Chương 13 SỨ GIẢ-Paris, 1776-1778-NGƯỜI MỸ NỔI TIẾNG NHẤT THẾ GIỚI
Cuộc vượt biển giữa mùa đông khó nhọc trên con tàu Reprisal, dù chỉ mất 30 ngày, “đã gần như hủy hoại tôi”, Franklin về sau nhớ lại. Thịt bò muối làm mụn nhọt và chứng phát ban của ông tái phát, còn các loại thức ăn khác thì quá cứng với răng của ông. Con tàu chiến nhỏ chao đảo dữ dội đến mức ông hầu như không ngủ nổi. Vì thế khi nhìn thấy bờ biển Brittany, Franklin đã kiệt sức và không muốn đợi các cơn gió đưa ông đến gần Paris hơn mà đã nhờ một chiếc tàu đánh cá đưa ông và hai cháu trai ngơ ngác tới một làng nhỏ ở Auray. Ông viết cho John Hancock, nói rằng, từ giờ đến khi có thể tới Paris bằng xe ngựa, ông sẽ tránh “làm nhân vật của công chúng” và cố gắng ẩn mình, “vì cho rằng, trước hết nên thận trọng xem triều đình có sẵn lòng và sửa soạn đón tiếp các thừa sai công khai đến từ Quốc hội Lục địa không.”1
Tuy nhiên, Pháp không phải là nơi mà người Mỹ nổi tiếng nhất thế giới có thể tìm thấy, cũng như thực sự tìm kiếm, sự vô danh. Khi xe của ông đến Nantes, thành phố tiếp đón ông tại một hội trường lớn được thu xếp vội vã, nơi Franklin lên ngôi như một triết gia - chính khách, và Temple kinh ngạc trước chiều cao của các kiểu tóc được trang trí lộng lẫy của phụ nữ. Sau khi nhìn thấy chiếc mũ lông mềm của Franklin, các quý bà ở Nantes bắt đầu đội những bộ tóc giả bắt chước nó, một phong cách được biết đến với tên gọi kiểu tóc của Franklin.
Với người Pháp, nhà khoa học thách đố sấm sét và vị quan bảo vệ tự do bất ngờ xuất hiện nơi bờ biển của họ là biểu tượng của cả tinh thần tự do đạo đức được Rousseau lãng mạn hóa và cả trí tuệ lý tính của chủ nghĩa khai sáng được Voltaire ủng hộ. Suốt hơn 8 năm, ông sẽ sắm vai này đến tột cùng. Một cách khéo léo và có chủ ý, lên men bằng sự khôi hài và niềm vui sống mà người Pháp rất ưa chuộng, ông thể hiện chính nghĩa của nước Mỹ thông qua cách nhìn riêng của mình về nó như của một nhà nước tự nhiên chống lại một nhà nước tha hóa, của một nhà nước được khai sáng chống lại trật tự cũ bất hợp lý.
Bàn tay ông định đoạt cuộc Cách mạng gần như cũng không kém gì bàn tay Washington và những người khác. Trừ phi ông có thể đảm bảo sự hỗ trợ của nước Pháp - sự công nhận và hải quân của nước này - sẽ rất khó để nước Mỹ giành chiến thắng. Vốn đã là nhà khoa học và cây bút xuất sắc nhất ở Mỹ vào thời đại mình, ông còn bày tỏ sự khôn khéo đã biến ông trở thành nhà ngoại giao Mỹ xuất sắc nhất mọi thời đại. Bằng sự lãng mạn cũng như lý trí, ông làm mê mệt các nhà triết học Pháp; bằng sự hấp dẫn của chủ nghĩa tự do Mỹ, ông lôi cuốn công chúng Pháp - và bằng sự tính toán lạnh lùng về lợi ích quốc gia, ông lay chuyển các bộ trưởng của đất nước này.
Có truyền thống chiến tranh liên miên suốt 440 năm với Anh, Pháp là một đồng minh tiềm năng chín muồi - nhất là vì nó khao khát trả thù vì tổn thất phải chịu trong lần bùng nổ tại Mỹ của các cuộc xung đột này, Chiến tranh Bảy năm. Ngay trước khi lên đường, Franklin biết tin rằng Pháp đã đồng ý gửi một số sự trợ giúp cho các cuộc nổi dậy ở Mỹ một cách bí mật thông qua một tổ chức thương mại biệt lập.
Song thuyết phục Pháp làm gì hơn thế là điều không dễ dàng. Quốc gia này hiện đang mắc kẹt về tài chính, chỉ hòa bình với nước Anh bề ngoài và cẩn trọng một cách dễ hiểu với việc đặt cược lớn vào một đất nước không khác gì kẻ chiến bại sau khi Washington phải vội vã rút lui khỏi Đảo Island. Hơn nữa, cả Louis XVI lẫn các bộ trưởng của ngài về bản chất đều không phải là những người ủng hộ khao khát xóa bỏ chế độ quân chủ cha truyền con nối của nước Mỹ, thứ tỏ ra rất dễ lan truyền.
Trong số các quân bài của Franklin là sự nổi tiếng của ông và việc ông nằm trong một loạt các chính khách - từ Richelieu tới Metternich và tới Kissinger - hiểu rõ rằng sự nổi tiếng sẽ dẫn tới dấu ấn và dấu ấn sẽ dẫn tới tầm ảnh hưởng. Các lý thuyết về sét của ông đã được chứng minh ở Pháp vào năm 1752 và các công trình tổng hợp của ông được xuất bản tại đây vào năm 1773, cùng một phiên bản mới của Đường đến sự giàu có của Richard Nghèo Khổ với nhan đề tiếng Pháp là Khoa học của anh chàng Richard, đã được xuất bản ngay sau khi ông đến và tái bản bốn lần trong vòng hai năm. Ông nổi tiếng tới mức người ta xếp hàng dài trên phố để nhìn cảnh ông tiến vào Paris vào ngày 21 tháng 12 năm 1776.
Trong mấy tuần, toàn bộ thành phố Paris thời trang dường như đều muốn trưng bày diện mạo nhân từ của ông. Các huy hiệu nhiều kích cỡ khác nhau được đúc ra; các tranh khắc và tranh chân dung được treo trong nhà; chân dung của ông được dùng trang trí các hộp thuốc hút và nhẫn ấn. “Con số bán ra thật kinh khủng”, ông viết thư cho con gái Sally. “Các bức tranh, tượng bán thân và ảnh in (cùng các bản sao của chúng lan tràn khắp nơi) đã khiến gương mặt người cha của con nổi tiếng như mặt trăng.” Cơn sốt này đi xa tới mức nó khiến chính nhà vua hơi bực bội dù vẫn thích thú. Ông đã tặng nữ Bá tước Diane de Polignac, người làm ông phiền lòng vì những lời khen bà dành cho Franklin, một chiếc bồn cầu trong nhà bằng sứ Sèvres với hình ký họa của ông chạm trổ bên trong.2
“Sự nổi tiếng của ông ấy có tính phổ cập hơn Leibniz, Frederick hay Voltaire và tính cách của ông ấy cũng được yêu quý và mến mộ hơn”, John Adams nhớ lại nhiều năm sau đó, khi sự ghen tị của chính ông với sự nổi tiếng của Franklin đã hơi lắng xuống. “Hiếm có một nông dân, một thị dân, một cô hầu phòng, một gã đánh xe, một người tớ gái hay một tay phụ bếp nào không quen thân với cái tên Franklin.”3
Nước Pháp thậm chí còn tìm cách nhận ông là của họ. Như đã lưu ý ở đầu cuốn sách này, ông luôn cho là dòng họ mình xuất thân từ một tầng lớp người Anh tự do có sở hữu đất đai, được biết đến như các franklin, và ông gần như chắc chắn mình đúng. Song, Nhật báo Amiens đã trình bày rằng, cái tên Franquelin rất phổ biến ở tỉnh Picardie - và từ đây, đã có rất nhiều gia đình di cư sang Anh quốc.
Nhiều nhóm triết gia Pháp, bên cạnh các môn đệ của Voltaire và Rousseau, cũng đưa ra các yêu sách trí tuệ về ông. Đáng chú ý nhất là các nhà trọng nông, những người đi tiên phong trong lĩnh vực kinh tế học và phát triển học thuyết về tự do kinh tế. Với ông, nhóm này trở thành một Hội kín mới. Ông viết tiểu luận cho một tạp chí xuất bản hằng tháng của họ.
Một trong các nhà trọng nông lừng danh nhất, Pierre-Samuel Du Pont de Nemours (người di cư vào năm 1799 và cùng con trai mình thành lập nên công ty hóa chất DuPont), mô tả người bạn Franklin của mình bằng những từ ngữ gần như huyền thoại. “Đôi mắt ngài biểu lộ sự bình thản hoàn hảo và đôi môi ngài nở nụ cười thanh thản bất di bất dịch”, ông viết. Còn những người khác trầm trồ khi thấy ông ăn mặc giản dị và không đội tóc giả. “Mọi thứ ở ngài toát lên sự giản dị và ngây thơ của đạo đức nguyên thủy”, một thị dân Paris kinh ngạc. Người này cũng thêm một lời khen kiểu Pháp hoàn hảo về tình yêu khoa học của ông: “Ngài biết cách bất lịch sự mà không thô lỗ.”
Sự ít nói và phục trang giản dị khiến nhiều người lầm tưởng ông là một tín hữu Quaker. Một vị linh mục người Pháp đã tường thuật ngay sau khi Franklin đến: “Tín hữu Quaker này mặc nguyên một bộ phục trang của giáo phái mình. Ông ấy có gương mặt đẹp, với cặp mục kỉnh luôn trước mắt, tóc rất thưa và luôn mang một chiếc mũ lông.” Đó là ấn tượng mà Franklin không cố gắng thanh minh vì ông biết sự hấp dẫn của các tín hữu Quaker đang rất thời thượng ở Pháp. Voltaire đã có lời tán dương nổi tiếng về sự giản dị, bình yên của họ trong bốn lá Thư về nước Anh của mình. Như Carl Van Doren nhận xét, “Paris ngưỡng mộ giáo phái này bởi sự ôn nhu mà cương quyết của nó.”4
Franklin hiểu rõ và thích thú với hình ảnh ông tạo ra cho bản thân. Hãy vẽ tôi, ông viết cho một người bạn, “ăn mặc rất giản dị, với mớ tóc thẳng màu xám lơ thơ chồi ra dưới chiếc mũ trùm duy nhất của tôi - một chiếc mũ lông tốt, phủ xuống tới trán, gần như chạm vào cặp kính. Hãy nghĩ xem bộ dạng này sẽ xuất hiện ra sao giữa những mái đầu được rắc bột ở Paris?” Đó là một hình ảnh rất khác so với hình ảnh ông từng chọn và viết cho Polly về nó trong chuyến thăm Pháp lần đầu tiên năm 1767, khi ông mua “một mớ tóc giả dạng túi nhỏ” và để cho thợ may “biến ta thành một người Pháp”.5
Trên thực tế, hình ảnh mộc mạc mới của ông có phần là điệu bộ, là sự sáng tạo khéo léo của người tạo hình ảnh và bậc thầy quan hệ công chúng vĩ đại đầu tiên của nước Mỹ. Ông đội chiếc mũ lông chồn mềm mà ông đã mua từ chuyến đi Canada trong gần như mọi lần xuất hiện trước công chúng, trong đó có lần ông được đón tiếp tại phòng khách văn chương lừng danh của phu nhân du Deffand ngay sau khi ông đến; nó trở thành một đặc điểm trong các bức chân dung và huy hiệu của ông. Cũng như chiếc mũ của Rousseau, chiếc mũ này đóng vai trò là biểu hiệu của ông về sự thuần khiết và đạo đức của Tân Thế giới, cũng như cặp mục kỉnh ông luôn đeo (cũng được thể hiện trong các bức chân dung) đã trở thành biểu tượng của trí tuệ. Hình ảnh này giúp ông diễn tròn vai mà Paris đã mường tượng về ông: một triết gia miền biên giới khiêm nhường và một nhà hiền triết chốn thâm sơn giản dị, dù ông sống gần hết cuộc đời mình ở Phố Chợ và Phố Craven.
Franklin cũng đáp trả lòng mến mộ của người Pháp. Ông viết thư cho Josiah Quincy: “Tôi thấy đây là quốc gia dễ chịu nhất để chung sống... Nhìn chung người Tây Ban Nha tàn nhẫn, người Anh tự phụ, người Scotland xấc láo, người Hà Lan tham lam,... nhưng tôi nghĩ không có tính xấu quốc gia nào gắn với người Pháp. Họ có phần nhẹ dạ, song vô hại.” Như ông đã nói với một người họ hàng ở Boston: “Đây là dân tộc văn minh nhất trên trái đất.”6
TRIỀU ĐÌNH CỦA FRANKLIN Ở PASSYỞ Anh, Franklin đã xây dựng một ngôi nhà ấm cúng với gia đình thứ hai của mình, ở Pháp, ông nhanh chóng tập hợp không chỉ một gia đình mà, cả một triều đình nhỏ. Nó nằm giữa, theo nghĩa bóng và cả về mặt địa lý, những phòng khách Paris và cung điện Versailles - và sẽ lớn dần để không chỉ chứa gia đình thiết yếu mới của ông mà cả đoàn người tới thăm, gồm các ủy viên đồng nhiệm, các vị đại biểu, các gián điệp, các trí thức, những người đưa tin và cả những người phụ nữ ngưỡng mộ, tán tỉnh ông.
Làng Passy, nơi Franklin ngự trị giang sơn của mình, là nơi tụ hợp các biệt thự và lâu đài, cách trung tâm Paris chừng ba dặm, ở ngoài rìa Rừng Boulogne. Một trong những dinh thự đẹp nhất trong số đó thuộc về Jacques-Donatien Leray de Chaumont, một thương gia mới nổi đã làm giàu nhờ buôn may bán đắt ở vùng Đông Ấn và giờ đây có động cơ gắn bó với chính nghĩa của người Mỹ - vì sự cảm thông chân thành cũng như triển vọng lợi nhuận. Ông ta đề nghị sắp đặt phòng ốc và nơi ăn ở cho Franklin cùng đám đông quanh ông, ban đầu không tính phí. Tổ hợp Passy trở thành đại sứ quán đầu tiên của nước Mỹ ở nước ngoài.
Đó là sự xếp đặt hết sức yên bình dành cho Franklin. Ông có một “ngôi nhà đẹp”, một “khu vườn rộng để dạo quanh” và “rất nhiều người quen biết”, ông kể lại với bà Stevenson. Thứ thiếu vắng duy nhất là “sự ngăn nắp, tiết kiệm trong nhà, thứ ngự trị khi ở dưới quyền điều khiền của bà”, ông nói thêm, đưa ra ngụ ý rất hời hợt rằng, ông có thể muốn bà qua Pháp làm người bạn sống cùng nhà với ông lần nữa. Song đó không phải một gợi ý mà ông rất muốn thúc bách vì ông tự thấy khá thoải mái bên tập hợp bạn nữ và những người ở cùng nhà mới. “Cháu chưa bao giờ thấy ông có sức khỏe tốt hơn thế”, Temple viết cho Sally. “Không khí ở Passy và việc tắm nước nóng ba lần mỗi tuần khiến ông như trở lại thời trai trẻ. Sự vui vẻ, mãn nguyện của ông khiến ai cũng phải yêu quý, nhất là các quý bà, những người luôn cho phép ông hôn họ.”
Nhà chính của Chaumont (trên đó Franklin dựng lên một cột thu lôi) nằm giữa một chuỗi lều rạp, những mảnh vườn trang trọng, các bậc thang nghiêm cẩn và một chiếc hồ bát giác trông ra sông Seine. Các bữa ăn tối được phục vụ lúc 2 giờ chiều là các tác phẩm bảy món và Franklin xây dựng một bộ sưu tập rượu, chẳng bao lâu đã chứa tới 1.000 chai champagne và rượu vang Bordeaux. Phu nhân Chaumont dí dỏm đóng vai tiếp viên và con gái lớn nhất của họ trở thành “người đàn bà” của Franklin. Ông cũng rất thích một cô con gái tuổi thiếu nữ của vị trưởng làng, người được ông nhắc tới đầy ao ước là “quý cô” của ông. (Cuối cùng, khi cô cưới hầu tước de Tonnerre, phu nhân Chaumont đã chơi chữ, “Tất cả những cột thu lôi của ông Franklin không thể ngăn nổi sấm sét [trong tiếng Pháp là tonnerre] giáng xuống quý cô (Mademoiselle).”)
Thông qua các bạn làm ăn của mình, Chaumont thâu tóm được nguồn cung ứng cho nước Mỹ, trong đó có diêm tiêu và đồng phục. Bởi ông mô phỏng lời dạy của Richard Nghèo Khổ về việc làm giàu nhờ làm việc thiện, rất nhiều người thắc mắc về động cơ của Chaumont. “Nếu có thể, ông ta sẽ thâu tóm thương mại của 13 thuộc địa cho riêng mình”, một tờ báo viết.7
Chaumont cũng đóng vai trò là người làm quảng cáo cho Franklin. Ông ủy thác cho nhà điêu khắc vĩ đại người Ý Giovanni Battista Nini tạc một loạt huy hiệu Franklin và thuê Joseph-Siffrèd Duplessis, họa sĩ vẽ chân dung nhà vua, thực hiện một bức tranh sơn dầu uy nghi về ông. Tác phẩm của Duplessis mà Franklin ưa thích nhất hiện được treo tại căn phòng trên đỉnh cầu thang lớn của Bảo tàng Đô thị New York (các tác phẩm khác của ông hiện ở Triển lãm chân dung quốc gia Washington và một số nơi khác).
Benny được gửi vào một trường nội trú ở gần đó, nơi cậu nhanh chóng học thông thạo tiếng Pháp. Cậu đến ăn tối với ông ngoại vào các Chủ nhật, thường dẫn theo mấy người bạn Mỹ. Jonathan Williams, một người cháu trai từ Anh mới đến và có lúc được giao trông coi các giao dịch thương mại. Temple sắm vai người đầy tớ rất mực trung thành của Franklin, dù không phải người tuyệt vời. Cậu thành ra có chút ‘dân chơi’ và vẫn chưa làm chủ được đa số trong 13 đức tính mà ông nội cậu đặt ra.
Franklin, người bận bịu vật lộn với các đợt chuyển vũ khí và các giao dịch thương mại phức tạp, luôn cần bất cứ lòng trung thành và sự trợ giúp nào từ phía gia đình mà ông tập hợp được. Ông đâu biết mình đang phải làm việc cùng một đồng nghiệp tham ô, một người khác thì ghét bỏ tất cả mọi người, một thư ký là gián điệp, một đầu bếp biển thủ công quỹ và một chủ nhà mong muốn trở thành kẻ trục lợi.
Trong mớ hổ lốn đó, vị ủy viên tham ô, người thực ra khá hòa nhã và không thiếu trung thực đến vậy, là người Franklin rất quý mến. Silas Deane đến từ Connecticut, đã tới Pháp vào tháng 7 năm 1776, năm tháng trước ông, để giúp thu xếp giùm chuyến hàng hỗ trợ đầu tiên của Pháp. Trong công việc đó, ông ta làm việc với một gã trung gian rất tráo trở: Pierre-Augustin Caron de Beaumarchais, một tài tử ngoại giao, kẻ trục lợi trong tương lai, đồng thời là kịch tác gia nổi tiếng thế giới, vừa mới viết Người thợ cạo thành Seville và sắp viết Đám cưới của Figaro. Cũng giống như Beaumarchais, Deane dường như có thói bớt xén và phương pháp kế toán không thể dò xét. Một năm sau, ông ta đã bị triệu hồi để đối diện với một cuộc kiểm toán của quốc hội và thất bại. Nhưng Franklin vẫn luôn giữ tình bạn với ông ta.
Kẻ thù nghịch lớn trong gánh xiếc này - với Deane và sau đó với Franklin - là ủy viên người Mỹ thứ ba, Arthur Lee đến từ Virginia. Anh ta hồ nghi mọi thứ xung quanh mình đến độ hoang tưởng, một đặc điểm chỉ được chứng tỏ một phần bởi thực tế anh ta đúng trong nhiều vụ việc. Lee đã ganh tị với Franklin từ khi phục vụ ông trong vai trò người đại diện thuộc địa ở London (và tham gia một tổ hợp đề án đất đai kình địch). Cùng với những người anh em của mình, William Lee và Richard Henry Lee, anh ta đứng sau rất nhiều tin tung hỏa mù về lòng trung thành và nhân cách của Franklin.
Ngay sau khi phơi bày thành công, với một số lý giải, các giao dịch đáng ngờ của Deane, Lee bắt tay vào một chiến dịch nghi ngờ Franklin mà không có chứng cứ. “Em ngày càng hài lòng khi biết ông tiến sĩ già có liên quan tới việc biển thủ”, anh ta viết cho anh trai mình. Sau đó, Lee nhận định, lần này có thêm chút chứng cứ, rằng Franklin “hiến dâng cho lạc thú hơn cả một thanh niên ở địa vị của ông ta sẽ làm”.8
Từng nghĩ là Franklin quá mềm mỏng với nước Anh, Lee giờ lại thấy ông quá mềm mỏng với nước Pháp. Anh ta cũng tin là hầu như mọi người ở Passy đều là gián điệp hay kẻ gian và lo sợ tới từng chi tiết, cho đến cả màu sắc của những bộ đồng phục được gửi qua Mỹ và việc Deane chuyển đến phòng gần Franklin hơn.
Có những dịp hiếm hoi, Lee và Franklin đặt nỗi thù oán của họ qua một bên để cùng bàn luận về chính nghĩa chung. Một buổi tối ở Passy, Franklin chiêu đãi Lee bằng việc kể lại thật chi tiết câu chuyện lớn của tháng 7 năm 1776. Lee, người khi đó đang ở London, đã chép lại tất cả trong nhật ký một cách đầy tôn kính. Đó là “một phép lạ giữa các sự vụ của con người”, một điều sẽ dẫn tới “cuộc cách mạng lớn nhất mà thế giới từng chứng kiến”.
Tuy vậy, vào đầu năm 1778, Lee và Franklin hầu như không nói chuyện với nhau. “Tôi có quyền được biết tại sao ngài lại đối xử với tôi như thế”, Lee viết sau khi một loạt thư tín đầy tức giận của anh ta được gửi đi mà không có hồi âm. Franklin buông ra những từ ngữ giận dữ nhất mà người ta từng thấy ông viết ra:
Thưa Ngài: Đúng là tôi đã bỏ lỡ việc trả lời một số thư tín của ngài. Tôi ghét tranh cãi. Tôi già rồi và chẳng còn sống bao lâu nữa. Tôi có nhiều việc phải làm và không có thời gian để cãi vã. Nếu tôi thường xuyên phải nhận và chịu đựng những lời sỉ vả, khiển trách hống hách của ngài mà không hồi âm, và phải gán những nguyên nhân tốt đẹp cho việc đó, tôi lo ngại về vinh dự và thành công của sứ mạng của chúng ta, thứ sẽ bị tổn thương khi chúng ta tranh cãi, về tình yêu hòa bình của tôi, về sự tôn trọng của tôi với các phẩm chất tốt đẹp của ngài và về sự thương cảm của tôi đối với tâm hồn bệnh hoạn của ngài, thứ luôn tự giày vò vì đố kỵ, hoài nghi và ảo tưởng rằng người khác nghĩ xấu về ngài, làm sai với ngài và thiếu tôn trọng ngài. Nếu ngài không tự chữa trị cho mình thái độ đó, rốt cuộc nó sẽ kết thúc trong sự điên rồ - và đây là triệu chứng báo trước mà tôi từng thấy trong nhiều trường hợp. Chúa sẽ bảo vệ ngài tránh khỏi một tội lỗi ghê gớm như thế và vì Chúa hãy cầu nguyện cho tôi được sống trong yên tĩnh.
Cũng như với lá thư giận dữ nổi tiếng khác của ông, lá thư gọi người bạn Strahan của mình là kẻ thù, Franklin đã không gửi lá thư này đi. Mặc dù ông muốn truyền đạt từng từ trong nó, nhìn chung ông ghét tranh cãi, và như ông nhận xét, ông đã quá già để tranh cãi. Thay vào đó, ngày tiếp theo, ông viết cho Lee một bức thư hồi âm nhẹ nhàng hơn một chút. Trong phiên bản chỉnh sửa này, ông một lần nữa thừa nhận mình đã không trả lời một số thư của Lee, “nhất là những lá thư giận dữ của anh, trong đó anh giáo huấn và tra khảo tôi với thái độ rất hống hách, như thể tôi là kẻ ăn người ở trong nhà anh.” Ông nói ông đã đốt các lá thư này đi: “Tôi nhìn thấy trong ánh sáng rõ nhất tầm quan trọng của việc chúng ta nên sống trong sự lễ độ, nhã nhặn với nhau.” Ông than thở với Deane: “Tôi chịu đựng tất cả những lời trách cứ của anh ta bằng lòng kiên nhẫn vì nhiệm vụ chung; nhưng nó trở nên hơi khó khăn với tôi.”9
Lee thu hút những vị khách cùng tư tưởng ghé thăm, và họ tỏ ra cũng khó chịu không kém. William, anh trai của anh ta đã được cử làm đặc sứ tại Áo nhưng vì không được chào đón ở đó nên rốt cục đã tới Paris. Ralph Izard, một chủ đồn điền giàu có và hay đố kỵ ở Nam Carolina, sau khi thấy mình không được chào đón trong vai trò đặc sứ tới Tuscany cũng đã đến đây. Khi Izard đứng về phe nhà Lee, Franklin đã trả đũa bằng một sự mỉa mai ngầm: “Thứ thỉnh cầu của Chữ cái Z, thường được gọi là Ezzard, Zed hay Izard.” Trong thư của mình, Z than thở về việc “bị xếp cuối bảng chữ cái” và “hoàn toàn bị loại bỏ khỏi từ WISE (khôn ngoan).”10
GIÁN ĐIỆP BANCROFTArthur Lee đối xử đặc biệt cay độc với gã thư ký của phái đoàn Mỹ - Edward Bancroft. Bancroft là một nhân vật gây tò mò theo mọi nghĩa của những từ này. Sinh ra ở Massachusetts năm 1744, khi còn nhỏ anh ta được Deane dạy gia sư, sau đó bắt đầu đi làm việc tại một đồn điền ở Guiana ở tuổi 19. Tại đây, anh ta đã viết về các đồn điền nhiệt đới và sáng chế một thứ thuốc nhuộm vải làm từ vỏ cây sồi đen bản địa. Năm 1767, ở tuổi 23, Bancroft chuyển sang London, nơi anh ta trở thành một thầy thuốc và nhà đầu cơ chứng khoán. Ở đây anh ta kết thân với Franklin, người đã tài trợ để anh ta được bầu vào Hội Hoàng gia và trả tiền để anh ta thu thập tin tức về giới lãnh đạo nước Anh. Khi Deane chuẩn bị tới Pháp vào tháng 3 năm 1776, ông ta được Franklin chỉ thị “tìm cách hẹn gặp Bancroft bằng cách viết một bức thư cho anh ta, ngụy trang là thư gửi tới Ông Griffiths ở Turnham Green gần London và đề nghị anh ta đến gặp.” Bancroft sang Paris vào tháng Bảy, cùng lúc với Deane, và bắt đầu làm việc cho vị gia sư cũ.11
Khi Franklin đến muộn hơn cùng năm đó, ông phân công Bancroft làm thư ký của phái đoàn. Điều ông không biết (và các sử gia chỉ phát hiện một thế kỷ sau, khi lật các hồ sơ mật trong văn khố London) là: Bancroft mới đây đã bắt đầu làm việc như một mật vụ Anh rất tích cực.
Vào năm 1777, mật vụ Anh chi ngân sách gần 200.000 bảng mỗi năm để thu thập tin tức tình báo. Cơ quan này do một người đàn ông khôn lanh tên là William Eden, về sau là ngài Auckland, điều hành. Chăm lo các hoạt động của ông ta tại Pháp là một người gốc New Hampshire, Paul Wentworth. Paul chuyển tới London từ thập niên 1760 và kiếm tiền bằng việc đầu cơ chứng khoán và mua đất ở Tây Ấn và Nam Mỹ, trong đó có đồn điền ở Guiana nơi chàng trai trẻ Bancroft làm công việc của một nghiên cứu viên y học.
Đến lượt mình, Wentworth lại thuê Bancroft làm một trong số nhiều điệp viên của ông ta ở Paris. Vào tháng 12 năm 1776, họ ký kết một thỏa thuận chính thức: Bancroft sẽ dùng mật danh sơ sài: “bác sĩ Edward Edwards”. “Bác sĩ Edwards tiến hành liên lạc với P. Wentworth để trao bất cứ thông tin gì thu thập được về các chủ đề sau”, biên bản bắt đầu. Sau đó là 10 đoạn liệt kê chi tiết các thông tin mà Bancroft sẽ cung cấp, trong đó có:
Sự tiến triển của hiệp ước với Pháp và về các khoản hỗ trợ kỳ vọng… Tương tự với Tây Ban Nha và mọi triều đình khác ở châu Âu... Phương cách kiếm được tín dụng, ảnh hưởng và tiền bạc mà các kênh và các đặc vụ dùng... Mối liên lạc bí mật giữa Franklin và Deane với Quốc hội lục địa... Bản mô tả các tàu và các lô hàng, thời gian khởi hành và cảng đi, cảng đến... Những tin tình báo có thể đến từ Mỹ.
Hàng tuần, anh chàng Bancroft thân thiện và tao nhã cung cấp các báo cáo bí mật của mình bằng văn bản viết với mực không màu, giữa các dòng chữ của những lá thư tình giả. Lãnh đạo cơ quan mật vụ Anh sẽ dùng thuốc tẩy hóa chất đặc biệt làm hiện rõ các nét chữ. Bancroft đặt các thư tín trong một cái chai với một sợi dây gắn vào, bỏ nó vào một hốc cây gần bãi sân phía nam của Vườn Tuileries vào lúc 9 giờ 30 phút mỗi tối thứ Ba, chúng sẽ được một người đưa tin đến từ đại sứ quán Anh nhận. Các hướng dẫn cho việc bỏ thư rất rõ ràng: “Cái chai phải được niêm phong, buộc ở cổ với một loại sợi thông thường, dài khoảng 45 cm, đầu kia buộc chặt vào một cây cọc gỗ... cọc cắm xuống đất, về phía tây.” Vì sự phục vụ của mình, ban đầu anh ta được trả 500 bảng mỗi năm, nhưng anh ta làm việc tốt đến mức thù lao được tăng lên 1.000 bảng, đó là chưa kể 1.000 bảng mỗi năm anh ta nhận được từ việc làm thư ký cho phái đoàn Mỹ của Franklin. Bancroft còn kiếm được rất nhiều tiền bên ngoài bằng cách dùng thông tin nội bộ để đầu cơ trên thị trường chứng khoán.12
Hàng trăm báo cáo bí mật mà Bancroft gửi sang Anh chứa đầy thông tin nhạy cảm về các giao dịch của người Mỹ tại Passy, cuộc thảo luận họ tổ chức với các bộ trưởng Pháp, kế hoạch của các đợt chuyển vũ khí sang Mỹ và các vấn đề quân sự khác. Thí dụ, anh ta tiết lộ về chuyến đi Mỹ của Lafayette vào tháng 4 năm 1777, liệt kê tên các sĩ quan Pháp tháp tùng ông và tiết lộ rằng ông lên đường từ cảng San Sebastian của Tây Ban Nha và “hướng thẳng tới Cảng Royal, Nam Carolina”. Bancroft cũng cảnh báo rằng, người Pháp đang “ra lệnh cho 8 tới 10 tàu chiến bảo vệ cho hoạt động mậu dịch của các thuộc địa gần bờ biển nước Pháp và loại bỏ các tàu tuần dương Anh”. Tháng 9 năm 1777, anh ta cho biết thêm “4 chiếc tàu chiến khởi hành từ Toulon để gia nhập Hạm đội Brest”. Năm sau đó, tháng 4 năm 1778, anh ta gửi tin cho biết vị đô đốc Pháp, Bá tước d’Estaing, đang khởi hành từ Toulon để tham gia dự nỗ lực chiến tranh của người Mỹ “và chỉ huy một hạm đội gồm 17 tàu chiến tuyến và tàu chiến hòng phá hủy hoặc cầm chân hạm đội Anh”. Trong thư của anh ta vào tuần sau, Bancroft tiết lộ: “Hạm đội Brest gần như đã sẵn sàng” và lưu ý về khả năng “Bá tước Broglio [một nguyên soái hải quân Pháp có tiếng] sắp tiến hành một cuộc xâm lược nước Anh”.13
Franklin và Deane hoàn toàn tin tưởng Bancroft đến mức họ thường để anh ta đi riêng tới London để thu thập thông tin tình báo ở đây. Anh ta lợi dụng những chuyến đi này để truyền đạt một số tin gián điệp nhạy cảm nhất của mình tới người Anh, và sau đó trở về với thông tin có vẻ có giá trị nhưng thực tế được các sếp tình báo của anh ta đặt ra. Người Anh có ý thức giữ vỏ bọc của anh ta đến mức, trong một chuyến đi sang London vào tháng 3 năm 1777, họ giả vờ bắt anh ta và hạ ngục một thời gian ngắn vì tội làm gián điệp cho nước Mỹ. “Bác sĩ Bancroft bị bắt ở London vì liên hệ và hỗ trợ cho chúng ta”, Deane rối trí báo tin cho Quốc hội Lục địa, sau đó ông nói thêm: “Tình cảm của tôi đối với bác sĩ Bancroft lớn hơn những gì tôi có thể bộc lộ.” Nhờ một thứ như thể là phép lạ, Bancroft được thả sau vài tuần và được phép trở lại làm việc tại Passy.14
Arthur Lee sớm bắt đầu nghi ngờ lòng trung thành của anh ta. “Các ngài hẳn rất rõ đặc tính nổi tiếng của bác sĩ Bancroft như một nhà môi giới chứng khoán”, Lee viết thư cho Franklin và Adams sau khi biết Bancroft đã được phái đi thực hiện một nhiệm vụ bí mật khác tại London vào tháng 2 năm 1779. “Các vị hẳn không lạ gì việc anh ta công khai sống trong sự thách thức lễ nghi và tôn giáo, cũng như sự thù địch của anh ta với tôi.” Nghiêm trọng hơn, Lee trích dẫn các tài liệu chỉ ra Bancroft là gián điệp: “Tôi coi bác sĩ Bancroft là một kẻ tội phạm với nước Mỹ và có bằng chứng trong tay.”
Bởi vì Lee hoang tưởng về hầu như tất cả mọi người, những hoài nghi của anh ta nhìn chung đã bị bỏ qua. Tuy vậy, Lee không đủ hoang tưởng để nhận ra chính thư ký riêng của anh ta cũng là gián điệp. Trong số các tài liệu bị chôn vùi trong Thư viện Anh quốc có bản sao bí mật của hơn một tá các lá thư nhạy cảm nhất của Lee và tin nhắn thông báo cho lãnh đạo mật vụ Anh biết nội gián của họ “đã đánh cắp nhật ký của Lee và sao chép thông tin”.15
Qua toàn bộ sự việc này, Franklin vẫn lạc quan về khả năng có gián điệp trong nội bộ, dù sau khi ông tới không bao lâu, ông đã nhận được lời cảnh báo từ một phụ nữ thận trọng gốc Philadelphia, khi đó sống ở Paris. “Ngài sẽ bị lũ gián điệp vây quanh, họ theo dõi nhất cử nhất động của ngài,” bà ta viết. Với nhãn quan thiên về tán dương các đức tính của mình hơn là giải quyết vấn đề, ông gửi cho người này một thư phúc đáp nổi tiếng:
Lâu nay tôi đã tuân thủ một nguyên tắc có thể ngăn bất kỳ sự bất tiện nào từ những âm mưu như thế. Nó chỉ đơn giản thế này: không dính líu tới việc gì mà tôi cảm thấy xấu hổ khi phải làm công khai và không làm việc gì để những kẻ gián điệp có thể thấy và chào đón. Khi hành động của một người là công chính và đáng kính trọng, nếu càng được biết đến thì uy tín của anh ta càng gia tăng và vững chắc. Vì thế, tôi dám chắc nếu người hầu cận của tôi là gián điệp, mà việc đó cũng có thể lắm, tôi nghĩ tôi không nên sa thải anh ta vì việc đó, khi về các khía cạnh khác, tôi thích anh ta.16
Ở một mức độ, câu trả lời của Franklin thật ngây thơ vì sự phản bội của Bancroft khiến các tàu chiến bị đe dọa. (Dù về sau không có bằng chứng nào cho thấy có thiệt hại trực tiếp: Lafayette lên đường an toàn, quân Anh không thể hành động đủ nhanh để chặn đường d’Estaing đi qua Eo biển Gibraltar, và Broglio không xâm lược nước Anh.) Tuy nhiên, ở một mức độ khác, Franklin rất khôn khéo vì rốt cuộc ông sẽ dùng giả định có gián điệp vây quanh để kích người Anh tranh giành với người Pháp khi các cuộc đàm phán quan trọng bắt đầu.
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA LÝ TƯỞNGBộ trưởng Ngoại giao Pháp, Bá tước de Vergennes, là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, ăn mặc xuề xòa, đẫy đà và không biết giả bộ. Song theo lời Susan Mary Alsop, tác giả Những người Mỹ ở triều đình, một bức chân dung vui tươi về thời kỳ này, “ông là một người nhân ái, tình cảm và sắc sảo trong việc đánh giá tính cách người khác”. Thực tế, ông vừa tình cảm vừa sắc sảo trong khi giao tiếp với Franklin. Vergennes chưa từng được chấp nhận hoàn toàn về mặt xã hội trong triều đình của vua Louis XVI bởi vợ ông có xuất thân tư sản, nhưng ông ngưỡng mộ những đức tính hợp lý của tầng lớp trung lưu ở bà và có lẽ cũng thấy chúng dễ chấp nhận ở Franklin.17
Vergennes rất thực tế trong khi nhìn nhận về quan hệ quốc tế, một quan điểm mà ông tóm tắt rõ ràng vào năm 1774 khi tuyên bố: “Tầm ảnh hưởng của mỗi cường quốc được đo bằng sự đánh giá của nó về sức lực nội tại.” Ông cũng là người nhiệt tình chống Anh, điều đó khiến ông cảm thông hơn với chính nghĩa của nước Mỹ.
Vào mùa xuân năm 1776, ngay trước khi Franklin tới, Vergennes đã soạn cho nhà vua một bộ các đề xuất, tranh luận bằng ngôn ngữ không chút bóng bẩy về chính sách mà nước Pháp nên theo đuổi: “Anh là kẻ thù tự nhiên của Pháp và đó là một kẻ thù luôn thèm khát, đầy tham vọng, không ngay thẳng, đầu óc xấu xa; mục tiêu lâu dài được nước Anh trân trọng là sỉ nhục và hủy hoại nước Pháp.” Ông nói rằng, nước Mỹ cần sự giúp đỡ của Pháp để chiến thắng. Nước Pháp có quyền lợi cả về kinh tế và chính trị khi cố gắng làm què quặt nước Anh thông qua việc nâng đỡ quốc gia mới này. Ông trình các đề xuất này cho Louis XVI và nội các của ngài (trong đó có bộ trưởng tài chính Anne-Robert-Jacques Turgot, người về sau trở thành bạn hữu và người hâm mộ Franklin) tại Phòng Hội đồng dát vàng của cung điện Versailles.
Turgot và các bộ trưởng khác lo lắng về tình hình tài chính eo hẹp và sự thiếu chuẩn bị của nước Pháp, vì thế họ kêu gọi cẩn trọng. Nhà vua tán đồng một sự thỏa hiệp: nước Pháp sẽ hỗ trợ phần nào đó cho nước Mỹ, song phải thật bí mật. Quyết định được đưa ra là, thư từ về vấn đề này của Vergennes sẽ được cậu con trai 15 tuổi của ông chép lại, vì chữ viết của cậu sẽ không thể bị nhận dạng nếu chúng rơi nhầm vào tay người khác.
Franklin gặp Vergennes lần đầu vào cuối năm, ngày 28 tháng 12 năm 1776, trong một phiên họp bí mật ở Paris - chỉ vài ngày sau khi ông đến. Cùng với Deane và Lee ở kề bên, Franklin thúc đẩy mạnh mẽ và có phần quá sớm một liên minh với nước Pháp. Vị bộ trưởng ngoại giao ca ngợi Franklin về kiến thức và trí tuệ của ông, song không đưa ra bất cứ cam kết nào ngoài việc nói rằng, ông sẽ xem xét một bản ghi nhớ về vấn đề này nếu Franklin muốn viết. Trong các ghi chép tối hôm đó, ông mô tả Franklin là người thông minh nhưng thận trọng và trong một lá thư gửi cho đại sứ của mình tại London, ông nhận xét: “Ông ấy nói chuyện nhẹ nhàng và trung thực, tỏ ra là người có tài năng lớn.”19
Franklin chấp thuận đề xuất của Vergennes về việc viết một bản ghi nhớ - trong đó ông nhấn mạnh phép tính cân bằng quyền lực thực dụng mà ông biết vị bộ trưởng người Pháp sẽ đánh giá cao. Nếu Pháp và Tây Ban Nha, đồng minh của mình, cùng tham gia với Mỹ, nước Anh sẽ mất các thuộc địa, các lãnh địa ở Tây Ấn và “hoạt động thương mại đã khiến nó trở nên giàu có”, bởi thế nó sẽ bị thu hẹp thành “một nước yếu đuối và đáng xấu hổ.” Mỹ sẵn sàng “đảm bảo theo cách thức chắc chắn nhất” rằng Pháp và Tây Ban Nha có thể giữ bất cứ hòn đảo ở Tây Ấn nào mà nước Anh đánh mất. Nhưng nếu nước Pháp ngần ngại, khi đó nước Mỹ có thể bị “dồn ép đến mức cần phải kết thúc chiến tranh bằng cách điều đình với” nước Anh. “Sự trì hoãn có thể dẫn đền những hậu quả chết người.”20
Song Franklin biết rằng đưa ra phép tính toán lợi ích lạnh lùng chỉ là một phần của phương trình. Hơn hầu hết các nhà ngoại giao khác trong lịch sử nước Mỹ, ông hiểu sức mạnh của nước Mỹ trong quan hệ quốc tế đến từ một sự kết hợp độc đáo giữa chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực. Khi được đan cài vào nhau, như về sau chúng được đan cài trong các chính sách từ thuyết Monroe cho đến kế hoạch Marshall, chúng là nền tảng của một chính sách đối ngoại đàn hồi. “Các giây phút lịch sử vĩ đại của nước Mỹ”, sử gia Bernard Bailyn viết, “đã xảy ra khi chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lý tưởng được kết hợp, và không ai biết điều này rõ hơn Franklin.”21
Như ông chứng tỏ tại Pháp, Franklin không chỉ biết chơi trò chơi cân bằng quyền lực có tính toán như thể một nhà thực hành chính sách ngoại giao thực dụng giỏi nhất, mà ông còn biết chơi bằng tay kia các hợp âm nồng nhiệt của chủ nghĩa cá biệt Mỹ. Ông nhận thức được rằng, nước Mỹ sẽ đứng biệt lập với phần còn lại của thế giới nhờ bản chất đạo đức của nó. Cả quyền lực cứng đến từ sức mạnh chiến lược lẫn quyền lực mềm bắt nguồn từ sự hấp dẫn của lý tưởng và nền văn hóa Mỹ có tầm quan trọng như nhau trong việc đảm bảo sức ảnh hưởng của nó. Trong sự nghiệp ngoại giao cũng như công việc cá nhân, Franklin là “người tin vào sức mạnh của lý trí và tính thực tế của đạo đức”, nhà văn và nhà toán học Condorcet, một trong những người bạn Pháp thân nhất của ông, khẳng định.
Bởi vậy, sau khi viết cho Vergennes một bản ghi nhớ đầy chất hiện thực của ngoại giao truyền thống, Franklin ở lại Passy đề tìm cách mở đường cho cuộc tìm kiếm sức mạnh từ chủ nghĩa lý tưởng của nước Mỹ. Ông nỗ lực để đưa các tài liệu đầy cảm hứng ra khỏi nước Mỹ, trong đó có bản hiến pháp ông viết cho Pennsylvania. Chúng được dịch và xuất bản sao cho có thể chiếm trọn trái tim và tâm trí của nước Pháp và cả những nơi khác. “Tất cả châu Âu đều dành cho chúng ta”, ông viết cho ủy ban Thông tấn Bí mật của Quốc hội Lục địa trong một lá thư giải thích lý do ông xuất bản các tài liệu này. Sau đó ông tiếp tục đưa ra một công thức kinh điển về sự cám dỗ của các lý tưởng Mỹ: “Bạo quyền nhìn chung đã ăn sâu ở phần còn lại của thế giới, đến mức viễn cảnh về một nơi ẩn náu tại Mỹ đem lại niềm vui chung cho những ai yêu tự do - chính nghĩa của chúng ta được xem như chính nghĩa của nhân loại.” Ông kết thúc bài viết bằng việc nhắc lại ẩn dụ “thành phố trên ngọn đồi” lấp lánh của những nhà ngoại lệ chủ nghĩa Mỹ vĩ đại từ John Winthrop đến Ronald Reagan. “Chúng ta đang chiến đấu cho nhân phẩm và hạnh phúc của nhân loại”, ông tuyên bố. “Vinh quang thay cho nước Mỹ vì đã được Thiên Chúa trao cho vị trí danh dự này.” Vài tuần sau, ông viết với mạch cảm xúc tương tự cho một người bạn ở Boston, kết luận rằng: “Nhận thức chung ở đây là, chính nghĩa của chúng ta là chính nghĩa của nhân loại và trong khi đấu tranh cho tự do của chính mình, chúng ta cũng đấu tranh cho tự do của nhân loại.”22
Chính sách ngoại giao công khai của Franklin khiến Vergennes bối rối. “Tôi thật sự không biết Franklin ở đây để làm gì”, ông viết. “Lúc đầu, chúng ta nghĩ rằng ông ấy có đủ loại kế hoạch, nhưng rồi ông ấy bất ngờ khép mình trong tháp ngà với các triết lý.” Vị bộ trưởng người Pháp từ chối lời đề nghị liên minh ngay lập tức, chuyển hướng các lời đề nghị thành các cuộc gặp kéo dài và giữ khoảng cách với Franklin suốt vài tháng, đợi xem cuộc chiến tiến triển tới đâu. Tuy vậy, ông đã lặng lẽ đồng ý đưa ra một vài sự hỗ trợ: Pháp sẽ cho Mỹ vay thêm một khoản tiền bí mật và cho phép thương nhân Mỹ sử dụng các cảng biển của nước này.
Như cách ông đã làm ở nước Anh, Franklin cũng tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng của mình với vài bài viết ẩn danh trên báo. Mạnh mẽ nhất là một bài viết châm biếm sâu cay, ngang hàng với Một sắc lệnh của nhà vua xứ Phổ, được ông viết ít lâu sau khi gặp Vergennes. Nội dung của nó là một bức thư của một vị bá tước người Đức viết cho viên chỉ huy các đoàn quân Hessia ở Mỹ. Vị bá tước được nhận một khoản tiền thưởng khi mỗi người lính mà ông ta gửi qua Mỹ hy sinh. Vì nước Anh quyết định không trả tiền cho các binh sĩ bị thương mà chỉ trả cho những người tử trận, ông ta liền khuyến khích viên chỉ huy đảm bảo có nhiều người chết nhất có thể:
Tôi nói điều này không có nghĩa là ông nên ám sát họ. Chúng ta nên nhân đạo, Nam tước thân mến, song ông có thể nói bóng gió với các bác sĩ phẫu thuật một cách thật thích đáng rằng khi có một bệnh nhân tàn phế, đó là một nỗi sỉ nhục đối với nghề nghiệp của họ và không có cách nào khôn ngoan hơn cách để một người chết đi khi anh ta không còn phù hợp để chiến đấu... Nhờ cách đó, ông đang hứa hẹn tưởng thưởng cho những người dám dấn thân và khuyến khích họ tìm kiếm vinh quang giữa chốn hiểm nguy.
Ông cũng sử dụng sự khôi hài của mình để giễu nhại những báo cáo tuyên truyền đang được đại sứ Anh, Ngài Stormont, truyền bá. Khi được hỏi về một trong các báo cáo này, Franklin đáp lại: “Đó không phải sự thật; đó chỉ là Stormont.” Về sau, ông và dân Paris sành điệu bắt đầu dùng tên của đại sứ Anh như một động từ “stormonter”, một sự chơi chữ nhẹ dựa trên động từ mentir trong tiếng Pháp, có nghĩa là “dối trá”.23
Các tin đồn vu vơ về rất nhiều chiến lược và kế hoạch của Franklin ở Pháp bắt đầu lan truyền đi. Một gián điệp người Anh (không phải Bancroft) trình báo rằng, Franklin đang chuẩn bị “gương phản chiếu với số lượng lớn”, đặt dọc bờ biển Calais nhằm tập trung nhiệt độ mặt trời vào hải quân Anh hòng tiêu diệt nó. Theo sau sẽ là một cú sốc điện nhẹ truyền qua một chuỗi kênh chéo, phá vỡ toàn bộ đảo quốc Anh. Nhật báo New Jersey còn đi xa hơn khi đưa tin Franklin đang sáng chế một thiết bị điện có thể dịch chuyển các lục địa cùng một phương thức dùng dầu làm lặng sóng ở vùng này và khuấy động bão tố ở vùng khác.24
Chúa ơi, những gì ông thực sự đang làm thì trần tục hơn - thí dụ đối phó với những lời nài nỉ từ những người châu Âu tìm kiếm sự ủy thác để được làm sĩ quan trong quân đội Mỹ. Ông tập hợp những lá thư bế tắc với các lời đề nghị như thế, hơn bốn trăm cả thảy - một số can đảm, và một số khác vô vọng. “Không ngày nào trôi qua mà tôi không có rất nhiều cuộc viếng thăm, bên cạnh những lá thư kêu nài”, ông than thở. “Ông không thể có ý niệm tôi bị hành hạ như thế nào”. Một người mẹ nguyện dâng lên ba trong số các con trai của bà ta, một bác sĩ phẫu thuật ở Hà Lan muốn nghiên cứu các cơ thể đã bị tan xác và một tu sĩ dòng Biển Đức hứa sẽ cầu nguyện cho nước Mỹ nếu nó giúp ông ta trả những món nợ cờ bạc. Lá thư yêu thích của Franklin là một lá thư gần như giãi bày tâm sự từ một người mẹ mà ông nhận được. Nó mở đầu như sau: “Thưa ngài, nếu ở nước Mỹ của ngài có ai biết bí quyết để cải tạo một đối tượng đáng ghét từ lâu đã là nỗi đau khổ của cả gia đình cậu ta...”
Trường hợp của một người năn nỉ như thế cho thấy khó khăn của Franklin trong việc nói lời từ chối đã biến ông trở thành người cả nể. Một người Ireland làm việc ở Paris có tên William Parsons đã gửi cho Franklin một lá thư đầy thương tâm, mô tả hoàn cảnh bất hạnh của mình và xin gia nhập quân đội Mỹ. Franklin không viết thư giới thiệu cho anh ta mà cho anh ta vay 15 đồng guinea. Sau đó, Parsons bỏ trốn sang Anh, để lại người vợ khốn khổ. Khi người vợ viết cho Franklin một lá thư buồn bã, kết tội ông vì đã khiến chồng cô ta bỏ đi, Franklin chối rằng ông không hề khuyến khích anh ta ra đi. Ông viết một giấy nợ 15 guinea và gửi kèm 1 guinea để người vợ có tiền mua thức ăn. Suốt ba tháng sau đó, cô ta tiếp tục làm phiền ông với những lời xin xỏ sự giúp đỡ thêm.
Không phải tất cả những kẻ xin xỏ đều là hạng ma cà bông. Franklin cũng chọn được trong số những người tìm kiếm sự nhờ cậy một số ít sĩ quan để tiến cử: Hầu tước de Lafayette, Nam tước von Steuben (cấp bậc trong quân đội Phổ của anh ta đã được Franklin thổi phồng vì ông rất nhiệt tình muốn Tướng Washington thu nhận anh ta), và Bá tước Pulaski, một chiến binh Ba Lan nổi tiếng, về sau trở thành một viên thiếu tướng anh hùng của nước Mỹ. Tuy vậy, Washington nhanh chóng trở nên bực bội về số sĩ quan đầy khao khát mà Franklin gửi sang. “Các quân đoàn của chúng ta đã được thành lập và biên chế đầy đủ, mỗi người mới qua chỉ gây thêm bẽ bàng cho Quốc hội và cho chính tôi, cũng như thất vọng, tủi nhục cho chính quý ông đó”, ông viết.
Vì thế Franklin đã gắng từ chối hầu hết những người tìm kiếm sự nhờ cậy hoặc chỉ cấp cho họ những lá thư với những lời lẽ như “tự bỏ chi phí đi lại, trái với lời khuyên của tôi.” Để đối phó với tình trạng thường xuyên ngập lụt trong những lời đề nghị hoặc để đơn thuần trêu chọc họ, Franklin thậm chí còn soạn ra một mẫu thư và cho in ra. “Người mang thư này, kẻ sắp sửa sang Mỹ, thúc ép tôi viết cho anh ta một bức thư giới thiệu dù tôi chẳng biết gì về anh ta, kể cả cái tên cũng không.” “Tôi phải giới thiệu người này với ngài vì đức tính và phẩm chất của anh ta, những thứ chắc chắn chỉ anh ta mới biết rõ hơn tôi.”
Vào tháng 9 năm 1777, Franklin và các ủy viên đi cùng đến để thúc giục Vergennes một lần nữa về sự công nhận của người Pháp. Và như thể để che giấu sự yếu thế của mình, họ đề nghị một sự hỗ trợ gấp bảy lần những gì đã nhận được. Đây là một cuộc gặp tốt lành bởi hai lý do. Trước khi nó diễn ra, gián điệp Bancroft đã tiết lộ cho đại sứ Stormont các chi tiết lời đề nghị được dự trù. Stormont phản đối nó với Vergennes, người khi đó đang nhiếc móc Mỹ vì quá thiếu phòng bị. Chưa kể, ngay sau cuộc gặp, có những tin tức được truyền về Anh cho biết Tướng Howe đã chiếm được Philadelphia.
Chiến thắng của Howe là một cú đòn đối với cá nhân Franklin. Ngôi nhà của ông trên Phố Chợ bị một đại úy người Anh tên là John André sung công. Khi nhà Bache về lánh nạn ở vùng quê, người này đã ăn trộm các thiết bị điện, sách vở, nhạc cụ và một bức chân dung lịch lãm của ông do Benjamin Wilson vẽ từ năm 1759. (Nó được nước Anh trả lại vào năm 1906 và hiện được treo trên tầng hai của Nhà Trắng.)
Với nước Mỹ, đây có nguy cơ là một đòn tồi tệ hơn nữa. Howe chiếm Philadelphia và Tướng Burgoyne đang xuôi về Hudson. Nếu hai cánh quân Anh hội lại với nhau, New England sẽ bị chia cắt khỏi các thuộc địa còn lại.
Tuy thế, Franklin vẫn giữ được sự bình thản của ông. Khi được kể về chiến thắng của Howe, ông đáp: “Anh đã hiểu sai vấn đề. Thay vì Howe chiếm Philadelphia, thật ra Philadelphia đã bắt được Howe”. Ở một chừng mực, đây dường như là một nhận xét thiếu nghiêm túc. Ở chừng mực khác, đây là một đánh giá sắc sảo. Nếu Burgoyne bị chặn lại trong quá trình tiến xuống Hudson và nếu Howe không đẩy nhanh việc bắc tiến để tiếp ứng cho ông ta, cả hai cuối cùng sẽ bị cô lập.
Arthur Lee muốn dùng tình thế bấp bênh của Mỹ để đưa ra tối hậu thư cho nước Pháp: hoặc họ ngay lập tức tham gia liên minh quân sự với Mỹ, hoặc Mỹ sẽ buộc phải giảng hòa với nước Anh. “Tiến sĩ Franklin có quan điểm khác”, Lee ghi lại trong nhật ký. Franklin lập luận: “Hiệu ứng của một tuyên bố như thế có thể khiến họ bỏ rơi chúng ta trong thất vọng và giận dữ.” Ông cảm thấy Mỹ cuối cùng sẽ đạt một vị thế mà Pháp muốn liên minh vì lợi ích của chính nó.
Ông hoàn toàn đúng. Ít lâu sau, vào chiều ngày 4 tháng 12, một người đưa tin từ Mỹ phi nước đại vào sân mang theo tin tức từ mặt trận. Franklin hỏi liệu anh ta đã biết tin Philadelphia thất thủ hay chưa. “Rồi, thưa ngài!” người đưa tin nói. Franklin liền quay lưng lại.
“Nhưng thưa ngài, tin tức của tôi còn tuyệt vời hơn thế”, vị sứ giả nói. “Tướng Burgoyne và toàn bộ đội quân của ông ta đã trở thành tù binh!” Burgoyne đã bại trận ở Saratoga và giờ đây Howe đang thật sự bị cô lập.26
Nhà viết kịch đầy kịch tính Beaumarchais, người vô tình có mặt ở Passy vào hôm đó, đã háo hức dùng tin tức nội bộ để đầu cơ vào thị trường chứng khoán; ông ta vội vã về lại Paris với tốc độ nhanh đến mức xe ngựa của ông ta bị lật, khiến ông ta gãy tay. Bancroft cũng lập tức ra đi, hướng về London để tham vấn với các lãnh đạo mật vụ của mình (anh ta hẳn cũng muốn đầu cơ, song tin tức này đến London sớm hơn anh ta).
Franklin bình tĩnh hơn những người bạn lạ lùng của mình. Ông đã viết một thông cáo với rất ít chi tiết và rất nhiều sự phóng đại: “Thư từ Philadelphia tới nhà của Tiến sĩ Franklin ở Passy sau 34 ngày. Ngày 14 tháng 10, tướng Burgoyne đã bị buộc phải hạ vũ khí, 9.200 người bị giết hoặc bị bắt làm tù binh... Tướng Howe hiện giờ bị cầm tù ở Philadelphia, mọi liên lạc với ông ta đều bị cắt đứt.”
Thực tế, Howe không bị bắt và nước Mỹ cũng không hề ở bên bờ chiến thắng. Tuy thế, việc quân đội Anh đầu hàng ở Saratoga là bước ngoặt lớn trên chiến trường và - bởi Franklin biết sức mạnh trên chiến trường tương quan với sức mạnh trên bàn đàm phán - nó cũng là bước ngoặt lớn cho các nỗ lực ngoại giao của ông. Tin nhắn ông viết cho Vergennes chiều hôm đó kiềm chế hơn thông cáo báo chí kia. Nó mở đầu như sau: “Chúng tôi vinh dự báo cho ngài tin tức về việc chinh phục hoàn toàn lực lượng dưới quyền Tướng Burgoyne.”
Hai ngày sau, từ thư phòng tại Cung điện Versailles, Louis XVI đã ra chiếu chấp thuận trên một tờ giấy có viền mạ vàng được Vergennes chuẩn bị sẵn. Nhà vua mời gọi người Mỹ trình lại đề nghị thiết lập liên minh chính thức. Khi đưa tin đó, thư ký của Vergennes nói thêm, “việc này có thể xong kịp thời”.27
CÁC HIỆP ƯỚC CỦA TÌNH BẠN VÀ LIÊN MINHSau một năm ròng trốn tránh các đề nghị liên minh, khi năm 1777 gần kết thúc, người Pháp đột nhiên hết kiên nhẫn. Họ được khích lệ không phải chỉ bởi chiến thắng ở Saratoga của người Mỹ và sự hoàn tất chương trình tái vũ trang cho hải quân của họ, mà còn bởi một nước cờ mới của Franklin. Ông bắt đầu để hai nước Pháp và Anh đối chọi nhau, khiến mỗi bên nhận ra mức độ nhiệt tình đi tới thỏa thuận của bên kia. Đây cũng là lúc ông dựa vào các gián điệp mà ông biết luôn ở quanh mình.
Vào ngày 7 tháng 12, Franklin viết một đề xuất mới cho liên minh Pháp - Mỹ, và Temple chuyển nó vào ngày hôm sau. Trong vòng một tuần, ba ủy viên người Mỹ đã hội kiến Vergennes. Pháp nhanh chóng đồng ý công nhận hoàn toàn nước Mỹ cùng các hiệp ước liên minh và mậu dịch. Nhưng có một điều kiện: Pháp cần sự đồng tình của Tây Ban Nha, vì vào năm 1761, trong các hiệp ước của nhà Bourbon, hai quốc gia đã cam kết hành động phối hợp. Vergennes đã cử sứ giả sang Madrid và hứa với phía Mỹ rằng họ sẽ có hồi âm sau ba tuần.
Lúc này, người Anh phái tới Paris đặc sứ tin cẩn nhất của họ, Paul Wentworth, người đứng đầu cơ quan mật vụ đầy năng lực. Cũng khi đó, Wentworth tức giận với điệp viên bí mật của mình vì dám gửi các thông tin nội bộ cho đối tác đầu cơ chứng khoán trước khi gửi cho ông ta (vốn cũng là một nhà đầu cơ). Buồn bã vì tin tức liên quan tới các điệp viên của ông, Vua George III đã lên án tất cả họ là những kẻ thao túng thị trường chứng khoán bất khả tín, nhưng ngài miễn cưỡng chấp thuận sứ mệnh hòa bình bí mật của Wentworth.
Wentworth đến Paris giữa tháng Mười hai, ngay khi người Mỹ đang hội kiến Vergennes và gửi cho Silas Deane một lá thư xứng tầm một điệp vụ Anh: có một người đàn ông muốn gặp ông, có thể gặp sáng hôm sau trong một toa xe tại một địa điểm cụ thể trên đường tới Passy, hoặc sau đó tại cuộc trưng bày ở Triển lãm Luxembourg, hoặc tại các chỗ tắm công cộng trên sông Seine, nơi Deane sẽ tìm thấy một lời nhắn về số phòng để sử dụng. Deane gửi lại một lời nhắn xứng tầm người Mỹ: ông sẽ có mặt ở văn phòng, nơi ông sẵn sàng gặp bất cứ ai muốn ghé qua.28
Trong bữa tối với Deane, Wentworth đề xuất một kế hoạch hòa giải cho Anh và các thuộc địa. Mỹ có thể có Quốc hội riêng, chỉ phải phục tùng Quốc hội Anh trong các vấn đề về ngoại giao, thương mại. Tất cả các đạo luật phản cảm được thông qua từ 1763 sẽ bị bãi bỏ. Ông cũng đưa ra những lời mời gọi cá nhân như tước hiệp sĩ, hàng quý tộc, công việc, tiền bạc cho Deane và bất kì người Mỹ nào giúp đảm bảo một nền hòa bình như thế.
Franklin lúc đầu từ chối gặp Wentworth, song sau đó đổi ý khi nhận được tin về câu trả lời của Tây Ban Nha về đề nghị liên minh với Mỹ của Pháp. Khá ngạc nhiên, vua Tây Ban Nha đã từ chối kế hoạch này và tuyên bố rằng Tây Ban Nha không tìm thấy lý do gì để thừa nhận nước Mỹ. Pháp có thể tùy nghi hành động một mình, nếu nước này chọn như vậy.
Vì thế Franklin đã gây áp lực trong suốt tuần đầu của năm 1778. Ông để lọt tin tức ra với giới truyền thông rằng các sứ thần Anh đã có mặt ở Paris và họ có thể đi đến một hiệp ước nếu Pháp không nhanh tay hơn. Các bài báo cho hay, một hiệp ước như thế có thể bao gồm việc Mỹ ủng hộ Anh trong nỗ lực chiếm các đảo của Pháp ở Tây Ấn. Ông cũng đồng ý gặp Wentworth vào ngày 6 tháng 1, dù ông bắt người này hứa không được đưa ra bất cứ sự hối lộ cá nhân nào.
Báo cáo của Wentworth ngược về London được viết bằng thứ mật mã vụng về có thề hiểu được