← Quay lại trang sách

Chương 2 (tt)

SÁCH

Nghề in ấn là một tiếng gọi tự nhiên đối với Franklin. “Từ khi còn nhỏ tôi đã thích đọc sách và số tiền ít ỏi tôi có trong tay đều được dùng để mua sách,” ông nhớ lại. Quả thật, sách chính là yếu tố định hình nhân cách quan trọng nhất trong cuộc đời Franklin. Ông đã may mắn lớn lên tại Boston, nơi các thư viện được chăm lo cẩn thận từ khi con tàu Arabella mang theo 50 cuốn sách đầu tiên đến đây khi thành phố được thành lập vào năm 1630. Vào thời gian Franklin ra đời, Cotton Mather đã xây dựng một thư viện tư nhân với gần 3.000 đầu sách đa dạng, từ các công trình về kinh điển, khoa học cho đến thần học. Coi trọng sách vở là một trong số những điểm tương đồng giữa Mather và Locke, dù một người là tín đồ Thanh giáo còn người kia theo chủ nghĩa Khai sáng. Chính hai thế giới này đã kết hợp trong cá tính của Benjamin Franklin.*32

Cách thư viện của Mather chưa đầy một dặm là giá sách nhỏ của Josiah Franklin. Việc một người thợ làm nến ít học có giá sách riêng, dù rất khiêm nhường như thế, là điều đáng kể. Nửa thế kỷ sau, Benjamin vẫn nhớ rõ nhan đề của chúng: Những cuộc đời của Plutarch (được ông đọc lại nhiều lần), Khảo luận về các dự án của Daniel Defoe và Bonifacius: Các tiểu luận về làm điều tốt của Cotton Mather, cùng một số cuốn thuộc thể loại tranh luận thần học.

Từ khi làm việc tại xưởng in của anh trai, Franklin có thể đọc lén sách của những người tập sự làm việc cho các chủ nhà sách, với điều kiện cậu trả chúng lại nguyên vẹn. “Tôi thường ngồi trong phòng, dành phần lớn buổi tối đề đọc sách bởi thường mượn chúng vào buổi chiều và phải trả lại vào sáng sớm hôm sau kẻo bị thất lạc hoặc có ai đó cần dùng nó.”

Franklin thích nhất những cuốn sách phiêu lưu, thần thánh cũng như phàm trần, và Tiến trình của kẻ hành hương của John Bunyan, tác phẩm nổi bật nhất ở thể loại này, kết hợp được cả hai.* Đây là một trường thiên tiểu thuyết kể về cuộc du hành kiên cường của một người đàn ông có tên Christian để tìm đến thành phố Thiên đường. Cuốn sách được xuất bản năm 1678 và nhanh chóng trở nên nổi tiếng trong cộng đồng Thanh giáo và các nhóm bất quy phục khác. Ngoài thông điệp tôn giáo, nó còn có một thông điệp khác cũng quan trọng không kém, ít nhất là đối với Franklin. Đó chính là phong cách văn chương nhẹ nhàng, trong sáng rất mới mẻ, trong một thời đại mà văn chương vón cục vì sự rườm rà sau khi chế độ quân chủ được khôi phục. Franklin đã nhận định rất xác đáng rằng: “John là người đầu tiên tôi biết từng pha trộn tự sự và hội thoại, một bút pháp rất lôi cuốn độc giả.”

Chủ đề trung tâm của cuốn sách này, cũng là của con đường từ Thanh giáo tới Khai sáng và của chính cuộc đời Franklin, được thể hiện trong tiêu đề của nó: tiến trình - khái niệm để chỉ việc các cá nhân và loài người nói chung tiến về phía trước và hoàn thiện thông qua việc gia tăng đều đặn tri thức và trí khôn nhờ chiến thắng nghịch cảnh. Câu mở đầu nổi tiếng của Christian đã thể hiện tinh thần ấy: “Tôi đi qua miền hoang vu của thế giới này...” Ngay cả với các tín đồ ngoan đạo, tiến trình này cũng không chỉ do bàn tay nhào nặn của Chúa mà còn là kết quả sự đấu tranh của con người, từng cá nhân hay cả cộng đồng, để vượt qua mọi trở ngại.

Tương tự như thế, một cuốn sách yêu thích khác của Franklin là Những cuộc đời của Plutarch (và ta phải dừng lại để ngưỡng mộ một cậu bé 12 tuổi với thị hiếu giải trí như vậy).* Tác phẩm cũng dựa trên luận đề rằng nỗ lực cá nhân có thể thay đổi lịch sử theo hướng tốt hơn. Những người anh hùng của Plutarch, cũng như Christian của Bunyan, là những con người đáng kính luôn tin rằng nỗ lực cá nhân của họ bện vào với sự tiến bộ của nhân loại. Franklin bắt đầu tin rằng lịch sử là một câu chuyện, không phải về các thế lực vĩnh hằng mà về những nỗ lực của con người.

Quan điểm này xung đột với một số giáo lý của chủ nghĩa Calvin* chẳng hạn như sự đồi bại thuộc bản chất của con người và sự tiền định của linh hồn con người. Franklin cuối cùng đã từ bỏ niềm tin cũ khi ông tiến gần hơn tới thuyết thần giáo tự nhiên,* ít bi quan hơn và là tín ngưỡng được lựa chọn trong thời kỳ Khai sáng. Tuy vậy, có nhiều khía cạnh của Thanh giáo để lại dấu ấn lâu dài, đáng kể nhất là tính thực tế, hòa đồng và hướng đến cộng đồng của tôn giáo này.

Những điều này được trình bày hùng hồn trong một tác phẩm thường được Franklin coi là có ảnh hưởng lớn: Bonifacius: Các tiểu luận về làm điều tốt* một trong vài tiểu luận nhẹ nhàng nhất trong tổng số hơn 400 tác phẩm của Cotton Mather. Gần 70 năm sau, Franklin đã viết thư cho con trai của Mather: “Nếu tôi đã là một công dân tốt và điều đó có làm lợi gì cho công chúng thì họ phải cảm ơn cuốn sách này.” Bút danh đầu tiên của Franklin, Silence Dogood (Im lặng Làm tốt), bày tỏ tri ân với cuốn sách này và bài giảng nổi tiếng của Mather, “Silentiarius: Kẻ chịu đựng âm thầm”.

Tiểu luận của Mather kêu gọi các thành viên trong cộng đồng lập ra các hội tự nguyện làm lợi cho xã hội. Cá nhân ông đã lập một hội đề hỗ trợ láng giềng, tên là Liên minh Gia đình - cha của Benjamin có tham gia hội này. Mather còn kêu gọi việc sáng lập các câu lạc bộ Liên minh Đàn ông Trẻ và Hiệp hội Cải cách để Trấn áp Hỗn loạn, nhằm mục đích cải thiện luật lệ địa phương, hỗ trợ người nghèo và khuyến khích việc cư xử phải đạo.33

Những ý tưởng của Mather chịu ảnh hưởng của tác phẩm Tiểu luận về các dự án của Daniel Defoe,* một cuốn sách mà Franklin cũng rất yêu thích. Xuất bản năm 1697, cuốn sách đề xuất nhiều dự án cộng đồng cho London mà về sau Franklin đã tiến hành ở Philadelphia: các hiệp hội bảo hiểm hỏa hoạn, các hội gây quỹ lương hưu tự nguyện của thủy thủ, các kế hoạch chu cấp phúc lợi cho người già và quả phụ, các trường tư thục dành cho con em của tầng lớp trung lưu và (với một chút hài hước của Defoe) các cơ sở nuôi dưỡng người thiểu năng trí tuệ được đài thọ bằng một sắc thuế đánh lên giới sáng tác với lý do họ có trí tuệ bẩm sinh cao hơn trong khi những người thiểu năng phải chịu thua thiệt.34

Một trong những điểm tiến bộ nhất của Defoe là việc ông cho rằng chối bỏ các quyền lợi và sự học hành của nữ giới là “man rợ” và “vô nhân đạo”. Tiểu luận về các dự án dành hẳn một bài công kích nạn kỳ thị giới tính. Cũng vào thời gian này, Franklin và “một cậu bạn mọt sách khác” tên là John Collins bắt đầu lấy việc tranh luận với nhau làm trò chơi trí tuệ. Chủ đề đầu tiên của họ là quyền giáo dục của phụ nữ, và Collins phản đối điều này. “Tôi chọn quan điểm đối lập” dù không hoàn toàn bị thuyết phục mà “có lẽ một phần chỉ vì mục đích tranh luận,” Franklin nhớ lại.

Nhờ tập tranh luận với Collins, Franklin bắt đầu xây dựng cho mình một tính cách ít sinh sự và đối đầu. Điều này khiến Franklin có vẻ dễ mến và quyến rũ khi lớn lên - hoặc với một bộ phận kẻ thù nhỏ nhưng có tiếng nói, đó là sự lôi cuốn và thâm sâu. Theo cậu, “tính thích cãi vã là một thói quen rất xấu” vì khi mâu thuẫn, người ta sẽ sinh ra “căm ghét và có thể cả thù hằn”. Sau này, Franklin hài hước nói về việc tranh luận: “Tôi nhận thấy những người khôn ngoan ít khi sa vào nó, trừ các luật sư, các giáo sư đại học và mọi loại người sinh ra ở Edinburgh.”

Thay vào đó, sau khi tinh cờ đọc được một số cuốn sách về thuật hùng biện ca ngợi phương pháp Socrates* - xây dựng lập luận qua các truy vấn nhẹ nhàng - cậu đã từ bỏ phong cách tranh luận nặng tính đối đầu của mình và “khoác lên hình ảnh một nhà truy vấn khiêm tốn” kiểu Socrates. Bằng cách đặt các câu hỏi có vẻ vô hại, Franklin khiến đối phương phải dần nhượng bộ và điều đó sẽ dần làm sáng tỏ quan điểm cậu muốn khẳng định. “Tôi nhận thấy phương pháp này là an toàn nhất cho bản thân và khiến những người mà tôi sử dụng nó để chống đỡ thấy bẽ mặt; việc đó đem lại niềm vui cho tôi.” Dù sau này Franklin bỏ bớt các khía cạnh phức tạp trong lối tiếp cận của Socrates, cậu vẫn tiếp tục nghiêng về việc đưa ra lập luận gián tiếp nhẹ nhàng thay vì trực tiếp đối đầu.35

IM LẶNG LÀM TỐT

Một phần cuộc tranh luận về giáo dục và nữ giới với Collins được trao đổi qua thư và cha cậu tình cờ đọc được chúng. Trong cuộc tranh luận này, Josiah không đứng về bên nào (ông có vẻ là người bình đẳng, thể hiện ở việc đối với tất cả con cái, cả trai lẫn gái, ông đều chỉ cho học chính khóa một thời gian ngắn). Tuy vậy, ông phê bình con trai về phong cách viết yếu và kém thuyết phục của cậu. Để đáp lại, cậu bé sớm phát triển này đã thiết kế cho mình một khóa học tự hoàn thiện với sự giúp đỡ của một tờ Nhà quan sát* mà cậu tìm được.

Nhà quan sát, một tờ nhật báo tại London thành công nhất vào giai đoạn 1711-1712, đăng tải những bài luận tài hoa của Joseph Addison và Richard Steele bàn về sự phù phiếm và các giá trị của xã hội đương đại. Góc nhìn của họ có tính nhân đạo và khai mở nhưng nhẹ nhàng. Như Addison đã nói: “Tôi sẽ cố gắng làm cho Đạo đức trở nên sống động với sự Hóm hỉnh và hòa trộn sự Hóm hỉnh với Đạo đức.”

Như một phần của khóa học tự hoàn thiện, Franklin đọc các bài luận này, ghi chép ngắn gọn và để chúng qua một bên. Sau vài ngày, cậu cố gắng viết lại bài luận bằng ngôn từ của mình, sau đó so sánh với bản gốc. Đôi khi cậu còn đảo lộn các ghi chép của mình nhằm buộc bản thân tìm ra cấu trúc tốt nhất để triển khai các lập luận của bài viết.

Benjamin biến một số bài luận thành thơ vì nghĩ việc đó sẽ giúp mở rộng vốn từ do cậu buộc phải tìm ra các từ đồng nghĩa nhưng có vần điệu khác nhau. Sau vài ngày, cậu lại chuyển các bài thơ này thành văn xuôi để so sánh xem chúng đã bị tam sao thất bản so với bản gốc đến đâu. Khi thấy bản của mình còn thiếu sót, cậu sẽ sửa chữa lại. “Đôi khi tôi vui mừng vì thấy rằng ở một số chi tiết nhất định không mấy ý nghĩa, tôi đã may mắn hoàn thiện được bút pháp hoặc ngôn ngữ. Điều đó khuyến khích tôi nghĩ rằng sẽ đến lúc tôi thực hiện được mơ ước của mình: trở thành một người viết tiếng Anh chấp nhận được.”36

Hơn cả việc chỉ trở thành một người viết “chấp nhận được”, Franklin trở thành một trong số những cây bút nổi tiếng nhất tại vùng thuộc địa Mỹ. Phong cách tự học của cậu, thích hợp để làm đệ tử của Addison và Steele, được đặc trưng bởi lối văn xuôi hội thoại và hóm hỉnh, ít hoa mỹ mà mạnh mẽ với một tinh thần bộc trực.

Thế là bút danh Silence Dogood ra đời. Tờ Tuần báo* của James Franklin vốn dựa theo khuôn mẫu của tờ Nhà quan sát, nổi bật với những tiểu luận ngông ký bằng bút danh và nhà in của anh thu hút một nhóm những cộng tác viên trẻ thích tụ họp để khen ngợi văn chương của nhau. Benjamin rất háo hức tham gia vào nhóm này nhưng biết rõ James, vốn sẵn lòng ghen tị với cậu em trai mới nổi, chắc chắn sẽ tìm cách ngăn cản mình. “Nghe họ thảo luận và kể về sự tán đồng mà các bài viết của họ nhận được, tôi cũng háo hức muốn được thử sức như họ.”

Vì thế, một đêm, Franklin đã thay đổi nét chữ của cậu để viết một tiểu luận sau đó đẩy nó qua khe cửa nhà in. Các biên tập viên của tờ Tuần báo họp mặt ngày hôm sau, họ ca ngợi bài viết do tác giả vô danh gửi tới. Franklin thì được hưởng “thú vui tao nhã” - lắng nghe họ quyết định đăng bài viết lên trang nhất của số báo xuất bản vào đầu tuần sau, thứ Hai ngày 2 tháng 4 năm 1722.

Nhân vật văn học do Franklin tạo ra là một thành tựu của trí tưởng tượng. Silence Dogood là một góa phụ hơi kiểu cách đến từ một vùng quê, được sáng tạo ra bởi một chàng thiếu niên chưa vợ sống ở Boston, người chưa bao giờ ngủ một đêm bên ngoài thành phố. Mặc dù chất lượng của các bài viết không đồng đều, khả năng nói chuyện thuyết phục hệt như một phụ nữ của Franklin rất đáng ghi nhận, nó cho thấy cả tài sáng tạo và sự tôn trọng của cậu dành cho trí tuệ phụ nữ.

Dấu ấn của Addison thể hiện ngay từ bước khởi đầu của Franklin. Trong bài viết đầu tiên đăng trên Nhà quan sát của mình, Addison viết: “Tôi nhận thấy độc giả ít khi hứng thú dõi theo một cuốn sách cho đến khi họ biết được tác giả của nó là người da đen hay da trắng, có tính khí ôn tồn hay dễ nổi giận, đã có gia đình hay còn độc thân.” Tương tự, Franklin cũng mở đầu bằng cách biện giải cho lời giới thiệu có tính tự truyện về nhân vật hư cấu: “Dễ thấy rằng đa phần độc giả ngày nay không sẵn lòng tán thưởng hay chê bai những gì họ đọc cho tới khi bằng cách nào đó họ biết được tác giả của nó là ai hoặc là người như thế nào, giàu hay nghèo, già hay trẻ, là một học giả hay một anh thợ đóng giày.”

Một lý do khiến các tiểu luận dưới bút danh Silence Dogood đáng chú ý về mặt lịch sử là chúng nằm trong số các thí dụ đầu tiên về tiền thân của thể loại hài hước tinh túy kiểu Mỹ. Sự pha trộn còn gượng gạo và thô kệch giữa những câu chuyện bình dân và những quan sát sắc bén sẽ được những người tiếp nối Franklin như Mark Twain và Will Rogers hoàn thiện. Chẳng hạn trong tiểu luận số hai, Silence Dogood kể lại việc vị mục sư nơi cô tập sự quyết định cưới cô làm vợ: “Sau khi thực hiện một số nỗ lực vô ích, bất thành với những người cao quý hơn ở giới chúng tôi và chán chường những hành trình và những chuyến viếng thăm phiền toái không có mục đích, anh ấy bắt đầu bất ngờ liếc mắt đưa tình với tôi... Chắc chắn hiếm có khi nào trong đời, một người đàn ông lại trở nên ngớ ngẩn và phi lý hơn khi anh ta bắt đầu việc tán tỉnh.”

Việc khắc họa bà Dogood thể hiện một kỹ năng văn chương khá tinh tế so với độ tuổi 16 của Franklin. “Tôi có thể dễ dàng bị thuyết phục đi bước nữa,” cậu đã để bà ta tuyên bố như thế. “Tôi lịch thiệp và niềm nở, tốt tính (trừ khi bị chọc tức trước), hào phóng và đôi khi còn dí dỏm nữa,” - cách dùng từ “đôi khi” ở đây hết sức khéo léo. Khi mô tả những niềm tin và thiên kiến của nhân vật, Franklin đã để bà Dogood khẳng định một quan điểm mà nhờ sự khuyến khích của cậu sẽ trở thành một phần của tính cách Mỹ mới: “Tôi là... kẻ tử thù của chính phủ độc đoán và quyền lực vô hạn. Tôi luôn khao khát các quyền lợi và sự tự do cho đất nước tôi; và một biểu hiện dù nhỏ nhất của việc xâm phạm các quyền vô giá ấy cũng có thể làm tôi sôi máu. Tương tự, tôi cũng có xu hướng tự nhiên trong việc quan sát và quở trách lỗi lầm của người khác, việc mà tôi có năng lực xuất sắc.” Đó là lời mô tả về chính con người Benjamin Franklin và quả thật, đó cũng là một người Mỹ điển hình mà ta có thể gặp ở bất cứ đâu.37

Trong số 14 tiểu luận dưới bút danh Dogood mà Franklin viết từ tháng Tư đến tháng Mười năm 1722, bài viết nổi bật nhất về tính báo chí cũng như sự hé lộ bản thân là bài công kích ngôi trường nơi cậu không bao giờ có dịp theo học. Đa số bạn bè từng thua kém cậu ở trường Boston Latin nay đã vào Harvard nên Franklin không thể kiềm chề việc đả kích họ và cơ sở đào tạo này. Hình thức được cậu sử dụng là một câu chuyện phúng dụ có bố cục như một giấc mơ. Để làm được điều này, cậu dựa trên và có phần nhại lại cuốn Tiến trình của kẻ hành hương (Pilgrim’s Progress) của tác giả Bunyan, vốn cũng kể về một hành trình có tính phúng dụ được thể hiện dưới dạng một giấc mơ. Addison cũng từng sử dụng hình thức này, song có phần hơi vụng về, trong một số của tờ Nhà quan sát mà Franklin đã đọc. Ông kể lại giấc mơ của một chủ nhà băng về một trinh nữ có ỹ nghĩa phúng dụ mang tên Tín dụng Công.38

Trong bài viết này, bà Dogood kể lại việc ngủ quên dưới gốc táo trong khi đang mải nghĩ về việc liệu có nên gửi con trai tới Harvard không. Trên hành trình trong mơ đi đến ngôi đền của giáo dục này, bà khám phá ra sự thật về những người gửi con trai tới đây: “Hầu hết đều tham vấn ý kiến của chiếc hầu bao thay vì năng lực của con em họ. Vì thế, tôi đã quan sát rất kĩ, vâng, đa số những kẻ lều chõng đến đây chẳng giỏi giang hơn Tối dạ và Đần độn.” Bà nhận thấy cánh cổng của ngôi đền được canh giữ bởi “hai gã gác cổng lực lưỡng tên là Giàu và Nghèo” và chỉ những ai được sự chấp thuận của gã thứ nhất mới có thể vào trong. Phần nhiều sinh viên đều hài lòng với việc vui đùa cùng các nhân vật mang tên Lười biếng và Ngu dốt. “Họ chẳng học hành gì nhiều hơn việc làm thế nào để trở thành những kẻ vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa (điều có thể học được ở bất cứ trường khiêu vũ nào). Do đó, họ trở về sau vô số rắc rối và chi phí và vẫn dốt nát vĩ đại như bấy lâu nay, chỉ khác là giờ đây họ tự đắc và kiêu ngạo hơn.”

Tiếp thu các đề xuất của Mather và Defoe về các hiệp hội dân sự tự nguyện, Franklin dành hai trong số các tiểu luận ký tên Silence Dogood để viết về chủ đề trợ cấp cho phụ nữ đơn thân. Với các góa phụ như mình, bà Dogood đề xuất các chương trình bảo hiểm được các cặp vợ chồng đóng góp để gây quỹ. Tiểu luận tiếp theo mở rộng ý tưởng này sang cho cả các phụ nữ không chồng. Một “hội thân thiện” sẽ được thành lập để đảm bảo trao 500 bảng “tiền tươi” cho bất cứ thành viên nào tới tuổi 30 mà vẫn chưa lập gia đình. Bà Dogood lưu ý số tiền này được trao với điều kiện: “Không người phụ nữ nào sau khi yêu cầu và nhận được trợ cấp, nếu may mắn có thể kết hôn, có nghĩa vụ tiêu khiển bạn bè bằng cách ca ngợi chồng mình trong vòng nhiều hơn một tiếng đồng hồ mỗi lần về nỗi đau khổ khi phải hoàn trả một nửa số tiền cho văn phòng cho lần vi phạm thứ nhất và hoàn trả phần còn lại cho lần vi phạm thứ hai.” Trong các bài viết này, Franklin mới chỉ châm biếm nhẹ nhàng chứ chưa thực sự gay gắt. Như chúng ta thấy, sau này khi trở thành một chủ cửa hiệu trẻ tuổi tại Philadelphia, mối quan tâm của cậu với các hiệp hội dân sự sẽ được bộc lộ một cách chân thành hơn.

Sự tự phụ của Franklin còn được dung dưỡng thêm vào mùa hè năm 1722 đó, khi anh trai cậu bị chính quyền Massachusetts giam giữ trong ba tuần - không qua xét xử - vì tội “lăng mạ” khi dám hoài nghi khả năng truy đuổi hải tặc của họ. Do đó, Benjamin đảm nhiệm việc xuất bản ba số báo liên tiếp.

Franklin ba hoa trong cuốn tự truyện rằng: “Tôi nắm quyền quản trị tờ báo và đã dũng cảm gây ít nhiều khó dễ cho giới chức. Điều này được anh trai tôi đón nhận rất thân ái trong khi những người khác bắt đầu nhìn tôi với con mắt không thiện cảm như thể tôi là một thiên tài trẻ tuổi có khiếu bôi bác và châm biếm.” Thực tế, ngoài lá thư gửi độc giả được James viết trong tù, không có gì trong ba số báo của Benjamin trực tiếp thách thức chính quyền. Lần cậu dám đi xa nhất là khi để bà Dogood trích nguyên văn một bài viết trên một tờ báo Anh có nội dung cổ vũ tự do ngôn luận. Nó khẳng định, “nếu không có tự do tư tưởng thì không thể có sự thông thái và không thể có tự do công khai nếu thiếu quyền tự do ngôn luận”.39

Những sự “ngăn trở” mà Franklin nhắc đến thực chất lại xảy ra một tuần sau khi anh trai cậu ra tù. Vẫn với bút danh Silence Dogood, cậu tung một cú tấn công sắc nhọn vào chính quyền dân sự. Có lẽ đó là đòn hiểm nhất trong toàn bộ sự nghiệp của Franklin. Câu hỏi được bà Dogood đặt ra là: “Liệu toàn thể nhân dân sẽ chịu thiệt hại nhiều hơn bởi những kẻ đạo đức giả tỏ ra ngoan đạo hay những kẻ báng bổ thần thánh công khai?”

Không ngạc nhiên, bà Dogood của Franklin lập luận: “Một vài suy nghĩ muộn màng về bản chất vấn đề khiến tôi nghĩ rằng kẻ giả tạo còn nguy hiểm hơn, nhất là khi kẻ đó nắm vị trí trong chính quyền.” Bài viết công kích mối liên hệ giữa nhà thờ và chính quyền, vốn là nền tảng của cộng đồng Thanh giáo. Thủ hiến Thomas Dudley, vốn là một mục sư trước khi chuyển sang làm luật sư, được dẫn ra (dù không nêu tên) làm thí dụ: “Kẻ giả tạo nhất trong toàn thể nhân dân là kẻ từ bỏ phúc âm để chạy theo luật pháp. Một kẻ nắm trong tay cả luật pháp và phúc âm có thể lừa dối được người dân bằng tôn giáo của hắn ta, sau đó hủy hoại họ bằng luật pháp.”40

Đến mùa thu năm 1722, Franklin bắt đầu cạn ý tưởng cho bà Silence Dogood. Tệ hơn nữa, anh trai cậu bắt đầu nghi ngờ nguồn gốc của các tiểu luận. Trong bài viết thứ 13, Silence Dogood kể lại rằng bà đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện vào một đêm nọ, trong đó một quỹ ông nói rằng: “Dù tôi viết dưới danh nghĩa một phụ nữ, anh ta biết tôi là một người đàn ông; Song anh ta tiếp tục, nhu cầu được nỗ lực vì sự cải cách bên trong anh ta còn lớn hơn việc dùng tài dí dỏm của mình để châm biếm người khác.” Tiểu luận tiếp theo là bài viết cuối cùng Franklin ký bút danh Dogood. Khi cậu tiết lộ danh tính thật sự của bà Dogood, điều đó nâng tầm của cậu trong số những người làm cho tờ Tuần báo, nhưng việc này khiến James “không mấy hài lòng”. “Anh ấy nghĩ, có lẽ cũng khá hợp lý, rằng điều đó có xu hướng khiến tôi trở nên quá tự phụ.”

Silence Dogood đã có thể rút êm sau cú tấn công vào thói đạo đức giả và tôn giáo nhưng khi James viết một bài tương tự vào tháng 1 năm 1723, một lần nữa anh lại gặp rắc rối. Anh viết, “trong tất cả những kẻ bất lương, kẻ bất lương về tôn giáo là đốn mạt nhất”. Anh cho rằng tôn giáo rất quan trọng, nhưng bằng việc dùng các từ ngữ mô tả chính xác quan điểm suốt đời của cậu em trai, anh nói thêm, “thứ gì thái quá còn tệ hơn là không có”. Giới chức địa phương nhận định “bài báo có khuynh hướng nhạo báng tôn giáo” và lập tức thông qua một nghị quyết buộc James phải nộp mỗi số báo lên để chính quyền phê duyệt trước khi xuất bản. James đã chống lại lệnh này với đầy sự thích thú.

Phiên tòa sơ thẩm đã phản ứng bằng cách cấm James Franklin xuất bản tờ Tuần báo. Trong một cuộc họp bí mật tại cửa hiệu, các thành viên quyết định rằng cách tốt nhất để lẩn tránh lệnh này là tiếp tục xuất bản tờ báo nhưng James không làm chủ bút nữa. Thứ Hai ngày 11 tháng 2 năm 1723, trên đầu tờ Tuần báo xuất hiện phần thông tin tòa soạn ghi: “Do Benjamin Franklin in ấn và phân phối.”

Tờ Tuần báo của Benjamin thận trọng hơn so với của anh trai. Bài xã luận trong số đầu tiên lên án các ấn phẩm có tính “hận thù” và “độc hại”, đồng thời tuyên bố từ đây tờ báo sẽ được “thiết kế thuần túy phục vụ thú tiêu khiển và niềm vui của độc giả” và “giải trí cho thành phố bằng những tình huống đời thường vui tươi và hài hước nhất”. Bài xã luận tuyên bố người thầy của tờ báo là Janus, một vị thần La Mã có thể nhìn về hai hướng cùng một lúc.41

Tuy vậy, một vài số báo tiếp theo hầu như không đáp ứng được lời quảng cáo này. Đa số các bài báo là những thông điệp muộn màng gồm tin tức nước ngoài và vài bài phát biểu cũ. Chỉ có một tiểu luận chắc chắn do Franklin viết - một suy tưởng đầy tính chế giễu về sự nực cười của các tước hiệu như Tử tước hay Đức ông. (Nỗi ác cảm với các tước hiệu quý tộc và chế độ tập ấm là đề tài công kích suốt đời của Franklin.) Một vài tuần sau, James trở lại với vị trí chỉ huy tờ Tuần báo, dù chưa công khai thì cũng trên thực tế, và Benjamin tiếp tục bị đối xử như một nhân viên tập sự, đôi khi còn bị đánh đập. James không xem cậu là em trai hay một người bạn viết. Cách đối xử ấy “hạ thấp tôi quá mức”, Franklin nhớ lại, và cậu bỗng háo hức được thay đổi. Sự thôi thúc của tinh thần độc lập với cậu lớn đến mức nó sẽ trở thành dấu ấn của tính cách Mỹ.

CUỘC CHẠY TRỐN

Franklin thực hiện việc bỏ trốn bằng cách dùng chính mưu mẹo mà anh trai mình đã trù tính. Khi giả vờ trao tờ Tuần báo cho Benjamin, James đã lập văn bản chính thức xác nhận việc hoàn tất thời gian tập sự để cuộc chuyển giao có vẻ hợp pháp. Sau đó, James lại bắt em trai ký một hợp đồng tập sự mới mà anh phải giữ bí mật. Vài tháng sau, Benjamin quyết định bỏ trốn. Cậu đã đúng khi đoán rằng anh trai mình sẽ nhận ra sự thiếu khôn ngoan của việc cố gắng bắt cậu thực thi khế ước bí mật kia.

Benjamin Franklin bỏ lại người anh trai và tờ báo dần lụn bại; uy tín của nó cuối cùng sẽ thu hẹp đến mức chỉ còn là một chú thích về lịch sử mờ nhạt. Bị kết tội dưới ngòi bút sắc bén của em trai, James được nhớ đến vì “các cú đấm mà niềm đam mê khiến anh thường xuyên giáng chúng xuống tôi”. Thực tế, tầm quan trọng của anh trong cuộc đời Franklin được mô tả trong một chú thích thô lỗ trong cuốn tự truyện, được viết vào thời gian Franklin là một nhà đấu tranh của xứ thuộc địa chống lại ách thống trị của nước Anh: “Tôi thiết tưởng cách đối xử cộc cằn và bạo hành anh ấy dành cho tôi có thể là một cách thức để tôi có được ấn tượng sâu sắc về mối ác cảm với quyền lực độc đoán, thứ sẽ theo tôi suốt cuộc đời.”

James xứng đáng với điều tốt đẹp hơn. Nếu Franklin học được từ James “mối ác cảm với quyền lực độc đoán”, đó không chỉ là do cách cư xử bị cho là bạo hành của anh mà còn bởi anh, bằng lòng can đảm và sự giận dữ, đã nêu gương trong việc thách thức tầng lớp tinh hoa cầm quyền ở Boston. James là chiến binh vĩ đại đầu tiên của nền báo chí Mỹ tự do và là người có ảnh hưởng lớn nhất về phong cách báo chí lên em trai mình.

Sự đổ vỡ của Benjamin với anh trai là một điều may mắn cho sự nghiệp của cậu. Được sinh trưởng tại Boston là điều tuyệt vời nhưng thành phố này có khả năng trở thành nơi làm thui chột một người theo thuyết thần giáo tự nhiên, mang tư tưởng tự do và chưa từng theo học ở Harvard. Sau này Franklin đã viết: “Trong mắt nhà chức trách, tôi đã khiến mình trở nên ít nhiều đáng ghét nên nếu ở lại có lẽ chẳng bao lâu tôi sẽ tự đẩy mình vào tình thế khó khăn.” Sự chế nhạo tôn giáo của cậu đồng nghĩa với việc khi ra phố, cậu sẽ bị người ta chỉ trỏ “với nỗi ghê tởm của những người ngoan đạo dành cho những kẻ không tin tôn giáo hay vô thần”. Dù sao thì đây cũng là thời điểm hợp lý để cậu rời bỏ cả anh trai và Boston.42

Truyền thống của những người Mỹ tiên phong là khi cộng đồng của họ trở nên quá tù túng, họ sẽ đi ra nơi biên ải. Song Franklin là một kiểu khác của tinh thần nổi loạn Mỹ. Chốn hoang vu không mời gọi cậu. Thay vào đó, cậu bị thu hút bởi các trung tâm kinh tế mới như New York và Philadelphia, nơi đầy ắp cơ hội để người ta tự làm nên thành công. Có thể John Winthrop* đã dẫn đầu nhóm tín hữu Thanh giáo của ông trong hành trình đến nơi hoang dã; ngược lại, Franklin là một phần của thế hệ mới đã dẫn đầu cuộc hành trình đến các khu phố thị.

Lo sợ anh trai sẽ tìm cách ngăn cản cậu, Franklin nhờ một người bạn bí mật đặt chuyến cho mình trên một con tàu nhỏ tới New York bằng cách bịa ra câu chuyện về một cậu trai cần lẩn trốn vì “tằng tịu với một cô gái xấu tính”, (hoặc như Franklin viết trong một bản thảo trước đó, “lỡ làm một cô gái hư có bầu”). Sau khi bán đi vài cuốn sách để trả tiền vé, cậu bé Franklin 17 tuổi thuận gió ra khơi vào tối thứ Tư ngày 25 tháng 9 năm 1723. Thứ Hai tuần sau, trên tờ Tuần báo New England có đăng một mẩu quảng cáo ngắn gọn với giọng hơi buồn: “James Franklin, chủ nhà in trên phố Queen, cần tuyển một nam thiếu niên có năng lực vào vị trí tập sự.”43