← Quay lại trang sách

Chương 12 (tt)

ĐƯỜNG ĐẾN TUYÊN NGÔN

Cho đến năm 1776, hầu hết lãnh tụ thuộc địa vẫn tin hoặc giả vờ lịch sự tin rằng, về mặt khái niệm, tranh chấp là giữa nước Mỹ và các bộ trưởng lầm lạc của nhà vua - chứ không phải với bản thân nhà vua hay triều đình. Để tuyên bố độc lập, họ cần phải thuyết phục người dân và thuyết phục chính họ thực hiện một bước nhảy khó khăn của việc từ bỏ sự phân biệt này. Một điều giúp họ làm vậy là một ấn phẩm ra đời vào tháng Một năm đó: tập sách nhỏ ẩn danh dài 47 trang có nhan đề Nhận thức chung.

Như các áng văn xuôi lấy sức mạnh từ sự không màu mè - cách các tác phẩm của Franklin thường làm - tác giả lập luận: không có “lý do tự nhiên hay tôn giáo nào phân biệt con người thành vua chúa và thần dân”. Quy tắc cha truyền con nối là một sự ghê tởm của lịch sử. “Một người trung thực với xã hội và trong mắt của Chúa còn có giá trị hơn tất cả những kẻ lưu manh đội vương miện từng sống trên đời.” Bởi thế, chỉ có một lối đi cho người Mỹ: “Mọi thứ đúng đắn hoặc tự nhiên đều kêu gọi sự chia tách.”

Sau vài tuần xuất hiện ở Philadelphia, tập sách này bán được một con số kinh ngạc: 120.000 bản. Nhiều người nghĩ Franklin là tác giả, bởi nó phản ánh những tình cảm thô mộc của ông về sự suy đồi của quyền lực cha truyền con nối. Thực tế, bàn tay của Franklin có vai trò gián tiếp hơn: tác giả thật sự là một tín hữu Quaker liều lĩnh đến từ London tên là Thomas Paine. Paine đã thất bại với nghề làm áo nịt ngực, bị sa thải khi làm nhân viên thuế và sau đó được giới thiệu với Franklin. Không hề ngạc nhiên khi ông tỏ ra mến anh ta. Vào năm 1774, khi Paine quyết định rằng anh ta muốn di cư sang Mỹ và trở thành nhà văn, Franklin đã bao chuyến đi và viết thư yêu cầu Bache giúp lo cho anh ta một công việc. Chẳng bao lâu, Paine đã làm việc tại một nhà in ở Philadelphia và rèn giũa các kỹ năng của một tiểu luận gia. Khi Paine cho ông xem bản thảo của Nhận thức chung, Franklin ủng hộ anh ta hết lòng và đưa ra vài gợi ý chỉnh sửa.26

Tập sách nhỏ của Paine làm phấn khởi các lực lượng ủng hộ cách mạng triệt để. Các cơ quan lập pháp thuộc địa vốn thận trọng đã trở nên bớt thận trọng hơn và liền điều chỉnh chỉ thị cho các đại biểu của mình: giờ đây họ được phép xem xét vấn đề giành độc lập. Vào ngày mùng 7 tháng 6, khi Franklin đã hồi phục, từ Virginia, Richard Henry Lee, em trai của người đã từng và sẽ là đối thủ tương lai của ông, Arthur Lee, đã đặt lên bàn một bản kiến nghị với câu hỏi: “Các Thuộc địa Hợp nhất có quyền và phải là những bang tự do và độc lập.”

Dù Quốc hội trì hoãn biểu quyết về bản kiến nghị đó trong vài tuần, cần thực hiện một bước trực tiếp mới tiến đến độc lập, mà có ảnh hưởng tới cá nhân nhà Franklin: ra lệnh phế bỏ tất cả thống đốc hoàng gia tại các thuộc địa. Hội đồng Lập pháp mới có tính ái quốc ở các tỉnh tự khẳng định vị trí và vào ngày 15 tháng 6 năm 1776, Hội đồng Lập pháp của New Jersey tuyên bố Thống đốc William Franklin là “kẻ thù đối với quyền tự do của đất nước”. Xét đến việc anh ta là người mang họ Franklin, lệnh bắt giữ William đã đề nghị đối xử với anh “bằng tất cả sự tinh tế, nhẹ nhàng mà bản chất của công việc này có thể cho phép”.

William không có tâm trạng nào nghĩ tới sự tinh tế và nhẹ nhàng. Bài phát biểu của anh tại phiên xét xử ngày 21 tháng 6 thách đố đến mức một trong số các quan tòa mô tả nó “về mọi mặt xứng đáng với xuất thân cao quý của ông ta”, ý muốn nói tới việc anh là con ngoài giá thú hơn là nhắc đến người cha nổi tiếng của anh. Về phần mình, Franklin không hành xử giống một người cha lắm. Lá thư mà ông gửi Washington nhắc tới việc chuẩn bị cho tuyên bố độc lập được viết cùng ngày William bị xét xử nhưng Franklin không hề nhắc đến việc đó. Ông cũng không nói hay làm gì để giúp con trai mình khi ba ngày sau, Quốc hội Lục địa biểu quyết tống giam anh tại Connecticut.

Vì thế những lời lẽ William viết vào đêm trước khi bị hạ ngục cho con trai anh, đứa trẻ giờ bị giam chặt dưới sự canh giữ của ông nội, nghe hào sảng một cách đau đớn: “Chúa phù hộ cho con, con trai thân yêu; hãy phục tùng và chăm lo tới ông, người mà con nợ ân huệ lớn.” Sau đó, anh kết thúc với một chút lạc quan gượng ép: “Nếu sống qua cơn giông tố này, chúng ta sẽ gặp lại và tận hưởng vị ngọt ngào của hòa bình với niềm vui lớn hơn.”27

Thực tế, họ đều sống sót qua cơn giông tố và gặp lại nhau nhưng không bao giờ tận hưởng vị ngọt ngào của hòa bình cùng nhau nữa. Rõ ràng, những vết thương của năm 1776 hằn quá sâu.

BIÊN TẬP CHO JEFFERSON

Khi Quốc hội Lục địa chuẩn bị biểu quyết về vấn đề giành độc lập, nó chỉ định một ủy ban thực hiện một việc mà sau này nhìn lại đó là một nhiệm vụ trọng đại; nhưng vào lúc ấy, nó có vẻ không quan trọng đến thế: soạn thảo một tuyên ngôn giải thích quyết định này. Ủy ban này tất nhiên gồm Franklin, Thomas Jefferson, John Adams, cùng thương gia Roger Sherman đến từ Connecticut và luật sư Robert Livingston đến từ New York.28

Vì sao Jefferson, ở tuổi 33, lại có vinh dự soạn thảo tài liệu này? Tên anh được viết đầu tiên trong danh sách ủy viên, chỉ ra rằng anh là chủ tịch, bởi anh nhận được nhiều phiếu nhất và đến từ Virginia - thuộc địa đã đề xuất nghị quyết. Bốn đồng nghiệp còn lại có nhiệm vụ ở các ủy ban khác mà họ cho là quan trọng hơn. Không ai trong số họ nhận ra rằng, tài liệu này cuối cùng sẽ trở thành một văn bản được xem như thánh kinh.

Về phần mình, Adams lầm lẫn nghĩ rằng ông đã đảm bảo cho mình một chỗ đứng trong lịch sử khi viết lời mở đầu cho nghị quyết ngày 10 tháng 5 kêu gọi việc phế bỏ quyền lực của hoàng gia ở các thuộc địa. Ông đã sai lầm tuyên bố rằng nó sẽ được các sử gia xem như “nghị quyết quan trọng nhất từng được đề ra ở nước Mỹ”. Nhiều năm sau, với lối huênh hoang của mình, ông lại nói Jefferson muốn ông là người viết tuyên ngôn nhưng ông đã thuyết phục người đàn ông trẻ hơn nhận vinh dự này bằng cách lập luận: “Lý do thứ nhất, anh là một người dân Virginia, và một người dân Virginia phải đứng đầu trong việc này. Lý do thứ hai, tôi khó ưa, bị hoài nghi và không được quần chúng yêu mến. Anh thì rất trái ngược. Lý do thứ ba, anh có thể viết hay hơn tôi gập mười lần.” Hồi tưởng của Jefferson hoàn toàn khác biệt, ủy ban “nhất trí thúc ép một mình tôi viết ra dự thảo”, về sau anh viết.29

Về phần ông, khi ủy ban nhóm họp lần đầu, Franklin vẫn nằm bẹp trên giường vì mụn nhọt và bệnh gout. Hơn nữa, về sau ông nói với Jefferson: “Ta có một quy tắc, bất cứ khi nào được quyền, ta sẽ tránh trở thành kẻ soạn thảo các tài liệu cho một cơ quan công quyền xem xét.”

Và vì thế, trên một chiếc bàn gấp nhỏ do anh tự thiết kế, Jefferson có vinh dự vẻ vang được soạn ra một số câu nói lừng danh nhất trong lịch sử trong lúc ngồi một mình ở căn phòng trên tầng hai một ngôi nhà trên Phố Chợ, chỉ cách nhà của Franklin một dãy. “Trong tiến trình lịch sử nhân loại...” anh bắt đầu bằng câu nổi tiếng. Đáng nói là, theo sau đó không phải một đòn tấn công vào chính phủ Anh (tức các bộ trưởng) mà vào hiện thân của nhà nước Anh (tức nhà vua). Sử gia Pauline Maier nhận định: “Việc công kích nhà vua là một dạng thức lập hiến. Nó là cách người Mỹ tuyên bố cách mạng.”30

Tài liệu do Jefferson soạn ra có nét tương đồng với lối viết thường thấy ở Franklin. Nó đưa ra một danh mục các chi tiết hết sức cụ thể chống lại nước Anh và tỉ mỉ kể lại - theo cách Franklin vẫn làm - những nỗ lực của nước Mỹ trong việc giảng hòa, bất chấp sự ngoan cố của nước Anh. Thực tế, lời lẽ của Jefferson lặp lại một số từ ngữ Franklin đã dùng trước đó trong một dự thảo nghị quyết mà ông không bao giờ công bố:

Bất cứ khi nào các vua chúa - thay vì bảo vệ sinh mạng và tài sản cho thần dân bởi đó là nhiệm vụ bắt buộc của họ - lại tìm cách kéo dài sự tàn phá một trong hai thứ đó; khi ấy, họ không còn là vua chúa nữa mà trở thành bạo chúa và mọi sự ràng buộc bởi lòng trung thành giữa thần dân với họ đều tiêu tan. Bởi vậy, chúng tôi trang trọng tuyên bố, bất cứ khi nào có bằng chứng cho thấy rằng quân đội và tàu bè của nhà vua hiện đang ở Mỹ, hoặc sẽ được đưa tới đây từ đây về sau, thật sự tàn phá các thành phố hay tàn sát cư dân của bất cứ thành phố và nơi chốn nào tại Mỹ theo mệnh lệnh của nhà vua; hoặc cho thấy rằng những kẻ ác ôn đã được thuê ám sát người dân di cư tội nghiệp và gia đình họ cũng bởi các mệnh lệnh như thế, từ thời điểm đó, chúng tôi sẽ từ bỏ tất cả lòng trung thành với nước Anh, nếu vương quốc đó còn quy phục nhà vua hay bất cứ hậu duệ nào của ngài như là nguyên thủ của mình.31

Tuy nhiên văn phong của Jefferson khác với Franklin. Nó được tô điểm bởi âm điệu nhịp nhàng và từ ngữ êm ái, bay bổng đầy chất thơ, vẫn mạnh mẽ dù rất bóng bẩy. Thêm vào đó, Jefferson đạt được chiều sâu triết lý không có ở Franklin. Anh nhắc lại cả ngôn ngữ lẫn các lý thuyết vĩ đại của các nhà tư tưởng Khai sáng Scotland, trong đó nổi bật nhất là khái niệm về các quyền tự nhiên do John Locke đề xướng. Anh đã đọc tác phẩm Luận thuyết thứ hai về chính quyền của Locke ít nhất ba lần. Anh xây dựng lập luận của mình theo cách phức tạp hơn những gì Franklin có thể đã viết - một khế ước giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị, dựa trên sự đồng thuận của người dân.

Cần để ý rằng, Jefferson cũng tự ý mượn chữ nghĩa từ người khác, trong đó có Tuyên ngôn về Các quyền vang dội trong hiến pháp mới của Virginia, được soạn ra bởi người chủ đồn điền bạn hữu của anh, George Mason. Đó là việc mà ngày nay có thể khiến anh phải đối diện với chất vấn về đạo văn. Nhưng vào thời ấy nó không chỉ phù hợp mà còn được coi là có học thức. Thực tế, khi John Adams cau có, ghen tị với sự tán thưởng mà Jefferson nhận được, chỉ ra nhiều năm sau đó: không có ý tưởng nào trong Tuyên ngôn Độc lập là mới và nhiều từ ngữ có được nhờ cóp nhặt từ người khác, Jefferson đã phản pháo: “Tôi không nghĩ một phần bổn phận của mình là phải sáng tạo ra những ý tưởng hoàn toàn mới và đem lại những cảm xúc chưa bao giờ được bày tỏ trước đây.”32

Khi anh đã hoàn thành bản thảo và bổ sung vài sửa đổi từ Adams, Jefferson gửi nó cho Franklin vào sáng thứ Sáu, ngày 21 tháng 6. Trong lá thư đi kèm, anh viết: “Liệu Tiến sĩ Franklin có thể vui lòng xem qua và chỉ ra những điểm mà tầm nhìn rộng lớn hơn của ông về đề tài này cho rằng phải sửa chữa?”33 Thời đó, người ta lịch thiệp với các biên tập viên hơn ngày nay nhiều.

Franklin chỉ đưa ra rất ít sửa đổi - có thể thấy một vài trong số đó được ông viết tay trên văn bản được Jefferson nhắc tới như “bản thảo thô” của Tuyên ngôn. (Tài liệu này hiện được trưng bày tại Thư viện Quốc hội và trên trang web của nó.) Điểm quan trọng nhất ông chỉnh sửa là một điểm nhỏ song có tiếng vang. Bằng những gạch chéo đậm mà ông hay dùng, Franklin xóa bỏ ba từ cuối cùng trong câu của Jefferson: “Chúng tôi khẳng định đây là những chân lý thiêng liêng và không thể chối cãi” và sửa thành các từ ngày nay được chính sử ghi nhận: “Chúng tôi khẳng định đây là những chân lý hiển nhiên".34

Ý tưởng về những chân lý “hiển nhiên” là một thứ ít bắt nguồn từ John Locke, triết gia yêu thích của Jefferson, mà từ tất định luật khoa học mà Isaac Newton tán thành và được kiểm chứng dựa trên thực nghiệm phân tích của David Hume, người bạn thân với Franklin. Được biết đến như “cái nĩa của Hume”, triết gia vĩ đại người Scotland - cùng Leibniz và những người khác - đã xây dựng một lý thuyết phân biệt giữa các chân lý tổng hợp mô tả sự việc khách quan (chẳng hạn, “London lớn hơn Philadelphia”) và các chân lý phân tích có tính hiển nhiên bởi lý lẽ và định nghĩa (“Các góc của một tam giác có tổng là 180 độ”; “Tất cả đàn ông chưa vợ đều chưa kết hôn”). Khi sử dụng từ “thiêng liêng”, dù chủ ý hay không, Jefferson đã cho rằng, nguyên tắc anh nhắc đến (sự bình đẳng của con người và việc tạo hóa trao cho họ các quyền bất khả xâm phạm) là một khẳng định thuộc về tôn giáo. Trái lại, sự sửa đổi của Franklin đã biến nó thành một khẳng định thuộc về lý trí.

Các điểm chỉnh sửa khác của Franklin ít đắc địa hơn. Ông sửa đổi cụm từ “làm suy yếu họ trước quyền lực độc đoán” của Jefferson thành “làm suy yếu họ với sự chuyên chế tuyệt đối” và bỏ sự bóng bẩy văn chương trong câu của Jefferson, “xâm lăng và khiến chúng ta chìm trong bể máu”, để khiến nó nhẹ hơn: “xâm lăng và tàn phá chúng ta”. Một vài sửa đổi của ông có vẻ hơi mô phạm. “Số tiền lương của họ” đã được ông sửa thành “số tiền và việc trả lương cho họ.”35

Vào ngày mùng 2 tháng 7, Quốc hội Lục địa cuối cùng đã thực hiện bước đi trọng đại: biểu quyết về vấn đề độc lập. Pennsylvania là một trong những bang cuối cùng đứng ngoài. Cho đến tận tháng Sáu, cơ quan lập pháp của nó vẫn chỉ thị các đại biểu “tuyệt đối bác bỏ” bất cứ hành động nào “có thể gây ra hay dẫn tới sự chia tách với mẫu quốc của chúng ta”. Song, dưới áp lực từ một cơ quan lập pháp cấp tiến hơn gồm những nghị sĩ còn sót lại, các chỉ thị này đã thay đổi. Phái đoàn Pennsylvania do Franklin dẫn đầu đã cùng các thuộc địa còn lại tham gia bỏ phiếu về vấn đề độc lập, dù John Dickinson bảo thủ vẫn từ chối.

Ngay khi việc bỏ phiếu hoàn tất, Quốc hội tự biến nó thành một ủy ban toàn thể để xem xét dự thảo Tuyên ngôn của Jefferson. Họ không dễ dãi trong việc biên tập như Franklin đã làm. Nhiều đoạn lớn đã bị cắt - nhất là đoạn phê phán nhà vua duy trì việc buôn bán nô lệ. Quốc hội cũng có công cắt đi hơn một nửa trong số năm đoạn cuối của dự thảo, ở đó Jefferson đã bắt đầu nói dông dài xa rời thẩm quyền của văn bản.36

Jefferson rối trí. “Tôi đang ngồi bên Tiến sĩ Franklin, ông hiểu rõ tôi không vô cảm trước sự cắt xén này”, anh hồi tưởng. Song, quá trình đó (ngoài việc trên thực tế đã hoàn thiện văn bản vĩ đại này) còn có hệ quả thú vị: nó đã khơi ra từ Franklin, trong lúc cố gắng an ủi Jefferson, một trong các câu chuyện ít nổi tiếng nhất của ông. Khi còn là một thợ in trẻ, một người bạn của ông khởi nghiệp bằng nghề làm mũ muốn thiết kế biển hiệu cho cửa hàng mình. Franklin nhớ lại:

Cậu ta nghĩ ra mấy từ: “John Thompson, thợ mũ, làm và bán mũ lấy tiến mặt”, thêm vào đó là hình ảnh một chiếc mũ. Song cậu ta nghĩ nên đưa cho bạn bè xem để chỉnh sửa. Người đầu tiên mà cậu ấy đưa nghĩ rằng từ “thợ mũ” bị lặp vì các từ “làm mũ” phía sau đã cho thấy cậu ta là thợ mũ. Nó bị cắt bỏ. Người kế tiếp nhận xét rằng từ “làm” cũng có thể lược bỏ bớt vì khách hàng của cậu ta đâu có quan tâm việc ai làm ra chúng... Cậu lại xóa nó đi. Người thứ ba nói rằng những từ “đổi lấy tiền mặt” là vô ích, vì tập quán của địa phương này không cho bán chịu. Mọi khách mua mũ đều sẵn sàng trả tiền ngay. Chúng lại bị cắt bỏ. Dòng chữ bây giờ còn: “John Thompson bán mũ.” “Bán mũ!” người bạn tiếp theo kêu lên. “Tại sao chứ, có ai nghĩ cậu sẽ cho không chúng đâu? Vậy thì cần gì dùng từ đó?” Nó lại bị xóa bỏ. Tiếp đó là từ “mũ” vì đã có hình chiếc mũ trên biển hiệu. Cho nên, cuối cùng dòng chữ bị cắt tối đa chỉ còn “John Thompson” với hình một chiếc mũ bên cạnh.37

Tại lễ ký chính thức bản sao trên giấy da vào ngày 2 tháng 8, John Hancock, Chủ tịch Quốc hội Lục địa, đã ghi tên mình với nét bút trứ danh của ông. “Không thể mạnh ai nấy kéo một hướng nữa”, ông tuyên bố. “Tất cả chúng ta phải kết nối với nhau.” Theo Jared Sparks, sử gia người Mỹ tiên trào, Franklin đã trả lời: “Đúng thế, thật sự tất cả chúng ta phải kết nối với nhau, nếu không gần như chắc chắn chúng ta sẽ bị treo cổ riêng lẻ.” Sinh mạng cũng như danh dự thiêng liêng của họ đã bị đặt trên sợi dây.38

CÁC Ý TƯỞNG HIẾN PHÁP

Sau khi tuyên bố các thuộc địa là một quốc gia mới, Quốc hội Lục địa Đệ nhị giờ đây cần phải kiến tạo từ đầu một hệ thống chính quyền. Vì thế nó bắt đầu soạn ra thứ sẽ trở thành Các điều khoản Liên bang. Văn bản này không hoàn tất cho đến tận cuối năm 1777 và phải mất thêm bốn năm nữa để nó được tất cả các thuộc địa phê chuẩn, song các nguyên tắc cơ bản đã được quyết định ngay từ những tuần sau khi tuyên bố độc lập.

Trong dự thảo Các điều khoản Liên bang do Franklin đệ trình một năm trước, ông đề xuất một chính quyền trung ương mạnh, điều hành bởi một quốc hội được bầu cử phổ thông dựa trên nguyên tắc đại diện theo tỷ lệ. Nhờ tính khí và sự giáo dục, ông nằm trong số các lãnh đạo thuộc địa dân chủ nhất. Đa số ý tưởng của ông không thắng thế trong Các điều khoản mới, nhưng các lập luận mà ông đưa ra trong cuộc tranh luận - và trong những cuộc họp đang diễn ra ở Hội đồng Lập pháp Pennsylvania liên quan đến việc soạn thảo hiến pháp mới cho bang này - cuối cùng sẽ chứng tỏ sức ảnh hưởng của nó.

Một trong những vấn đề cốt lõi khi đó và trong toàn bộ lịch sử nước Mỹ là liệu nên tạo ra một liên bang gồm các bang độc lập hay một quốc gia thống nhất. Và cụ thể hơn, liệu mỗi bang nên có một phiếu trong Quốc hội hay tính đại diện sẽ tương ứng với dân số? Không ngạc nhiên khi Franklin ủng hộ phương án sau, không chỉ vì ông đến từ một bang lớn, mà vì ông cảm thấy rằng, quyền lực của quốc hội quốc gia nên đến từ người dân chứ không phải các bang. Hơn nữa, để các bang nhỏ có cùng tỷ lệ đại diện với các bang lớn là một sự bất công. “Một liên bang dựa trên những nguyên tắc bất công như thế sẽ không thể tồn tại lâu dài”, ông tiên đoán chính xác.

Khi cuộc tranh cãi trở nên nóng hơn, Franklin cố đưa vào một chút hài hước. Các bang nhỏ lập luận rằng, họ sẽ bị các bang lớn áp đảo nếu đại diện theo tỷ lệ. Franklin đã đáp rằng, một số người Scotland tại thời điểm liên minh với nước Anh từng sợ sẽ chịu số phận của Jonah: bị một con cá voi nuốt chửng. Nhưng cuối cùng quá nhiều người Scotland trở thành thành viên chính phủ đến mức khi đó, “người ta nhận ra chính Jonah đã nuốt chửng con cá voi.” Jefferson ghi chú rằng, Quốc hội đã cười đủ chân thành để lấy lại sự khôi hài. Tuy nhiên, nó vẫn biểu quyết duy trì hệ thống một phiếu trên một bang. Ban đầu Franklin dọa sẽ thuyết phục để Pennsylvania không tham gia liên bang nhưng cuối cùng ông nhượng bộ.

Một vấn đề khác là liệu nô lệ có nên được tính là một phần dân số của bang nhằm mục đích xác định nghĩa vụ thuế. Một đại biểu từ Nam Carolina cho rằng không, bởi nô lệ không phải là dân chúng mà là tài sản, họ giống loài cừu hơn là con người. Điều này kéo theo một lời trách từ Franklin: “Có một sự khác biệt giữ họ và loài cừu: cừu sẽ không bao giờ nổi loạn.”39

Trong khi Quốc hội đang tranh luận về Các điều khoản mới, bang Pennsylvania cũng đang tổ chức hội nghị lập hiến của riêng nó tại cùng tòa nhà. Franklin được nhất trí chọn làm chủ tịch và đóng góp chính của ông là thúc đẩy việc thành lập một cơ quan lập pháp đơn viện. Theo lý lẽ của ông, ý tưởng về cân bằng quyền lực giữa một cơ quan lập pháp được bầu cử trực tiếp với một thượng viện được lựa chọn gián tiếp là tàn tích của hệ thống tinh hoa quý tộc mà nước Mỹ đang nổi dậy để chống lại. Ông so sánh một cơ quan lập pháp hai nhánh với một con rắn hai đầu trong thần thoại: “Nó đến một dòng suối để uống nước, trên đường phải vượt qua một hàng rào. Một cây cọc rào khiến nó không thể bò thẳng; một cái đầu chọn đi về bên phải cây cọc, một cái đầu chọn đi bên trái; bởi thế nó tốn thời gian vào việc đấu khẩu. Trước khi quyết định được đưa ra, con rắn tội nghiệp đã chết vì khát.” Dấu tay của ông cũng hiển hiện trong danh sách những phẩm chất mà các công chức Pennsylvania phải có: không như các bang khác, họ không cần phải sở hữu tài sản, nhưng họ nên có sự “tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc công bằng, điều độ, tiết chế, cần mẫn và căn cơ”.

Ưu tiên của Franklin về cơ quan lập pháp đơn viện cuối cùng đã bị cả Pennsylvania và Liên bang bác bỏ, song lại được chào đón với sự tán dương lớn ở Pháp, và được thực thi sau cuộc cách mạng Pháp (với những kết quả mơ hồ). Một đề xuất siêu dân chủ mà ông đưa ra tại Hội nghị Lập hiến Pennsylvania là Tuyên ngôn về các quyền của bang này không nên khuyến khích nắm giữ tài sản lớn hay tập trung của cải, vì đây là “mầm họa đối với hạnh phúc của nhân loại”. Điều đó kết cục cũng bị xem là quá cấp tiến so với hội nghị.

Khi rảnh rỗi, Franklin phục vụ ở rất nhiều ủy ban của Quốc hội. Thí dụ, ông giúp thiết kế Đại ấn của quốc gia mới và lại cộng tác với Jefferson và Adams thêm lần nữa. Jefferson gợi ý cảnh con cái của Israel được dẫn qua miền hoang vu còn Adams đề xuất hình ảnh Hercules. Franklin đề nghị in ở mặt trước khẩu hiệu E Pluribus Unum (Muôn người như một) và mặt sau trang trí công phu bằng cảnh Pharaoh bị Biển Đỏ nhận chìm, với câu Chống lại Bạo Chúa là phục tùng Thiên Chúa. Jefferson sau đó ủng hộ đề nghị của Franklin và nó được Quốc hội chấp thuận phần lớn.40

GẶP LẠI NGÀI HOWE

Những cuộc đàm phán của Franklin ở London với đô đốc Richard Howe, vốn bắt đầu dưới vỏ bọc là các ván cờ tại nhà bà chị ông ta vào cuối năm 1774, đã kết thúc trong thất bại, nhưng chúng không phá vỡ sự tôn trọng mà hai người dành cho nhau. Điều khiến Ngài Howe hết sức bực bội là sự dậm chân tại chỗ của giấc mơ vỡ vụn - được chỉ định làm đặc sứ hòa bình tới các thuộc địa. Vào tháng 7 năm 1776, vị đô đốc làm chỉ huy các lực lượng Anh quốc tại Mỹ, cùng em trai mình, tướng William Howe, người đảm trách các binh đoàn trên bộ. Ngoài ra, ông ta đã đạt được mơ ước về nhiệm vụ đàm phán hòa giải. Howe mang bên mình một kế hoạch chi tiết, trong đó có lệnh ngừng bắn và ân xá cho những kẻ cầm đầu phiến quân (John Adams được miễn trừ bí mật) và lời hứa tưởng thưởng cho người Mỹ nào giúp vãn hồi hòa bình.

Bởi người Anh không thừa nhận Quốc hội Lục địa là một cơ quan hợp pháp, Ngài Howe không biết chắc nên hướng các đề nghị của mình tới đâu. Vì thế khi tới Sandy Hook, New Jersey, ông ta gửi một lá thư cho Franklin, gọi ông là “người bạn quý của tôi”. Howie tuyên bố mình có “hy vọng được giúp ích trong công cuộc thúc đẩy sự thiết lập hoà bình lâu dài và sự thống nhất với các thuộc địa”.41

Franklin đọc lá thư trước Quốc hội và được cho phép trả lời. Ông làm việc này vào ngày 30 tháng 7. Đó là một hồi âm khôn khéo và hùng hồn, thể hiện rõ quyết tâm giữ độc lập của nước Mỹ song vẫn khởi động một nỗ lực cuối cùng nhằm ngăn chặn một cuộc cách mạng toàn diện.

“Tôi đã nhận được những lá thư mà Ngài ân cần gửi đến tôi và mong ngài nhận lấy lời cảm tạ của tôi” - ông mở đầu với sự lịch thiệp cần thiết. Song, lá thư của ông nhanh chóng trở nên nóng bừng, thậm chí nó dùng lại những từ “chìm trong bề máu” mà ông đã cắt khỏi bản thảo Tuyên ngôn Độc lập của Jefferson:

Chỉ đạo việc ân xá cho các thuộc địa - vốn là các bên chịu tổn thương - thực tế cho thấy quan điểm đối với sự ngu dốt, hèn kém và thờ ơ của chúng tôi, điều khiến quốc gia thiếu hiểu biết và kiêu ngạo của ngài từ lâu đã hài lòng lấy chúng tôi làm trò tiêu khiển. Song, nó không có hiệu quả nào hơn ngoài việc làm gia tăng sự bất bình của chúng tôi. Chúng tôi không thể nghĩ đến việc quy phục một chính quyền đã bằng sự man rợ và tàn bạo bừa bãi nhất thiêu đốt các thành phố không được phòng bị của chúng tôi giữa mùa đông, khiêu khích những kẻ thủ ác tàn sát những người nông dân hiền lành của chúng tôi, kích động các nô lệ của chúng tôi giết hại chủ mình và giờ đây đang đưa lính đánh thuê tới để khiến những khu định cư của chúng tôi chìm trong bể máu.

Tuy vậy, Franklin khéo léo đưa vào lá thư của mình nhiều hơn sự giận dữ thuần túy. Với nỗi buồn và sự chua chát sâu sắc, ông tiếp tục nhớ lại họ từng làm việc cùng nhau ra sao để ngăn chặn một sự đổ vỡ bất khả hàn gắn. “Đã từ lâu tôi nỗ lực không mệt mỏi với lòng nhiệt thành chân thật để tránh làm vỡ chiếc bình sứ quý giá và tuyệt đẹp đó, tức đế chế Anh; vì tôi biết rõ một khi đã vỡ, các mảnh vỡ sẽ không thể giữ lại ngay cả phần sức mạnh hay giá trị của chúng vốn đã từng tồn tại khi còn thống nhất”, ông viết. “Ngài hẳn còn nhớ những giọt nước mắt mừng vui hoen ướt gò má tôi, khi tại nhà chị gái ngài ở London, ngài từng khiến tôi kỳ vọng rằng sự hòa giải chẳng bao lâu sẽ diễn ra.”

Franklin cho hay, các cuộc đàm phán hòa bình có thể sẽ có ích song khả năng đó không cao. Nó đòi hỏi Howe phải sẵn sàng coi Anh và Mỹ “là các quốc gia khác nhau”. Franklin nói ông nghi ngờ việc Howe có thẩm quyền đó. Còn nếu nước Anh muốn làm hòa với một nước Mỹ độc lập, Franklin đề xuất, “tôi nghĩ rằng, một hiệp ước vì mục đích đó không phải là điều hoàn toàn bất khả thi.” Ông kết thúc bằng một lời nhắn cá nhân duyên dáng - khẳng định “lòng kính trọng sâu sắc, cho phép tôi được nói, tình cảm mà tôi sẽ luôn dành cho ngài”.42

Việc Howe sửng sốt trước các điều kiện đặt ra trong thư hồi âm của Franklin là điều dễ hiểu. Vị sứ giả chuyển thư thuật lại sự kinh ngạc trên khuôn mặt Howe cùng lời nhận xét rằng người bạn cũ của ông ta đã thể hiện mình một cách thật nồng ấm. Khi được vị sứ giả hỏi liệu ông có muốn gửi thư hồi âm, Howe “từ chối, nói rằng ngài tiến sĩ đã trở nên quá nồng ấm, nên nếu ông ta bày tỏ tình cảm của mình với ngài ấy, điều đó sẽ chỉ làm ngài ấy đau lòng - đó là điều ông ta muốn tránh.”

Howe đợi hai tuần, cho tới lúc các lực lượng Mỹ trên đảo Long của Tướng Washington bị quân Anh qua mặt, ông ta mới gửi thư phúc đáp được sắp xếp câu chữ thận trọng và thừa lịch sự cho “ông bạn quý” của mình. Trong đó, viên đô đốc thừa nhận mình không có quyền để “đàm phán việc tái thống nhất với nước Mỹ dưới bất cứ sự mô tả nào khác ngoài thần dân của triều đình Anh”. Tuy vậy, ông nói hòa bình là điều có thể đạt được theo những điều khoản mà Quốc hội Lục địa đã đặt ra trong Thỉnh nguyện thư Cành Ô-liu gửi đến nhà vua một năm trước, trong đó chứa đựng mọi yêu cầu của các thuộc địa về quyền tự chủ nhưng vẫn duy trì một dạng thống nhất dưới quyền trị vì của hoàng đế. Dù từ chối tỏ rõ trong tuyên bố công khai, giờ đây Howe thể hiện rõ rằng, nền hòa bình mà ông ta hình dung sẽ “vì lợi ích của cả hai đất nước”. Nói cách khác, Mỹ sẽ được đối xử như một quốc gia độc lập nằm trong khuôn khổ của đế chế.43

Đây là điều Franklin từng hình dung suốt nhiều năm. Nhưng giờ đây Franklin cảm thấy nó dường như đã quá muộn sau ngày 4 tháng 7. John Adams và các thành viên khác trong khối cấp tiến của ông cũng cảm thấy thế, thậm chí còn sôi sục hơn. Vì thế có nhiều thảo luận và bất đồng tại Quốc hội về việc liệu Franklin có nên tiếp tục duy trì mối liên lạc này. Howe thúc ép vấn đề bằng việc thả một viên tướng Mỹ bị bắt và phái ông ta đến Philadelphia với một lời mời Quốc hội cử một phái đoàn không chính thức nhằm tiến hành đàm phán trước khi “một đòn quyết định được giáng xuống”.

Ba thành viên, Franklin, Adams và Edward Rutledge đến từ Nam Carolina, được cử đi gặp Howe và nghe xem ông ta có gì để nói. Việc cử Adams (người cảnh báo Quốc hội - theo David McCullough, người viết tiểu sử của ông - rằng kẻ đưa tin của Howe là một “một con vịt mồi được phái đến để dụ dỗ Quốc hội từ bỏ nền độc lập”) là biện pháp phòng vệ để Franklin không trở lại với thói quen cũ kiếm tìm hòa bình của ông.

Có lẽ với ẩn ý hơi mỉa mai, Franklin đề xuất có thể tổ chức cuộc gặp tại dinh thống đốc ở Perth Amboy, vốn đã bỏ trống gần đây khi con trai ông vào tù, hoặc nếu không thì ở Đảo Staten. Howe chọn phương án sau. Trên đường đến đây, ủy ban đã ngủ một đêm ở New Brunswick. Nhà trọ chật kín đến mức Franklin và Adams buộc phải ngủ chung giường. Kết quả, như Adams ghi lại trong nhật ký, đó là một đêm có phần khôi hài. Nó đem lại một góc nhìn thú vị về tính cách của Franklin và mối quan hệ kỳ lạ của cặp đôi Franklin-Adams suốt nhiều năm.

Adams đang bị cảm nên khi đi ngủ, ông đóng chiếc cửa sổ nhỏ trong buồng lại. “Ồ! Đừng đóng cửa sổ. Hai ta sẽ chết ngạt mất”, Franklin nói.

Adams đáp rằng ông sợ không khí ban đêm.

“Không khí trong căn buồng này sẽ sớm, và thực tế là ngay bây giờ đã tồi tệ hơn ngoài kia,” Franklin đáp. “Thôi nào! Hãy mở cửa và đi ngủ, ta sẽ thuyết phục anh. Ta tin anh chưa làm quen với thuyết về chứng cảm cúm của ta.”

Adams mở lại cửa sổ và “nhảy lên giường”, một cảnh hẳn là đáng quan sát. Ông nói mình đã đọc các thư từ của Franklin tranh luận rằng không ai bị cảm do không khí lạnh, song lý thuyết này không đúng với kinh nghiệm bản thân ông. Liệu Franklin có thể vui lòng giải thích?

Adams, với một chút khôi hài hiếm thấy ở ông, kể lại: “Tiến sĩ bắt đầu bài diễn thuyết về không khí, cảm cúm, hô hấp và sự đổ mồ hôi. Nó làm tôi thích thú đến mức tôi ngủ quên, bỏ lại ông ấy và triết lý của mình.” Không chỉ chiến thắng cuộc tranh cãi về việc mở cửa sổ, cần lưu ý có lẽ chính vì thế mà Franklin không lây cảm từ Adams.44

Khi Howe cử một xà lan đến để chở phái đoàn Mỹ ra Đảo Staten, ông chỉ thị cho viên sĩ quan ở lại như một con tin. Franklin và ủy ban của ông đưa viên sĩ quan theo để tỏ cử chỉ tin tưởng vào danh dự của Howe. Dù Howe đưa khách của ông ta đi qua một hàng đôi các lính đánh thuê Hessian dữ tợn, cuộc họp dài ba giờ đồng hồ vào ngày 11 tháng 9 rất thân mật, và phái đoàn Mỹ được đãi một bữa tiệc với rượu vang ngon, giăm bông, lưỡi và thịt cừu.

Howe cam kết các thuộc địa có thể có được những gì họ đòi hỏi trong Thỉnh nguyện thư Cành Ô-liu: kiểm soát việc làm luật và thu thuế của chính họ và “điều chỉnh bất cứ luật đồn điền nào có thể gây thiệt hại cho dân định cư ở thuộc địa.” Howe nói người Anh vẫn nghĩ tốt về nước Mỹ: “Khi một người Mỹ ngã, người Anh có thể cảm nhận được nỗi đau.” Ông ta cũng cảm thấy, thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Howe nói, nếu nước Mỹ ngã “tôi sẽ thương cảm và than khóc như mất đi một người anh em”.

Adams ghi lại phản ứng của Franklin: “Ông Tiến sĩ, với thái độ thư thái, gương mặt bình thản, đeo một chiếc nơ bướm, nở một nụ cười với tất cả sự hồn hậu đôi lúc xuất hiện trong cuộc trò chuyện của ông và thường thấy được qua các bài viết của ông, đã trả lời: ‘Thưa Ngài, chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức để Ngài khỏi phải chịu sự hành xác đó.’”

Howe nhất định nghĩ tranh chấp gây nên cuộc chiến khủng khiếp này chỉ là do phương thức tăng thuế từ Mỹ mà nước Anh nên sử dụng. Franklin đáp: “Khi được yêu cầu, chúng tôi không bao giờ chối bỏ điều đó.”

Howe tiếp tục nói nước Mỹ đem lại nhiều nguồn lực khác cho đế chế, trong đó có “con người của xứ sở này”. Franklin, với các tác phẩm viết về sự gia tăng dân số mà Howe biết rõ, cũng đồng ý. “Chúng tôi có một xưởng sản xuất con người đáng gờm.”

Howe hỏi, vậy thì vì sao lại không thể “đặt dấu chấm hết cho cho những sự cực đoan có tính hủy diệt này?”

Franklin đáp, bởi đã quá trễ cho bất cứ nền hòa bình nào đòi hỏi phải đáp lại bằng sự trung thành với nhà vua. “Các lực lượng đã được phái đến và các thành phố đã bị thiêu rụi”, ông nói. “Chúng tôi không thể trông chờ hạnh phúc dưới ách thống trị của nước Anh. Mọi sự ràng buộc trước đây đã bị xóa sạch.” Tương tự, Adams cũng đề cập “một cách nồng nhiệt tới quyết tâm không xa rời lý tưởng độc lập của chính ông”.

Phía Mỹ đề xuất rằng, Howe nên đòi hỏi từ triều đình thẩm quyền đàm phán với họ như một quốc gia độc lập. Đó là một hy vọng “viển vông”, Howe đáp.

“Ồ, thưa ngài”, Franklin nói, “bởi nước Mỹ không có gì để trông đợi ngoài sự quy phục vô điều kiện...”

Howe ngắt lời. Ông ta không hề đòi hỏi sự quy phục. Song, rõ ràng, ông ta thừa nhận rằng, ít nhất vào lúc này, không có sự điều đình nào khả thi. Ông ta cũng xin lỗi vì “phiền các vị phải đi quá xa xôi vì mục đích quá nhỏ bé.”45

ĐẾN PHÁP VỚI TEMPLE VÀ BENNY

Trong vòng hai tuần sau khi trở về từ cuộc gặp Ngài Howe, Franklin được một ủy ban quốc hội hoạt động cực kỳ bí mật chọn thực hiện sứ mệnh nguy nan, phức tạp và hấp dẫn nhất trong sự nghiệp chính trị của ông. Ông phải vượt Đại Tây Dương một lần nữa, trở thành một đặc phái viên ở Paris, với mục tiêu dỗ dành nước Pháp, hiện đang hưởng thời thái bình hiếm hoi với nước Anh, để có được sự hỗ trợ và đồng minh mà nước Mỹ khó lòng thể chiến thắng nếu thiếu nó.

Đó là một sự chỉ định lạ lùng. Franklin giờ đây già cả và ốm yếu, cuối cùng cũng vui vẻ thu mình trong tổ ấm gia đình thật sự có tất cả thành viên cùng huyết thống với ông. Nhưng từ góc độ Quốc hội, có một sự hợp lý nhất định trong lựa chọn này. Dù chỉ mới đến thăm nước Pháp hai lần, ông là người Mỹ nổi danh và được tôn kính nhất ở đây. Hơn nữa, là thành viên của Ủy ban Thông tấn Bí mật của Quốc hội, trong năm vừa qua, Franklin đã tiến hành các cuộc hội đàm kín với một loạt trung gian người Pháp, trong đó có Julien de Bonvouloir, một điệp viên đã được vị vua mới, Louis XVI, thừa nhận riêng. Franklin đã gặp ông ta ba lần vào tháng 12 năm 1775, dù Bonvouloir thận trọng triệt để, ông vẫn có ấn tượng rằng nước Pháp sẵn sàng hỗ trợ, ít nhất trong bí mật, cho cuộc nổi dậy của người Mỹ.46

Hai ủy viên khác cũng được chọn lựa cho nhiệm vụ sang Pháp: Silas Deane, một thương gia và đại biểu quốc hội đến từ Connecticut, vốn đã được phái tới Paris từ hồi tháng 3 năm 1776, và Thomas Jefferson. Khi Jefferson từ chối vì lý do gia đình, vị trí này được trao cho Arthur Lee - người Virginia cau có đã thay thế Franklin làm đại diện của xứ thuộc địa tại London.

Franklin tỏ ra miễn cưỡng chấp nhận nhiệm vụ này. “Tôi đã già và chẳng còn có ích cho việc gì”, ông nói với bạn mình, Benjamin Rush, người ngồi kế bên ông trong Quốc hội. “Nhưng như các thủ kho nói về những mẩu vải thừa, tôi đã ở cái đoạn cuối mệt mỏi của đời mình, và ông có thể có được tôi với bất cứ giá nào ông sẵn sàng trả.”47

Song vốn là người ưa du lịch, bị hấp dẫn bởi các trải nghiệm mới, đam mê châu Âu và (có lẽ) có thiên hướng chạy trốn khi gặp các tình huống khó xử, nhiều khả năng ông vui mừng trước nhiệm vụ này và có một số chứng cứ cho thấy ông đã chủ động tìm kiếm cơ hội. Trong những phiên thảo luận của Ủy ban Bí mật vào tháng trước, ông đã viết một Phác họa các đề nghị hòa bình với nước Anh mà rốt cuộc ủy ban không sử dụng. Trong bản thảo, Franklin nhấn mạnh xu hướng trở lại nước Anh của ông:

Khi có những đề nghị như vậy để đưa ra hoặc có bất cứ thẩm quyền nào để đối xử với hòa bình, điều đó sẽ tạo ra cái cớ cho B.E trở lại Anh quốc, nơi ông có nhiều bạn bè và người quen, đặc biệt trong số những cây bút hay nhất và những phát ngôn viên cừ khôi nhất ở cả lưỡng viện của Quốc hội Anh. Ông ấy nghĩ khi ở đó, nếu các điều khoản không được chấp thuận, ông ấy có thể gây một sự chia rẽ tình cảm ở quốc gia này để làm suy yếu đáng kể các nỗ lực chống lại nước Mỹ của nó.48

Cuộc gặp Ngài Howe xảy ra sau khi ông thảo tài liệu này khiến cho sứ mệnh trở lại nước Anh ít lôi cuốn hơn, nhất là khi so sánh với những tiềm năng ở Paris. Từ các chuyến thăm trước đây, ông biết mình sẽ yêu Paris và nó chắc chắn sẽ an toàn hơn là ở lại Mỹ khi kết quả cuộc chiến không rõ ràng đến vậy (khi đó Howe đang tiến gần đến Philadelphia). Một số kẻ thù của Franklin, nhất là đại sứ Anh tại Paris và những kẻ bảo hoàng người Mỹ, tin là ông đang tìm cớ để chạy trốn nguy hiểm. Kể cả bạn ông, Edmund Burke, triết gia thân Mỹ và là thành viên trong Quốc hội Anh, cũng nghĩ vậy. Burke nói: “Tôi sẽ không bao giờ tin rằng ông ấy lại kết thúc cuộc đời dài của mình - một cuộc đời tỏa sáng từng giờ ông ấy sống - với sự tẩu thoát nhơ nhuốc và hèn hạ đến vậy.”49

Những sự hoài nghi như thế có lẽ quá thô lỗ. Nếu an toàn cá nhân là mối lo hàng đầu của ông, việc đi qua một đại dương bị hải quân của kẻ thù kiểm soát trong lúc giao tranh, ở độ tuổi 70, mang trong mình chứng bệnh gout và sỏi thận hẳn không phải là lựa chọn hợp lý. Cũng như tất cả những lần Franklin quyết định vượt Đại Tây Dương - lần này trong ông cũng có nhiều cảm xúc và mong muốn giằng xé. Nhưng chắc chắn cơ hội được phục vụ đất nước trong một nhiệm vụ mà không người Mỹ nào được trang bị tốt hơn và cơ hội được sống và được tiếp đón ở Paris là những lý do đủ đơn giản để giải thích cho quyết định của ông. Khi chuẩn bị lên đường, ông rút hơn 3.000 bảng từ tài khoản ngân hàng của mình cho Quốc hội vay để tiến hành cuộc chiến.

Cháu nội ông, Temple, đã dành mùa hè chăm sóc cho người mẹ kế tuyệt vọng tại New Jersey. Việc chồng cô bị bắt đã khiến Elizabeth Franklin, vốn mỏng manh ngay cả trong lúc vui vẻ nhất, hoàn toàn rối trí. “Chị chẳng làm gì nổi ngoài thở dài và khóc lóc”, cô viết thư cho em chồng, Sally Bache, vào tháng Bảy. “Tay chị run đến độ gần như không giữ nổi cây bút.” Khi nài nỉ Temple đến ở cùng cô, cô phàn nàn về “tụi lính vô kỷ luật” đang vây quanh biệt thự. “Họ cực kỳ thô lỗ, xấc xược, ngược đãi chị và khiến chị sợ đến mất cả tri giác.” Cô nói thêm rằng, họ thậm chí còn định ăn trộm con chó cưng của Temple.50

Temple đến nhà người mẹ kế của cậu vào cuối tháng Bảy, và như thường lệ, trên đường đi, lại để quên một số quần áo. (“Có vẻ như một thứ vận xui đã để ý việc vận chuyển đồ đạc của cháu giữa Amboy và Philadelphia” - ông nội cậu viết.) Franklin già gửi theo một số tiền cho Elizabeth song cô cầu xin một thứ gì đó hơn thế. Lẽ nào ông không thể “ký giấy thả người” để William được phép về với gia đình? “Thưa cha thân yêu và tôn kính, hãy xem như con đang cầu xin vì con trai của cha, cũng là người chồng yêu quý của con.” Franklin từ chối và ông bác bỏ những tiếng kêu thương tâm của cô về hoàn cảnh của mình bằng nhận xét rằng nhiều người khác còn đang thống khổ hơn dưới bàn tay của quân Anh. Ông cũng chẳng cố gắng ghé thăm cô khi đi qua Amboy trên đường đến gặp Ngài Howe. Kể từ khi cô kết hôn với con trai ông, ông ít tỏ ra muốn làm thân với cô, đến thăm cô và trao đổi thư từ với cô. Ông cũng không buông những lời đường mật mà ông thường phung phí với những phụ nữ trẻ.51

Temple thì cảm thông hơn. Đầu tháng Chín cậu có kế hoạch đến Connecticut để có thể thăm người cha đang bị tống giam và chuyển cho anh lá thư của Elizabeth. Nhưng Franklin cấm cậu đi, nói rằng, việc cậu phải trở lại trường học ở Philadelphia sớm mới là quan trọng. Temple tiếp tục nài nỉ. Cậu không có thông tin bí mật gì, chỉ là một lá thư muốn chuyển. Franklin vẫn không lay động. “Cháu nhầm lẫn khi tưởng rằng ta sợ cháu mang các tin tình báo nguy hiểm tới cho cha cháu”, ông trách cứ. “Cháu hẳn sẽ đúng hơn nếu nghi ngờ ta có chút quan tâm nhỏ nhoi nhẹ nhàng tới sự an toàn của cháu.” Ông nói thêm rằng, nếu Elizabeth muốn viết thư cho chồng, cô có thể viết dưới sự giám sát của thống đốc Connecticut; thậm chí ông đã chu cấp cho cô cả bao thư trả tiền trước vì mục đích đó.

Thực tế, Franklin nhận ra cháu ông có những động cơ khác khi muốn đến gặp cha - một xấu, một tốt: “Ta nghĩ kế hoạch này xuất phát từ việc cháu thích chơi rông chứ chưa muốn trở lại trường, bên cạnh một nguyện vọng mà ta không phê bình, đó là muốn gặp lại người cha mà cháu có quá nhiều lý do để yêu thương.” Không phê bình cậu vì muốn gặp cha? Nói rằng cậu có quá nhiều lý do để yêu thương cha? Với Franklin, những tình cảm như thế dành cho William có phần bất ngờ, thậm chí chua chát. Tuy thế nên nhớ, chúng xuất hiện trong một lá thư từ chối quyền đến thăm William của con trai anh.52

Cuộc tranh cãi trở thành một cuộc thảo luận sau chưa đầy một tuần. Cẩn trọng giữ bí mật tin ông được chỉ định làm đặc sứ ở Pháp, Franklin tỏ ra bí hiểm. “Ta mong cháu sẽ trở về ngay lập tức; mẹ cháu sẽ không cản trở việc đó,” ông viết. “Ở đây ta có một đề nghị sẽ rất có lợi cho cháu.”

Khi quyết định đưa Temple đi Pháp, Franklin không hề bàn bạc với Elizabeth, người qua đời một năm sau đó mà không kịp gặp lại chồng và con trai riêng của chồng. Ông cũng không báo tin cho William. Anh không hề biết gì cho đến khi đứa con trai duy nhất của anh lên đường - cậu bé mà anh chỉ mới gặp gần một năm. Đây là một minh chứng về quyền lực cá nhân mạnh mẽ mà Benjamin Franklin - một người vốn thường sắt đá trước những tình cảm gia đình - đã sử dụng. William đau khổ chấp nhận hoàn cảnh. “Nếu quý ông lớn tuổi ấy đưa thằng bé đi cùng”, anh viết thư cho người vợ tuyệt vọng của mình, “anh hy vọng nguyên cớ duy nhất là để nó theo học ở một trường đại học nước ngoài nào đó.”53

Franklin cũng quyết định mang theo một người cháu khác, Benny Bache. Và thế là ngày 27 tháng 10 năm 1776, trên một tàu chiến Mỹ chật cứng nhưng chạy rất nhanh, có cái tên rất phù hợp - Reprisal (Sự trả thù), một bộ ba kỳ lạ giong buồm ra khơi: một ông lão sắp bước sang tuổi 71 không chịu nghỉ ngơi, dù sức khỏe yếu song vẫn đầy tham vọng và mê phiêu lưu, hướng đến một mảnh đất không bạn bè mà ông tin mình sẽ không bao giờ trở về từ nơi đó; bạn đồng hành của ông là một thiếu niên hăng hái, mải chơi tầm 17 tuổi và một đứa trẻ mới chỉ lên 7 hay lo nghĩ và luôn muốn làm người khác hài lòng. Ông hy vọng các trải nghiệm ở châu Âu sẽ tốt cho hai cháu của ông và sự hiện diện của chúng sẽ khiến ông thư thái. Hai năm sau, khi kể về Temple nhưng lại dùng các từ ngữ chung cho cả hai cậu bé, Franklin giải thích một lý do khiến ông muốn đưa chúng đi cùng: “Nếu ta chết, có một đứa trẻ sẽ vuốt mắt cho ta.”54

Chú thích:

[25]

[54]