho chúng ta nghe về những người nổi tiếng bị người ngoài hành tinh bắt cóc hay một con lợn ở Arkansas mọc chân người ấy. Tôi lo thành quả nghiên cứu của mình chỉ là thứ ngớ ngẩn.”
“Tôi không thấy nó ngớ ngẩn chút nào,” anh trả lời. “Và nếu Trưởng khoa Vật lý tại Columbia đã chấp thuận chủ đề này... nếu ông ấy tin rằng có thể có một lời giải thích khoa học chắc chắn...”
“Tôi nghĩ vậy,” tôi ngồi đó, nhìn xuống tay mình. “Nhưng đôi khi tôi vẫn tự hỏi liệu mình có nên từ bỏ nó và sử dụng nghiên cứu của mình cho việc khác không - chẳng hạn như dự đoán các cơ chế thời tiết khắc nghiệt.”
“Kiểu như những cơn lốc xoáy phá nát bãi đỗ xe kéo ư?” Anh hỏi.
Tôi ngước mắt lên nhìn anh. Vị bác sĩ này thật sắc sảo. “Có lẽ vậy.”
Bác sĩ Robinson cân nhắc một lúc rồi xem đồng hồ lần nữa. “Có vẻ như chúng ta đã hết thời gian cho hôm nay. Nhưng nơi này vẫn luôn chào đón cô vào tuần tới. Cô sẽ quay lại chứ? Tôi muốn nghe thêm về lý do cô cảm thấy chủ đề máy bay biến mất vào thinh không quá mang tính cá nhân. Cô có sẵn lòng chia sẻ với tôi chuyện đó không?”
“Chắc chắn rồi,” tôi trả lời và cảm thấy gợn lên một chút hứng khởi từ niềm đam mê cũ của mình đối với dự án. Nó đến thật bất ngờ vì dạo này tôi chán nó quá.
Hơn nữa, tôi rất thích nói chuyện với bác sĩ Robinson và tôi muốn gặp lại anh. Có rất nhiều chuyện khác mà tôi có thể nói với anh trên chiếc sofa này. Nhưng chủ yếu, tôi vẫn muốn biết liệu công việc của mình có quan trọng không hay chỉ là một ảo mộng ngớ ngẩn thời thơ ấu.
Chú thích:[1]Năng lượng điểm không là năng lượng dao động mà các phân tử còn giữ được ngay cả ở độ 0 tuyệt đối. Vì nhiệt độ là số đo cường độ chuyển động của các phân tử nên các phân tử phải dừng di chuyển ở độ 0 tuyệt đối.