← Quay lại trang sách

Chương 2 TIẾN TRÌNH CỦA KẺ HÀNH HƯƠNGBoston, 1706-1723-NHÀ FRANKLIN Ở ECTON

Vào khoảng thời gian cuối thời Trung cổ, có một tầng lớp mới nổi lên ở các làng quê nước Anh: những người có đất đai và của cải nhưng không thuộc dòng dõi quý tộc. Kiêu hãnh song không quá tự phụ, họ khẳng định quyền lợi của mình với tư cách là thành viên của tầng lớp trung lưu độc lập. Các vị điền chủ ấy được gọi là “franklin”, bắt nguồn từ chữ “frankeleyn” trong tiếng Anh thời Trung cổ, nghĩa là người tự do.1

Khi lối sử dụng tên họ trở nên phổ biến,* nhiều gia đình ở tầng lớp trên có xu hướng lấy luôn danh xưng lãnh địa của mình làm tên họ, chẳng hạn Lancaster hay Salisbury. Các tá điền có khi phải dùng tên gọi của mảnh đất nhỏ nơi họ nương nhờ, như Hill hay Meadows.* Những người thợ thì thích được gắn họ tên với nghề nghiệp của mình: Smith, Taylor hay Weaver.* Còn đối với một số gia đình, cái tên họ mô tả phù hợp nhất chính là Franklin.

Dựa trên các tài liệu có thể tìm thấy được cho tới nay, tổ tiên nhà Franklin chính thức dùng họ này kể từ thời kỳ của Benjamin, Thomas Francklyne hay Franklin, sinh vào quãng năm 1540 tại làng Northamptonshire, vùng Ecton. Tinh thần độc lập của ông đã trở thành một phần trong truyền thuyết của gia đình. Sau này Benjamin đã viết: “Lịch sử còn mù mờ của gia tộc chúng tôi bắt đầu từ thời Cải cách và đã có lúc gặp phiền hà vì lòng nhiệt thành chống đối lại Giáo hội.” Khi Nữ hoàng Mary I tiến hành cuộc thập tự chinh đẫm máu để tái lập Giáo hội Công giáo La Mã, Thomas Franklin đã giữ lại một bản Kinh Thánh bằng tiếng Anh bị cấm lưu hành. Nó được giấu ở mặt dưới của chiếc ghế đẩu để khi cần có thể dễ dàng lật ngược lên mà đọc và lập tức cất giấu khi bọn sai nha đi qua.2

Tinh thần độc lập mạnh mẽ nhưng rất thực tế cùng với tài tháo vát tài tình của Thomas Franklin dường như đã được truyền qua bốn thế hệ. Gia tộc này đã sản sinh ra những nhà bất đồng chính kiến và ly khai sẵn sàng thách thức giới cầm quyền, mặc dù không đến mức trở thành cuồng tín. Họ là những thợ thủ công khéo léo, những thợ rèn sáng tạo và ham học hỏi. Vốn luôn đọc rộng viết nhiều, họ có những quan điểm sâu sắc nhưng lại biết cách thể hiện chúng nhẹ nhàng. Với bản tính hòa nhã, những người mang họ Franklin có thiên hướng trở thành nhà cố vấn khả tín cho bạn hữu, và họ luôn tự hào được đứng trong đội ngũ các chủ cửa hiệu, thương gia và điền chủ trong tầng lớp trung lưu độc lập.

Có thể đơn thuần chỉ là sự tự phụ của một nhà viết tiểu sử khi đúc rút rằng tính cách của một người có thể được làm sáng tỏ nhờ soi xét gốc gác gia đình người ấy để chỉ ra các đặc điểm lặp lại và kết tinh ở người ấy. Tuy nhiên, di sản gia đình của Franklin có lẽ thật sự là nơi đầy hứa hẹn cho việc triển khai một nghiên cứu. Với một số người, yếu tố định hình nhân cách quan trọng nhất là nơi chốn. Ví dụ, phải hiểu rõ biên giới Missouri ở thế kỷ 19 để đánh giá Harry Truman, và cũng phải tìm hiểu kỹ vùng Hill Country của Texas mới có thể thấu tỏ Lyndon Johnson3.* Song Benjamin Franklin lại không được định hình như thế. Ông sở hữu gia tài của nhóm người tứ cố vô thân: là con trai út của những người thợ thủ công ở tầng lớp trung lưu, phần lớn họ đều đi lập nghiệp ở xa quê. Vì vậy, tốt nhất nên nhìn nhận ông như sản phẩm của dòng tộc chứ không phải của thổ nhưỡng.

Hơn nữa, chính Franklin cũng nghĩ như vậy. “Tôi đã từng có niềm vui thích khi tìm được bất cứ giai thoại nhỏ nào về tổ tiên mình,” ông đã viết như thế trong câu mở đầu cuốn tự truyện. Đó là niềm vui mà ông có được khi sau này, đã ở tuổi trung niên, ông trở về Ecton để phỏng vấn riêng trực tiếp với những người họ hàng xa, lục tìm nghiên cứu thư tịch trong nhà thờ và chép lại những hàng chữ khắc trên các bia mộ của gia tộc.

Ông nhận thấy tính bất quy phục trong gia tộc mình không chỉ liên quan tới các vấn đề tôn giáo. Theo một giai thoại, thân phụ của Thomas Franklin từng tích cực đóng vai trò trạng sư biện hộ cho những con người bình dân trong một cuộc tranh cãi về việc giới quý tộc chúa đất đóng cửa điền trang của họ ngăn không cho những người nông dân nghèo chăn thả gia súc ở đây. Còn Henry, con trai Thomas, đã bị tống vào ngục một năm vì viết mấy câu thơ “đụng chạm tới nhân cách của một nhân vật tiếng tăm”, như một hậu duệ cho biết. Việc đối đầu với giới tinh hoa cũng như việc sáng tác thơ bình dần ấy còn kéo dài thêm vài thế hệ nữa.

Con trai của Henry, Thomas II, cũng có những nét tính cách về sau bộc lộ rõ rệt ở người cháu trai nổi tiếng. Ông là người thích giao du, ham đọc viết và mày mò. Khi còn trẻ, ông đã tự chế từ đầu đến cuối một chiếc đồng hồ và nó đã chạy suốt đời ông. Giống như cha và ông mình, Thomas II cũng theo nghề thợ rèn, nhưng ở các làng nhỏ nước Anh, các thợ rèn đảm nhận rất nhiều việc. Như một người cháu trai kể lại: “Ông đã làm rất nhiều nghề, từ thợ tiện (tiện gỗ bằng máy), thợ rèn súng, bác sĩ giải phẫu cho đến người quản lý văn khế. Tôi từng được thấy chữ viết của ông rất đẹp. Ông còn là một nhà sử học và có ít nhiều hiểu biết về thiên văn và hóa học.”4

Con trai cả của ông đã nối nghiệp thợ rèn, đồng thời thành công trong vai trò một chủ trường học và luật sư. Nhưng đây là câu chuyện về những đứa con út: Benjamin Franklin là con trai út của năm thế hệ đều là con trai út. Phận em út thường đồng nghĩa với việc phải tự bươn chải lập nghiệp. Đối với các trường hợp như nhà Franklin, nói chung họ sẽ phải rời bỏ những ngôi làng quá bé nhỏ như làng Ecton nơi không thể dung thân hai người cùng hành nghề, để tìm đến các thành phố lớn hơn, nơi có thể đảm bảo việc học nghề cho họ.

Không có gì bất thường, nhất là trong nhà Franklin, khi em trai học nghề từ những người anh lớn hơn. Vì vậy, con trai út của Thomas II, Josiah Franklin, đã rời Ecton từ khoảng thập niên 1670* để tới khu chợ thành phố Oxfordshire vùng Banbury ở với một người anh trai vui tính tên John. John mở cửa hiệu và hành nghề nhuộm lụa và vải tại đây. Sau những ngày khắc khổ dưới chề độ bảo hộ Cromwell, sự phục vị của vua Charles II đã đem lại một thời kỳ rực rỡ ngắn ngủi cho ngành may mặc?*

Khi ở Banbury, Josiah bị cuốn vào cơn biến động tôn giáo lớn thứ hai từng tràn qua nước Anh. Cơn thứ nhất đã được Nữ hoàng Elizabeth dẹp yên: các nhà thờ Anh sẽ thiên về Tin lành hơn là Công giáo La Mã. Tuy nhiên, sau đó bà và những người kế vị phải đối mặt với áp lực từ phía những người muốn đi xa hơn nữa nhằm “thanh tẩy” các nhà thờ khỏi mọi dấu vết Công giáo La Mã. Là những người bất quy phục thuộc dòng Calvin và chủ trương xóa sạch tàn dư Công giáo, các tín đồ của giáo phái mang tên Thanh giáo có tiếng nói rất lớn ở vùng Northamptonshire và Oxfordshire. Họ coi trọng vai trò của các cộng đoàn tự quản, đặt việc thuyết giáo và nghiên cứu Kinh Thánh lên trên các lễ nghi, phụng vụ. Họ tỏ thái độ khinh thị nhiều thứ phục sức của Giáo hội Anh, xem đó như vết ô uế vẫn còn dây dưa từ Tòa thánh. Dù giữ quan điểm khắt khe về đạo đức cá nhân, giáo phái này vẫn thu hút một số phần tử có học thức của tầng lớp trung lưu vì nó coi trọng giá trị của các cuộc hội họp, đàm luận, thuyết giáo và hiểu biết cá nhân về Kinh Thánh.

Khi Josiah tới Banbury, thành phố này đã bị cuộc đấu tranh cho Thanh giáo tàn phá. (Trong một trận hỗn chiến bằng tay chân, một đám đông tín đồ Thanh giáo đã lật đổ cây thập giá nổi tiếng ở Banbury.) Gia đình Franklin cũng bị chia rẽ, dù ít sâu sắc hơn. Trong khi John và Thomas III vẫn trung thành với Giáo hội Anh giáo; hai em trai của họ là Josiah và Benjamin (đôi khi được gọi là Benjamin Lớn để phân biệt với người cháu nổi tiếng) đã trở thành người bất quy phục. Song Josiah không hề cuồng tín theo đuổi các tranh luận về thần học. Không có bất cứ dấu tích nào của một mối hận thù gia đình vì lý do này.5

HÀNH TRÌNH ĐẾN NƠI HOANG DÃ

Sau này, Franklin cho rằng chính khao khát tự do tín ngưỡng đã khiến cha mình, Josiah, di cư sang Mỹ. Ở một mức độ nào đó, sự thật là như vậy. Sự cáo chung của nền cai trị Thanh giáo Cromwell và sự khôi phục của chế độ quân chủ vào năm 1660 đã dẫn tới việc các tín hữu Thanh giáo phải chịu nhiều cấm cản và các mục sư bất quy phục bị buộc phải rời khỏi bục giảng đạo.

Song anh trai của Josiah, Benjamin Lớn, có lẽ đã đúng đắn hơn khi cho rằng cuộc thiên cư này chịu ảnh hưởng của yếu tố kinh tế nhiều hơn tôn giáo. Josiah không nhiệt thành với đức tin của mình. Ông sống gần cha và anh trai John và cả hai người này vẫn theo Anh giáo. Theo Arthur Tourtellot, tác giả cuốn sách bao quát 17 năm đầu đời của Franklin: “Mọi bằng chứng đều cho thấy chính tinh thần độc lập kết hợp với trí tuệ mẫn tiệp và đầu óc thực tế, chứ không phải niềm tin tôn giáo dẫn dắt, đã khiến hai Franklin duy nhất trong nhà, Benjamin Lớn và Josiah - những người cải sang Thanh giáo, lựa chọn con đường này.”6

Thật ra, Josiah trăn trở về việc chu cấp cho gia đình mình nhiều hơn. Năm 19 tuổi, anh thành hôn với một người bạn cũng đến từ Ecton, Anne Child, và đưa vợ tới Banbury. Họ nhanh chóng có với nhau ba người con. Qua thời gian học việc, anh được làm việc có lương trong cửa hiệu của anh trai. Song công việc kinh doanh không đủ nuôi sống cả hai gia đình Franklin vốn ngày một đông hơn, mà luật pháp không cho phép Josiah bước sang một nghề mới nếu không kinh qua thời gian học việc cho nghề mới đó. Như Benjamin Lớn đã nói: “Khi mọi việc không thành công như ý muốn, chú ấy đã tạm biệt cha và bạn bè để tới New England năm 1683.”

Chuyến di cư của nhà Franklin, cũng như câu chuyên về Benjamin Franklin, đem lại cho chúng ta một góc nhìn về sự hình thành nên tính cách Mỹ. Như các cuốn sách giáo khoa thường nhấn mạnh, trong các huyền thoại lãng mạn vĩ đại về nước Mỹ có một huyền thoại cho rằng tìm kiếm tự do, nhất là tự do tôn giáo, là động cơ chủ yếu của những người đến đây định cư.

Giống như đa số các huyền thoại lãng mạn về nước Mỹ, huyền thoại này cũng hàm chứa nhiều phần sự thật. Với rất nhiều người trong làn sóng di cư Thanh giáo đến Massachusetts hồi thế kỷ 17, cũng như những làn sóng di cư sau đó đã hình thành nên nước Mỹ, hành trình của họ là một cuộc hành hương tôn giáo - cuộc hành hương chạy trốn sự đàn áp và mưu cầu tự do. Nhưng cũng như đa số các huyền thoại lãng mạn khác về nước Mỹ, huyền thoại này cũng che đậy đi một phần sự thật đáng kể. Đối với nhiều người Thanh giáo di cư, cũng như nhiều người trong các đợt di cư sau này, hành trình của họ về cơ bản là một cuộc thám hiểm kinh tế.

Tuy nhiên, đặt ra một sự phân biệt rạch ròi như thế dễ dẫn đến sự hiểu sai về các tín hữu Thanh giáo - và về nước Mỹ. Đối với hầu hết các tín hữu Thanh giáo, từ giàu có như John Winthrop tới nghèo khó như Josiah Franklin, hành trình đến nơi hoang dã của họ chịu sự thúc đẩy của những trăn trở cả về đức tin và tài chính. Bằng chứng là, các nhà đầu tư như Winthrop đã lập ra Thuộc địa Vịnh Massachusetts và đưa nó vào hoạt động như một tổ chức kinh doanh đủ tư cách pháp lý đồng thời cũng là ‘thành phố thiên đường trên ngọn đồi’*. Các tín hữu Thanh giáo này hẳn đã không phân biệt giữa động cơ thế tục và tinh thần. Bởi lẽ, một trong những di sản tinh thần lớn nhất họ để lại cho nước Mỹ là luân lý Tin lành cho rằng, tự do tôn giáo và tự do kinh tế gắn kềt với nhau, rằng dám mạo hiểm cũng là một đức tính, và rằng thành công về tài chính không nhất thiết ngăn trở sự cứu rỗi về tâm linh.7

Các tín hữu Thanh giáo khinh thường niềm tin cũ kĩ của giới tăng lữ thuộc Giáo hội La Mã rằng sự thánh khiết đòi hỏi phải từ bỏ mối bận tâm về kinh tế trần tục. Ngược lại, họ luôn rao giảng rằng cần cù là đức tính phải có ở cả trên thiên đàng lẫn dưới trần thế. Cái mà nhà văn học sử Perry Miller gọi là “nghịch lý của chủ nghĩa vật chất và tính phi vật chất Thanh giáo” lại không phải là nghịch lý với các tín hữu Thanh giáo. Kiếm tiền là một cách để vinh danh Thiên Chúa. Như Cotton Mather đã nói trong bài giảng nổi tiếng “Khi Một Ki-tô Hữu Được Ơn Gọi” năm năm trước khi Franklin chào đời: chăm lo cho công việc kinh doanh ổn định là điều rất quan trọng, “vì nhờ đó một Ki-tô hữu sẽ dành phần lớn thời gian của mình để có thể vinh danh Thiên Chúa bằng cách làm lợi cho người khác và nhận điều tốt về mình”. Hay như sau này Niên giám Richard Nghèo Khổ* đã viết, Chúa sẽ nở nụ cười với những ai siêng năng làm theo tiếng gọi thế tục của họ và sẽ “giúp những ai biết tự giúp mình”.8

Như vậy, cuộc di cư Thanh giáo đã tạo nền tảng cho một số đặc điểm của Benjamin Franklin và của bản thân nước Mỹ: niềm tin rằng sự cứu rỗi tinh thần và sự thành công thế tục không nhất thiết mâu thuẫn với nhau, tính cần cù rất gần với lòng sùng đạo và tự do tư tưởng gắn bó mật thiết với tự do kinh doanh.

MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ ÓC SUY XÉT

Tháng 8 năm 1683, ở tuổi 25, Josiah Franklin dong buồm sang Mỹ cùng vợ, hai con trai mới chập chững biết đi và con gái út mới vài tháng tuổi. Chuyến vượt biển với cả trăm hành khách chen chúc trên một chiếc tàu chiến nhỏ kéo dài hơn 9 tuần và tiêu tốn của gia đình anh 15 bảng, bằng thu nhập nửa năm của một thương nhân như Josiah. Tuy nhiên, đây là một khoản đầu tư hợp lý vì thu nhập ở Tân Thế giới cao gấp hai, ba lần còn chi phí sinh hoạt lại thấp hơn.9

Nhu cầu về vải lụa sặc sỡ ở một thành phố biên giới, đặc biệt là một thành phố Thanh giáo như Boston, không nhiều. Đúng hơn, việc phục sức quá cầu kỳ bị xem là một hành vi phạm pháp. Song không giống như ở Anh, ở đây không có luật buộc một người phải trải qua thời gian học việc dài trước khi được hành nghề. Vì vậy, Josiah đã chọn một nghề mới, ít hào nhoáng nhưng hữu ích hơn nhiều: nghề làm đèn sáp, chuyên nấu mỡ động vật thành nến và xà phòng.

Đây là một lựa chọn khôn ngoan. Nến và xà phòng đang từ xa xỉ phẩm dần trở thành nhu yếu phẩm. Công việc thơm tho – chế thuốc giặt từ tro, sau đó ninh hàng giờ với chất béo - là một việc mà cả những bà nội trợ tận tâm nhất ở vùng biên giới này cũng sẵn sàng trả tiền để thuê người khác làm. Gia súc từng một thời hiếm hoi, giờ ngày một nhiều và bị giết thịt thường xuyên hơn, giúp cho việc sản xuất quy mô lớn từ mỡ động vật trở nên khả thi. Tuy nhiên, ngành nghề này lại ít người làm. Theo liệt kê trong bản đăng ký ngành nghề tại Boston ngay trước khi Josiah đến, có 12 thợ sửa giày, 11 thợ may, 3 người làm bia nhưng chỉ có 1 người làm đèn sáp.

Anh thuê một ngôi nhà ốp ván gỗ hai tầng rưỡi ở góc Phố Milk và Phố High (nay là Phố Washington), diện tích chỉ 6 x 9 m, để vừa làm cửa hiệu vừa sinh hoạt. Tầng trệt ngôi nhà chỉ có một phòng, còn nhà bếp là một chái nhỏ xây biệt lập phía sau nhà. Giống như những ngôi nhà khác ở Boston, nó có cửa sổ nhỏ để dễ dàng giữ ấm, nhưng được sơn màu sáng để trông tươi tắn hơn.10

Bên kia đường là Nhà thờ Nam phương, nhà thờ mới nhất và tự do nhất (nói một cách tương đối) trong số ba hội đoàn Thanh giáo ở Boston. Hai năm sau khi tới đây, Josiah đã được thừa nhận tư cách hội viên, hay được phép “sở hữu giao ước”*.

Trở thành một thành viên của nhà thờ là một đòn bẩy xã hội, ít nhất là với các tín hữu Thanh giáo. Dù chỉ là một thương nhân chật vật, nhờ tư cách hội viên của anh ở Nhà thờ Nam phương, Josiah có thể kết bạn với những danh nhân của xứ thuộc địa như nguyên thống đốc Simon Bradstreet hay thẩm phán Samuel Sewall, một học giả và người giữ sổ sách cần mẫn tại Harvard.

Là một nhân vật theo chế độ gia trưởng, được tín nhiệm, thứ bậc dân sự cũng như tôn giáo của Josiah ở Boston ngày càng tăng. Năm 1697, ông được cắt cử làm một người thu thuế thập phân* - tên gọi của chức quan chủ tế coi sóc luân lý có nhiệm vụ thúc đẩy việc đi lễ vào ngày Chủ nhật và coi chừng “bọn gái ăn sương, những gã nát rượu, những kẻ hay bỏ lễ... hoặc bất cứ điều gì khác có xu hướng dẫn tới sự đồi trụy, nghịch đạo, báng bổ và vô thần”. Sáu năm sau, ông được chọn làm một trong mười một giám sát viên,* chịu trách nhiệm quản lý đội thu thuế thập phân. Dù đây đều là các việc không được trả công xá, Josiah đã thực hành một nghệ thuật sau này được con trai ông hoàn thiện, đó là kết hợp đạo đức công với lợi nhuận tư: ông kiếm tiền bằng cách bán nến cho những người gác đêm mà ông quản lý.11

Trong cuốn tự truyện, Benjamin Franklin đã khắc họa cha mình như sau:

Ông có nhân dáng tuyệt đẹp, tuy tầm vóc chỉ trung bình nhưng cân đối và rất khỏe mạnh. Ông khéo tay, vẽ đẹp, có đôi chút khả năng về âm nhạc và sở hữu một giọng ca sáng, dễ nghe. Đôi lần vào buổi tối sau khi đã ngơi việc kinh doanh trong ngày, ông vừa trải giai điệu bản Thánh vịnh trên cây vĩ cầm vừa hát theo, nghe rất êm tai. Ông cũng có biệt tài về cơ khí và còn biết dùng cả dụng cụ của các nghề nghiệp khác. Song sự xuất sắc tuyệt vời của ông nằm ở tầm hiểu biết sâu sắc, và óc phán đoán cừ khôi về các vấn đề quan trọng, cả việc riêng và việc chung... Tôi nhớ rất rõ ông thường xuyên được các nhân vật lãnh đạo ghé thăm. Họ tới để xin ông cho ý kiến về các vấn đề của thành phố hoặc nhà thờ... Ông cũng được nhiều cá nhân tham vấn về việc làm ăn khi họ gặp khó khăn, và thường xuyên được chọn làm trọng tài khi các bên có tranh chấp.12

Những lời mô tả này có lẽ quá hào phóng. Nói cho cùng, nó nằm trong một cuốn tự truyện được Benjamin viết ra để phần nào dạy dỗ con trai về lòng hiếu thảo. Chúng ta phải thấy rằng, dù sự thông thái của Josiah là không thể hoài nghi, ông vẫn có những tầm nhìn hạn chế. Ông có xu hướng cản trở những khát vọng về giáo dục, nghề nghiệp và thậm chí cả thơ ca của con trai mình.

Đặc điểm nổi bật nhất của Josiah được tóm gọn bằng một cụm từ có tinh thần Thanh giáo sâu sắc, thể hiện qua sự kiên định của nó đối với tính cần cù và chủ nghĩa bình quân, về sau được con trai khắc lên bia mộ ông: “cần mẫn với ơn gọi của mình”. Cụm từ này xuất phát từ một đoạn văn mà Josiah rất tâm đắc trong Sách Khôn ngoan của vua Solomon (cách ngôn 22:29), thường được ông trích đọc để răn dạy con trai: “Ai cần mẫn với ơn gọi của mình, người đó sẽ được đứng trước các Đức Vua.”* Khi đã ở tuổi 78, Franklin hồi tưởng lại trong cuốn tự truyện của mình với đôi chút tự cao xen lẫn niềm hứng khởi của một người đã hiểu rõ bản thân: “Từ đó, tôi coi tính cần cù như phương thức để đạt được cả tiền bạc và sự trọng vọng, những thứ cổ vũ tôi, dù không tin một ngày tôi sẽ thật sự được đứng trước các vị vua. Tuy vậy, điều đó đã xảy ra: tôi đã từng được đứng trước năm vị vua và thậm chí có vinh dự ngồi bên một vị để dùng bữa tối, đó là vua Đan Mạch.”13

Khi phát đạt là lúc gia đình Josiah mở rộng quân số hơn. Sau khoảng thời gian 34 năm, ông đã có tới 17 người con. Sức sinh sản là điểm chung của các tín hữu Thanh giáo tráng kiện và tràn đầy sinh lực: Cha Samuel Willard, mục sư của Nhà thờ Nam phương, có 20 người con; nhà thần học nổi tiếng, Cotton Mather, có 15 người con. Con cái thường được xem như tài sản chứ không phải gánh nặng. Chúng giúp các việc trong nhà và ngoài cửa hàng bằng cách đảm nhận hầu hết các công việc chân tay.14

Sau ba đứa con theo họ từ Anh sang, Josiah và Anne Franklin nhanh chóng có thêm hai con nữa, và cả hai đều sống đến tuổi trưởng thành, đó là Josiah Nhỏ, sinh năm 1685 và Anne Nhỏ, sinh năm 1687. Thế nhưng, sau đó, cái chết đã ập đến tàn nhẫn. Trong 18 tháng kế tiếp, đã ba lần Josiah phải đưa tang qua Phố Milk để tới nghĩa địa của Giáo hội Nam phương: lần đầu vào năm 1688 để chôn cất đứa con trai mới sinh được năm ngày; sang năm 1689 đến lượt vợ anh, Anne qua đời một tuần sau khi sinh một đứa con trai khác; và chính đứa trẻ đó cũng chết một tuần sau đó. (Một phần tư số trẻ sơ sinh ở Boston vào thời đó đều không sống qua được một tuần.)

Việc nam giới ở xứ thuộc địa New England sống lâu hơn hai, ba đời vợ là điều không có gì bất thường. Chẳng hạn, trong 18 phụ nữ tới Massachusetts năm 1628, 14 người đã qua đời chỉ sau một năm. Việc những người chồng mất vợ tái hôn sớm cũng không bị đánh giá là tàn nhẫn. Thực tế, như trong trường hợp của Josiah, tái hôn được xem là cần thiết về mặt kinh tế. Ở tuổi 31, với năm người con phải nuôi nấng, một công việc đang phất và một cửa hiệu phải trông coi, anh cần có một người vợ mới khỏe mạnh và cần cô ấy xuất hiện thật nhanh chóng.

MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ ĐỨC HẠNH

Giống như nhà Franklin, nhà Folger (tên gốc là Foulgier) cũng có cả tinh thần phản kháng lẫn óc thực tế. Họ giống nhau ở nỗi trăn trở về việc đan xen giữa tôn giáo và kinh tế. Là hậu duệ của các nhà cải cách Tin lành Flemish từng sang nước Anh lánh nạn hồi thế kỷ 16, nhà Folger thuộc làn sóng di cư đầu tiên tới Massachusetts khi vua Charles I và Tổng Giám mục Canterbury, William Laud, bắt đầu trấn áp Thanh giáo*. Gia đình của John Folger, trong đó có cậu con trai Peter 18 tuổi, lên tàu sang Boston vào năm 1635, khi thành phố này mới chỉ được năm tuổi.

Trong chuyến đi, Peter gặp một đầy tớ gái trẻ tên là Mary Morrill. Cô có khế ước với một trong số các mục sư Thanh giáo trên tàu. Sau khi đến nơi, Peter đã chuộc cô với giá 20 bảng và cưới cô làm vợ.

Khi đã tìm được cho mình tự do cá nhân và tự do tôn giáo, nhà Folger không ngừng tìm kiếm các cơ hội kinh tế. Từ Boston, họ ngược sông để đến khu định cư mới có tên Dedham, sau đó chuyển tới Watertown và cuối cùng là Đảo Nantucket, nơi Peter làm thầy giáo dạy học. Hầu hết cư dân tại đây là người Anh-điêng.* Peter học tiếng của họ, dạy họ tiếng Anh và ấp ủ (và thành công lớn) cải họ sang Thiên Chúa giáo. Vốn dĩ là người có bản tính bất trị, ông cũng tự cải mình sang dòng Báp-tít, điều đó có nghĩa là những người Anh-điêng trung thành được ông dẫn dắt theo đạo Chúa sẽ phải cùng ông thực hiện nghi lễ dầm mình hoàn toàn trong nước*.

Mang dòng máu đối kháng mạnh mẽ với công quyền chảy trong cả hai gia đình Folger và Franklin, Peter thuộc kiểu nổi loạn, mang trong mình sứ mệnh cải tổ xứ thuộc địa Mỹ. Khi là thư ký tòa án ở Nantucket, ông đã một lần bị tống giam vì trái lệnh quan tòa địa phương trong một vụ tranh đấu giữa các cổ đông giàu có của đảo và giới trung lưu ngày một lớn mạnh của các chủ cửa hiệu và thợ thủ công.15

Ông còn viết một bài luận ngắn bằng thơ có nội dung gần như dấy loạn, bày tỏ lòng cảm thông với người Anh-điêng trong Chiến tranh của vua Philip năm 1676.* Ông tuyên bố rằng cuộc chiến nổ ra do Chúa Trời nổi giận trước sự thiếu độ lượng của giới tăng lữ Thanh giáo ở Boston. Có thể thấy sự phẫn nộ còn cao hơn cả văn tài của ông: “Hãy để các quan tòa và mục sư / xem lại những việc họ làm; / Hãy để họ bãi bỏ luật ác / và xé đôi những bản giao kèo.” Sau này, cháu ngoại của ông, Benjamin Franklin, nhận xét bài thơ “được viết với tinh thần tự do rất nam nhi và sự giản dị dễ chịu”.16

Peter và Mary Folger có mười người con. Con gái út, Abiah, sinh năm 1667. Khi đã 21 tuổi và chưa lập gia đình, cô dọn tới Boston sống cùng vợ chồng người chị gái mà cả vợ cả chồng đều là hội viên Giáo hội Nam phương. Dù được nuôi dạy theo dòng Báp-tít, chỉ một thời gian ngắn sau khi tới đây, Abiah đã gia nhập hội đoàn này. Tháng 7 năm 1689 khi người thợ đèn sáp khả kính Josiah Franklin tới nhà thờ để chôn cất vợ, Abiah đã là một tín hữu thuần thành.17

Chưa đầy năm tháng sau, vào ngày 25 tháng 11 năm 1689, họ kết hôn với nhau. Cả hai đều là con út trong gia đình. Họ cùng nhau sống đến tuổi xưa nay hiếm - ông, 87 và bà, 84. Sống thọ là một trong rất nhiều đặc điểm họ sẽ đề lại cho cậu con trai út nổi tiếng của mình, người sống đến tuổi 84. “Cha là một người sùng đạo và cẩn trọng, mẹ là một người kín đáo và đức hạnh,” về sau Benjamin đã ghi như thế trên bia mộ họ.

Sau 12 năm, Josiah và Abiah Franklin có với nhau sáu người con: John (sinh năm 1690), Peter (1692), Mary (1694), James (1697), Sarah (1699) và Ebenezer (1701). Nếu tính cả những đứa con từ cuộc hôn nhân trước của Josiah, họ có tổng cộng 11 người con, tất cả đều chưa lập gia đình, sống chen chúc trong ngôi nhà nhỏ ở Phố Milk cùng với dầu mỡ, xà phòng và dụng cụ để làm nến.

Có lẽ việc trông coi một bầy con quá đông trong hoàn cảnh như thế là điều bất khả thi và chuyện nhà Franklin là minh chứng bi thảm cho điều này. Ebenezer chết đuối trong bồn xà phòng của cha khi mới 16 tháng tuổi. Cuối năm đó, tức năm 1703, vợ chồng Franklin sinh thêm một cậu con trai nhưng cậu bé cũng sớm chết yểu.

Cậu con trai tiếp theo của họ là Benjamin. Thời niên thiếu, cậu sẽ sống dưới cùng một mái nhà với mười anh chị nữa, nhưng người bé nhất trong số đó cũng lớn hơn cậu tới bảy tuổi. Dưới cậu còn có hai cô em gái: Lydia (sinh năm 1708) và Jane (1712).

MỘT CẬU BÉ CAN ĐẢM

Benjamin Franklin được sinh ra và rửa tội trong cùng một ngày: Chủ nhật, ngày 17 tháng 1 năm 1706*. Khi đó, thành phố Boston đã 76 năm tuổi, không còn là tiền đồn Thanh giáo nữa mà là một trung tâm thương mại đang phát triển, với đầy ắp các nhà thuyết giáo, thương nhân, thủy thủ và gái mại dâm. Boston có hơn một ngàn hộ gia đình, một ngàn tàu đăng ký tại bến cảng và bảy ngàn cư dân, con số này cứ đều đặn nhân đôi sau mỗi hai thập niên.

Là một đứa trẻ lớn lên bên sông Charles, trong ký ức của Franklin, cậu “về đại thể là người cầm đầu lũ trẻ”. Một trong số những nơi tụ tập ưa thích của chúng là con đầm ngập mặn gần cửa sông; nó trở thành đầm lầy do bị bọn chúng giẫm đạp liên tục. Dưới sự chỉ đạo của Franklin, lũ trẻ đã chôm chỗ đá sỏi người ta dùng để xây một ngôi nhà kế đó để tự xây lên một cầu tàu. “Chiều chiều khi các công nhân đã về nhà, tôi tập hợp mấy thằng bạn lại, lao động cần mẫn như những con kiến; có khi hai ba đứa cùng vần một tảng, cho đến khi gom được đủ đá để xây chiếc cầu tàu nhỏ của mình.” Sáng ngày ra, cậu và các đồng phạm bị bắt và phải chịu phạt.

Franklin nói, ông kể lại chuyện này trong cuốn tự truyện để minh họa cho phương châm của cha mình, rằng “không có thứ gì hữu ích được tạo ra từ sự không trung thực”.18 Song cũng như nhiều lần cố gắng tự hạ thấp bản thân của mình, giai thoại này của Franklin hình như được sắp đặt để làm nổi bật hình ảnh một cậu bé có tài lãnh đạo hơn là một cậu bé hư. Suốt đời, ông không giấu giếm niềm tự hào về khả năng điều phối các nỗ lực tập thể và các dự án có tính cộng đồng.

Tuổi thơ vui đùa bên sông Charles đã khơi nên tình yêu vĩnh cửu của Fanklin đối với môn bơi lội. Khi đã học được và dạy lại cho các bạn đồng lứa, cậu mày mò tìm cách bơi nhanh hơn. Cậu nhận ra kích thước bàn tay và bàn chân sẽ giới hạn lượng nước mà một người có thể đẩy và cả sức đẩy của người đó. Vì thế, cậu làm hai miếng ván hình bầu dục, có lỗ để đút ngón tay cái vào. Như Franklin giải thích trong bức thư gửi một người bạn: “Tôi cũng xỏ thêm một loại xăng-đan vào bàn chân.” Với các mái chèo và chân chèo này, cậu đã tăng tốc độ rẽ nước lên đáng kể.

Tính hữu dụng của những cánh diều sau này cũng sẽ được cậu chứng minh rất xuẩt sắc. Thả một cánh diều lên cao, cậu cởi đổ, lội xuống hồ nước, nằm ngửa trên mặt nước, và để cánh diều kéo cậu đi. Franklin nhớ lại: “Tôi đã nhờ một cậu bạn cầm quần áo của tôi đi quanh hồ rồi bắt đầu băng qua hồ bằng cánh diều. Nó kéo tôi đi không tốn chút sức lực và đem lại cho tôi niềm vui sướng vô bờ.”19

Có một sự việc thời thơ ấu không được đưa vào cuốn tự truyện song được ông kể lại sau hơn 70 năm để mua vui cho bạn bè ở Paris, xảy ra khi Franklin gặp một cậu bé thổi còi. Bị mê hoặc bởi vật này, cậu đã đem tất số tiền trong túi để mua nó. Các chị em ruột của cậu đã giễu cợt và nói rằng cậu đã trả đắt gấp bốn lần giá trị thật của chiếc còi. “Tôi đã khóc vì bực tức”, Franklin nhớ lại, “nỗi thất vọng mà sự chỉ trích đó đem lại còn lớn hơn cả niềm vui mà tiếng còi đưa đến cho tôi.” Với Franklin, tính căn cơ không chỉ là một đức tính mà còn là niềm vui. “Siêng năng và căn cơ là phương tiện để mưu cầu giàu sang, bởi thế nó giúp giữ gìn đạo đức”20, ông viết như thế khi diễn tả chủ đề của Niên giám Richard Nghèo Khổ.

Khi Benjamin lên sáu, gia đình cậu chuyển từ căn nhà hai phòng chật chội trên Phố Milk, nơi 14 đứa trẻ đã được nuôi dưỡng, tới một ngôi nhà và cửa hiệu lớn hơn ở trung tâm thành phố, tại khu Phố Hanover và Union. Cùng năm đó (1712), ở tuổi 45, mẹ cậu sinh Jane - đứa con cuối cùng của bà. Đây là người em gái thân thiết và người bạn thư từ suốt đời của Benjamin.*

Nhà mới khang trang hơn, cộng với việc số con cái còn sống chung với ông giảm xuống, tạo điều kiện để Josiah Franklin tiếp đãi được các vị khách thú vị trong bữa tối. Benjamin nhớ lại: “Mỗi khi có dịp, cha tôi thích mời một vài bạn hữu hoặc láng giềng có hiểu biết đến để cùng hàn huyên và luôn để ý khơi mào một số chủ đề tinh tế và hữu ích, có thể tốt cho sự hoàn thiện tư duy của các con, để đàm luận.”

Trong cuốn tự truyện, Franklin thừa nhận mình đã bị những cuộc hội luận như thế choán hết tâm trí, đến mức “rất ít, thậm chí không còn để ý” xem món gì được dọn ra trong bữa tối. Quá trình rèn luyện này khiến ông dần trở nên “thờ ơ hoàn toàn” với đồ ăn trong suốt quãng đời về sau, một đặc điểm được ông xem như “sự giản tiện tuyệt vời”. Dù vậy, số lượng công thức nấu ăn của hai nền ẩm thực Pháp và Mỹ trong các tác phẩm của ông dường như đã đi ngược lại điều này.21

Ngôi nhà mới cũng cho phép nhà Franklin cưu mang anh trai Josiah, tức Benjamin Lớn. Ông rời nước Anh năm 1715 khi đã 65 tuổi, còn đứa cháu cùng tên với ông thì lên 9. Giống như Josiah, Benjamin Lớn nhận thấy Tân Thế giới không chào đón nghề nhuộm lụa của mình; nhưng không giống như Josiah, ông không có nghị lực để học một nghề mới. Vì thế, ông tha thẩn quanh nhà Franklin làm thơ con cóc (trong đó có một cuốn tự truyện gồm 124 bài tứ tuyệt) và một biên niên sử gia tộc, một việc khá hữu ích. Ông cũng tham dự và chép tay lại các bài thuyết pháp, đùa giỡn với cháu trai và dần khiến em trai ông bực mình.22

Ông bác Benjamin sống cùng gia đình Franklin được bốn năm, nhanh chóng dốc cạn sự ân cần của em trai, nếu không nói là cả cháu trai. Cuối cùng, ông chuyển đến sống với con trai mình, Samuel, một người thợ làm dao kéo cũng di cư tới Boston. Nhiều năm sau, Benjamin Nhỏ viết thư cho em gái Jane và hài hước kể lại “những mâu thuẫn và hiểu lầm” ngày càng chồng chất giữa cha và bác. Bài học Josiah rút ra là: cuộc viếng thăm của những người họ hàng ở xa “không thể đủ ngắn để khi chia tay họ vẫn là những người bạn tốt”. Sau này, trong Niên giám Richard Nghèo Khổ, Benjamin Nhỏ còn đúc rút súc tích hơn: “Cả cá lẫn khách khứa đều thối sau ba ngày.”23

GIÁO DỤC

Kế hoạch dành cho Benjamin Nhỏ là học để trở thành tu sĩ. Josiah muốn đứa con trai thứ mười được xức dầu và hiến dâng lên Chúa như một khoản thuế thập phân.* Bác Benjamin Lớn hết sức tán đồng kế hoạch này vì một trong số nhiều lợi ích của nó là ông có thể làm gì đó với các bài giảng ông nhặt nhạnh chép lại để lưu giữ. Suốt nhiều năm liền, ông đã theo dõi các nhà thuyết giáo hay nhất và chép lại lời họ giảng bằng phép tốc ký do chính ông sáng tạo ra. Sau này, cháu trai ông vui vẻ kể lại câu chuyện pha chút chế giễu: “Bác ấy định cho tôi tất cả những bản tốc ký của mình mà tôi đồ là cho tôi làm vốn để hành nghề.”

Để chuẩn bị cho con trai vào Harvard, Josiah gửi cậu, khi đó mới 8 tuổi, đến Trường Latin Boston. Đây là nơi Cotton Mather từng theo học và con trai ông, Samuel, lúc đó cũng vừa ghi danh. Dù là một trong những học sinh ít được ưu ái nhất, Franklin đã tỏa sáng trong năm học đầu tiên, vươn từ vị trí trung bình lên vị trí đầu tiên và được phép nhảy cóc một lớp. Dù con trai học hành tấn tới như thế, Josiah đột ngột thay đổi quyết định về việc gửi cậu tới Harvard. Franklin viết: “Gánh trên vai gánh nặng của một gia đình đông con, cha tôi hẳn là không thể không chật vật khi phải trang trải chi phí cho tôi theo học đại học.”

Lời biện minh về điều kiện kinh tế này không thật sự thỏa mãn. Gia đình Franklin lúc đó đủ khá giả và số con cái cần bố mẹ chu cấp lại ít hơn so với các năm trước (chỉ còn lại Benjamin và hai em gái). Trường Latin không thu học phí, và là học trò đứng đầu lớp, cậu sẽ dễ dàng được nhận học bổng để vào Harvard. Trong số 43 sinh viên lẽ ra sẽ là bạn đồng niên của Benjamin, chỉ có 7 người xuất thân từ các gia đình giàu có; 10 người là con của các thương nhân và 4 người là trẻ mồ côi. Đại học Harvard thời đó dành ra khoảng 11% ngân sách để hỗ trợ tài chính, nhiều hơn so với ngày nay.24

Có thể còn có một yếu tố khác. Josiah dần tin, hay nói đúng hơn là ông không còn nghi ngờ, rằng con trai út của mình không hợp với giới tăng lữ. Benjamin là một đứa trẻ hay hoài nghi, tinh nghịch, tò mò, bất kính - kiểu người sẽ suốt đời cười thầm suy nghĩ của ông bác về sự hữu ích của kho bài giảng đã qua sử dụng đối với một nhà thuyết giáo mới bắt đầu sự nghiệp. Có nhiều giai thoại về đầu óc trẻ trung và bản tính tinh quái của cậu, song không có gì cho thấy cậu là một đứa trẻ ngoan đạo hay sùng đạo.

Mà là ngược lại. Một câu chuyện do cháu trai Franklin kể lại nhưng không được đưa vào tự truyện cho thấy ông không chỉ giỡn cợt về tín ngưỡng mà cả sự dài dòng của các lễ nghi thờ phụng, vốn là một dấu ấn của đức tin Thanh giáo. “Khi còn là một đứa trẻ, Tiến sĩ Franklin đã cảm thấy những lời cầu nguyện lê thê của cha mình trước và sau mỗi bữa ăn thật tẻ nhạt,” cháu trai ông thuật lại. Một ngày, khi nhìn số thức ăn được ướp muối dự trữ cho mùa đông, Benjamin nói: “Thưa cha, con nghĩ nếu cha cầu nguyện luôn một lần cho cả thùng thì hẳn sẽ tiết kiệm được vô khối thời gian.”25

Vì thế, Benjamin được cha ghi danh cho theo học một năm về ngữ văn và số học tại một trường tư thục cách đó hai dãy nhà. Ngôi trường do một thầy hiệu trưởng ôn tồn nhưng có đầu óc kinh doanh tên là George Brownell điều hành. Benjamin xuất sắc ở môn văn nhưng lại thất bại với môn toán - một sự thiên lệch về học thuật mà ông không bao giờ khắc phục được hoàn toàn. Điều này, cộng với sự thiếu hụt quá trình đào tạo hàn lâm trong lĩnh vực đó, khiến ông cuối cùng chỉ trở thành nhà khoa học tài hoa nhất trong thời đại của mình mà không thể vượt lên để bước vào ngôi đền thiêng của các nhà lý luận uyên bác thực thụ như Newton.

Điều gì sẽ xảy ra nếu Franklin thật sự có cơ hội được hưởng thụ một quá trình giáo dục hàn lâm và sau đó vào Harvard? Một số sử gia như Arthur Tourtellot lập luận, ông hẳn sẽ mất đi “tính tự phát”, phong cách văn chương “trực quan”, “niềm say mê”, “sự tươi mới” và “tính ngăn nắp” trong tư duy. Sự thật là Harvard từng được biết đến vì gây ra điều này, thậm chí còn tồi tệ hơn, đối với một số sinh viên theo học tại đây.

Song bằng chứng để chứng minh Franklin có thể sẽ chịu tác động tiêu cực này là không đủ mạnh, nên thật không công bằng cho cả ông lẫn Harvard. Với lối tư duy hoài nghi và sự dị ứng với chính quyền, có ít khả năng Franklin sẽ trở thành mục sư như được sắp xếp. Chưa đầy một nửa trong số 39 người lẽ ra đã học cùng lớp với ông cuối cùng thực sự gia nhập giới tăng lữ. Bản tính ương ngạnh của ông có thể sẽ được củng cố thay vì bị đè nén. Nên nhớ ban quản trị nhà trường khi đó đang phải ra sức vật lộn với nạn tiệc tùng, ăn uống quá đà vốn đã lây lan trong toàn học xá.

Một khía cạnh thiên tài của Franklin được thể hiện ở những mối quan tâm rộng khắp của ông, từ khoa học đến quản trị nhà nước, từ ngoại giao đến báo chí; tất cả đều được ông tiếp cận dưới góc độ thực tế chứ không phải lý thuyết. Nếu ông vào Harvard, thế giới quan đa diện này chưa chắc đã thui chột đi vì từ khi đặt dưới sự lãnh đạo của John Leverett, người theo tư tưởng tự do, trường đại học này không còn chịu sự quản chế khắt khe của các tu sĩ Thanh giáo. Vào thập niên 1720, bên cạnh kinh điển Hy-La* và thần học, trường đã mở các khóa học lừng danh về vật lý, địa lý, logic học và đạo đức học. Chiếc kính viễn vọng đặt nơi nóc hội trường Massachusetts còn biến Harvard thành một trung tâm về thiên văn học. May mắn thay, Franklin đã học được một số điều có lẽ cũng có tính khai sáng như nền giáo dục của Harvard: sự rèn luyện và những trải nghiệm của một chủ bút, một thợ in và một nhà báo.

HỌC VIỆC

Ở tuổi lên 10, sau hai năm học hành, Benjamin bắt đầu làm việc toàn thời gian tại cửa hàng nến và xà phòng của cha, thế chỗ anh trai John, người đã hoàn tất thời kỳ học việc và rời nhà đến khởi sự kinh doanh ở Đảo Rhode. Công việc này không hề dễ chịu - hớt váng mỡ nấu chảy từ các vạc dầu đang sôi thì hết sức độc hại, còn cắt bấc bỏ vào khuôn lại rất vô vị - và Franklin không giấu giếm nỗi chán ghét đối với nó. Đáng lo hơn, cậu rõ tỏ “thiên hướng mạnh mẽ với biển cả”, dù một người anh trai khác, Josiah Nhỏ, vừa mới bỏ xác nơi đáy biển.

Lo sợ con trai “thoát khỏi vòng kiềm tỏa và ra biển”, Josiah đưa cậu dạo khắp Boston để gặp những người thợ thủ công khác, nhờ đó ông có thể “quan sát thiên hướng của tôi và nỗ lực gắn nó với một cái nghề nào đó hòng giữ chân tôi trên bờ”. Những chuyến đi như thế đã khắc sâu trong Franklin niềm ngưỡng mộ suốt đời với giới thợ thủ công và thương gia. Sự làm quen ngắn ngủi với hàng loạt nghề thủ công cũng giúp Franklin trở thành một thợ hàn lành nghề, một điều cực kỳ hữu ích cho công việc của một nhà phát minh.

Cuối cùng, Josiah kết luận rằng tốt nhất Franklin nên làm thợ dao kéo, chuyên rèn dao và mài các loại lưỡi. Do đó, ít nhất là trong vài ngày, cậu được gửi tới học việc với Samuel, con trai bác Benjamin. Thế nhưng Samuel đòi hỏi một khoản phí học việc mà Josiah cho là vô lý, nhất là khi nhớ lại câu chuyện dài về lòng hiếu khách cũng như mối hiềm khích của ông với Benjamin Lớn.26

Vì thế, gần như bất đắc dĩ chứ không theo kế hoạch, Benjamin Nhỏ đành bắt đầu học việc từ năm 1718 ở tuổi 12 với người anh trai 21 tuổi tên James. James đã hoàn tất việc học hành ở Anh và trở về Mỹ để khởi nghiệp làm thợ in. Cậu bé Benjamin bướng bỉnh ban đầu không chịu ký các loại giấy giao kèo; tuổi cậu hơi nhiều hơn so với tuổi bắt đầu học việc thông thường và James yêu cầu cậu học với thời hạn chín năm thay vì bảy năm như thường lệ. Sau cùng, Benjamin vẫn ký dù không có ý định giữ cam kết cho đến năm 21 tuổi.

Trong thời gian ở London, James gặp những người hát nhạc trữ tình trên Phố Grub, họ in những bài tụng ca và bán rong tại các quán cà phê. Bởi thế, anh muốn Benjamin lập tức bắt tay vào công việc, không chỉ là việc sắp chữ mà cả việc sáng tác thơ. Được sự khuyến khích của bác trai, cậu bé Franklin đã viết hai bài thơ dựa trên hai mẩu tin trên báo, tất cả đều liên quan tới biển: bài thứ nhất nói về một gia đình bỏ mạng trong một tai nạn tàu bè, bài thứ hai nói về việc hạ được tên cướp biển có tên Râu đen. Franklin nhớ lại, đó chỉ là “những bài thơ rất dở” song lại bán khá chạy, điều đó càng “tâng bốc thói kiêu căng của tôi”.27

Về sau, Herman Melville* từng viết rằng Franklin “có thể làm bất cứ nghề gì trừ làm nhà thơ”. Vốn không phải là người lãng mạn, Josiah thực ra lại thích như thế và ông đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp chuyển thể văn xuôi thành thơ của con trai. “Cha tôi đã làm tôi nhụt chí bằng cách chế giễu công việc của tôi và nói những kẻ làm thơ đa phần đều đói rách như ăn mày. Thế là tôi đã chấm dứt đời thi sĩ mà hẳn nếu có thì là một thi sĩ rất tồi.”

Khi Franklin bắt đầu học nghề, tại Boston chỉ có duy nhất tờ Boston News-Letter (Bản tin) do John Campbell, một chủ nhà in thành đạt, giám đốc bưu điện thành phố, khai trương vào năm 1704. Thời đó cũng như ngày nay, quyền kiểm soát nội dung cũng như phát hành là một lợi thế lớn trong ngành truyền thông. Campbell có khả năng phối kết hợp với một mạng lưới các chủ bưu điện từ New Hampshire cho đến Virginia. Không giống như các nhà in khác, sách và báo của ông được chuyển miễn phí theo đường này và các bưu điện trong mạng lưới còn là nguồn cung cấp tin tức đều đặn cho ông. Chưa kể, nhờ có chân trong chính quyền, ông có thể tuyên bố tờ báo của mình “do chính quyền phát hành”. Đây là một chứng chỉ quan trọng vào thời bấy giờ, khi mà ngay cả báo chí cũng chưa được lấy làm tự hào về tính độc lập của nó.

Mối liên kết giữa hai công việc giám đốc bưu điện và chủ bút tờ báo tự nhiên đến mức khi Campbell mất việc ở bưu điện, người kế nhiệm ông, William Brooker, cứ đinh ninh rằng mình cũng sẽ tiếp quản luôn tờ báo. Tuy nhiên, Campbell kiên quyết giữ lấy nó. Điều này khiến Brooker, vào tháng 12 năm 1719, quyết định tung ra một tờ báo đối thủ: Boston Gazzette (Công báo Boston). Ông thuê James Franklin, chủ nhà in rẻ nhất trong thành phố, làm công việc ấn loát.

Nhưng sau hai năm, James bị cắt hợp đồng in tờ Gazzette và anh đã làm một việc khá táo bạo. Anh cho ra đời một ấn phẩm sau này trở thành tờ báo độc lập đúng nghĩa duy nhất ở xứ thuộc địa và là tờ báo đầu tiên mang hơi hướng văn chương. Tờ New England Courant (Tuần báo New England) của anh thể hiện rõ ràng nó không phải “do chính quyền phát hành”.28

Tờ Courant được lịch sử ghi nhớ chủ yếu vì nó là nơi những áng văn xuôi đầu tiên của Benjamin Franklin được xuất bản. Còn James trở nên nổi tiếng với vai trò một ông chủ cộc cằn, hay ghen tị được mô tả trong cuốn hồi ký của em trai mình. Nhưng công bằng mà nói, tờ Courant phải được nhớ đến vì chính nó, với tư cách tờ báo hết sức độc lập đầu tiên của nước Mỹ. Sự táo bạo chống lại các chuẩn mực định sẵn của nó đã khơi nguồn truyền thống không kiêng nể của nền báo chí quốc gia. Nhà văn học sử Perry Miller nhận định đây là “lần đầu tiên báo chí dám thách thức các chuẩn mực một cách công khai”.29

Thách thức nhà cầm quyền Boston lúc đó có nghĩa là thách thức nhà Mather và vai trò của giới tăng lữ Thanh giáo trong đời sống thế tục, mục tiêu được James đưa lên trang nhất của số báo đầu tiên. Thật không may anh chọn chống lại việc tiêm chủng phòng bệnh đậu mùa và trong trận chiến này anh đã chọn nhầm bên.

Với các đợt tấn công ngắt quãng, dịch bệnh đậu mùa đã tàn phá Massachusetts trong suốt 90 năm kể từ khi thành lập thành phố. Vào năm 1677, một trận dịch bùng nổ đã cướp mất sinh mạng của bảy trăm người, chiếm 12% dân số. Trong trận dịch năm 1702, khi ba đứa con của ông đều mắc bệnh song may mắn qua khỏi, Cotton Mather bắt tay vào nghiên cứu về chứng bệnh này. Vài năm sau, Mather được một người nô lệ da đen nói cho biết về tập tục tiêm chủng. Anh ta đã trải qua thủ tục này khi còn ở châu Phi và chỉ cho Mather thấy vết sẹo của mình. Mather kiểm tra lại với những người da đen khác tại Boston và nhận thấy tiêm chủng là một tập tục được chấp nhận rộng rãi ở một số vùng của châu Phi.

Ngay trước khi tờ Courant của James Franklin trình làng vào năm 1721, con tàu HMS Seahorse đến từ Tây Ấn đã mang theo một đợt dịch đậu mùa mới. Trong vòng vài tháng, chín trăm trên tổng số một vạn dân của Boston đã chết. Mather, vốn được đào tạo để làm bác sĩ trước khi trở thành nhà truyền giáo, đã gửi một lá thư đến mười bác sĩ thực hành tại Boston (chỉ một người trong số đó có bằng cấp về y khoa) tóm tắt những kiến thức của ông về tiêm chủng ở châu Phi và thúc giục họ áp dụng cách thức này. (Mather đã tiến bộ rất xa so với thời niềm tin mê tín khiến ông ủng hộ các cuộc săn lùng phù thủy ở Salem.)*

Hầu hết các bác sĩ đều bác bỏ ý tưởng này và tờ báo mới của James Franklin cũng vậy (dù anh không có lý lẽ nào khác để biện minh ngoài mong muốn đả kích nguyện vọng của các tu sĩ). Số đầu tiên của tờ Courant (ra ngày 7 tháng 8 năm 1721) đăng tải bài bình luận mà tác giả là một anh bạn trẻ của James, John Checkley, một tín hữu Anh giáo xấc xược từng theo học ở Oxford. Mục tiêu tấn công được anh ta lựa chọn là giới tu sĩ Thanh giáo, “những kẻ bằng cách giáo huấn và thực hành những thứ thuộc về Chính thống giáo, luôn khẩn thiết cầu nguyện chống lại bệnh tật nhưng lại rao giảng cho chứng đậu mùa!” Số báo này còn đăng tải bài công kích của vị bác sĩ có bằng y khoa duy nhất, tiến sĩ William Douglass, người chối bỏ tiêm chủng như “hủ tục của các mụ già Hy Lạp” và gọi Mather cùng các tu sĩ ủng hộ ông là “sáu quý ông có đạo đức và học thức hoàn toàn mù tịt về vấn đề”. Đây là thí dụ đầu tiên và là thí dụ điển hình về việc một tờ báo đối chọi với thế lực nắm quyền của nước Mỹ.30

Increase Mather, vị trưởng thượng già cả của gia tộc, đã nổi trận lôi đình: “Ta chỉ biết thương cảm cho Franklin tội nghiệp, dù còn trai trẻ nhưng anh ta sẽ sớm phải hiện diện trước ngai phán xét của Chúa.” Con trai ông, Cotton Mather, gửi thư cho một tờ báo đối thủ để tố cáo tờ Courant - “tờ báo tai tiếng mang tên Courant, đầy rẫy những chuyện vô nghĩa, vô nhân và giễu cợt”, đồng thời ví những kẻ đóng góp bài vở cho nó với Câu lạc bộ Hell-Fire (Lửa Địa ngục), một phe nhóm nổi tiếng của những kẻ dị giáo trẻ tuổi có bề ngoài tử tế ở London. Một người họ hàng của Cotton, mục sư Thomas Walter, đóng góp thêm bằng một bài viết gay gắt có nhan đề “Chống Couranf.”

Biết chắc rằng trận khẩu chiến công khai này sẽ khiến tờ báo bán được đắt hàng và vì muốn hưởng lợi từ cả hai phe trong cuộc tranh luận, James Franklin rất vui vẻ tiến hành đăng tải và bán bài phản biện của Thomas Walter. Tuy nhiên, cuộc tranh luận ngày càng mang tính chỉ trích cá nhân khiến anh bắt đầu thấy bất an. Vài tuần sau, trong lời ngỏ của tòa soạn, anh thông báo tờ báo đã cấm chỉ Checkley vì đã để cho mối hận thù trở nên quá hằn học. Anh hứa tờ Courant từ đây sẽ nhằm vào mục tiêu “định hướng vô hại” và sẽ đăng tải các ý kiến đến từ cả hai phía của cuộc tranh luận về tiêm chủng miễn là chúng “tránh xa những lời chỉ trích có ác ý”.31

Benjamin Franklin cố gắng đứng ngoài cuộc chiến về đậu mùa của anh trai mình với gia đình Mather và không bao giờ đề cập tới nó trong tự truyện hay trong bất kỳ thư từ nào của ông. Sự lược bỏ công khai này cho thấy ông không hề tự hào về lập trường mà tờ Courant đã chọn. Về sau ông trở thành một người nhiệt tình ủng hộ tiêm chủng. Ông chua xót và đau đớn tán thành mục tiêu của nó sau khi chứng kiến đứa con trai 4 tuổi, Francis, chết vì bệnh đậu mùa vào năm 1736. Benjamin, vốn là một cậu bé ham mê chữ nghĩa và trên con đường phấn đấu luôn tìm kiếm sự hỗ trợ của các bậc tiền bối có tầm ảnh hưởng, sau cùng đã trở thành một người ngưỡng mộ Cotton Mather và vài năm sau trở thành người quen của vị mục sư này.

Chú thích:

[1]

[31]