Chương 17 ĐOẠN KẾT
William Franklin-. Trong di chúc, Franklin trao lại cho người con trai duy nhất còn sống của mình vỏn vẹn vài chứng nhận sở hữu đất đai vô giá trị ở Canada và xí xóa hết các khoản mà William còn nợ ông. “Về việc nó chống lại tôi hồi cuối cuộc chiến, điều đã gây nhiều tai tiếng, giải thích tại sao tôi để lại cho nó không gì hơn ngoài một mảnh đất mà nó đã nỗ lực tước đoạt từ tôi.” William, vốn nghĩ mình đã trả lại món nợ bằng cách chuyển nhượng điền sản của ông ở New Jersey, đã phàn nàn về “sự bất công đáng hổ thẹn” của bản di chúc. Trong 25 năm còn lại của cuộc đời, ông không bao giờ trở lại Mỹ. Tuy nhiên, ông cũng kính trọng ký ức về cha mình và không cho phép bản thân công khai một lời khắc nghiệt nào về cha. Quả thật, khi con trai ông - Temple - do dự về việc phát hành một ấn phẩm về cuộc đời và các tác phẩm của Franklin, William đã bắt đầu với một tác phẩm của riêng ông, thứ mà ông hy vọng sẽ vinh danh cha mình bằng cách chỉ ra “bước ngoặt về tư duy và kiến thức phong phú của người”. Tác phẩm ấy không bao giờ thành hình. Ông đã cưới chủ nhà người Ireland, Mary D’Evelyn, nhưng sau khi bà mất vào năm 1811, ông thành ra một người đàn ông đơn độc và khánh kiệt. Ba năm sau đó ông cũng lìa đời trong sự xa cách của người con trai và nỗi đau khổ mà ông gọi là “trạng thái cô độc tương phản nhất với bản tính của tôi”.1
Temple Franklin: Được thừa kế một phần hậu hĩnh từ điền sản và tất cả tài liệu quan trọng của ông nội, Temple trở về Anh vào năm 1792 để tạm thời đoàn tụ với cha của mình. Vẫn là một anh chàng tinh ranh hấp dẫn song sống không mục đích, anh bực bội khi bị cha ép kết hôn và soạn sửa các tài liệu của Franklin, nên đã đẩy sự lục đục của gia đình lên mức độ mới. Anh có một đứa con ngoài giá thú nữa, cô bé Ellen, với em gái ruột của người vợ mới của William. Sau đó anh đã đoạn tuyệt một cách cay đắng với tất cả mọi người và trốn tới Paris, bỏ lại con gái Ellen Franklin bé bỏng dưới sự nuôi nấng của William - người vừa là bác, vừa là ông của cô bé. Suốt 14 năm sau, Temple không hề nối lại liên lạc với cha mình, cũng không công bố các tác phẩm của ông nội, kể cả khi những phần chưa được cho phép của cuốn Tự truyện xuất hiện ở Pháp. Sau cùng, vào năm 1812, anh viết thư cho cha mình, nói rằng anh định công bố các tác phẩm ấy và muốn đến London tham khảo ý kiến ông. William vui mừng quá đỗi vì vẫn còn nhớ hồi âm lạnh lùng mà ông từng nhận được khi viết một lá thư tương tự cho cha mình 28 năm trước. “Cha sẽ rất vui khi được gặp con”, ông nói, “cha không thể chịu đựng nổi ý nghĩ phải chết trong nỗi thù hận với một người gần gũi nhất”. Song Temple không bao giờ trở lại Anh nữa. Thay vào đó, năm 1817, anh công bố cuốn Tự truyện (không có phần cuối) và bộ sưu tập hổ lốn một số các tác phẩm của ông nội. Anh sống sáu năm tiếp theo ở Paris với một tình nhân khác, một phụ nữ Anh tên là Hannah Collyer, và đã cưới cô vài tháng trước khi qua đời năm 1823. Người phụ nữ này sau này đã mang rất nhiều tác phẩm quý giá của Franklin về London. Chúng được tìm thấy lại vào năm 1840 khi đang bị dùng làm mẫu trong cửa hàng của một người thợ may. Số tài liệu mà Temple bỏ lại Philadelphia bị phân tán rải rác vào tay nhiều nhà sưu tập đồ lưu niệm cho đến khi Hội Triết học Hoa Kỳ bắt đầu quá trình thu thập lại chúng vào những năm 1860.2
Sally và Richard Bache: Con gái hiếu thảo của Franklin cùng chồng nhận được hầu hết tài sản của ông, trong đó có mấy căn nhà trên Phố Chợ với điều kiện Richard “trả tự do cho anh da đen Bob.” (Richard đã làm theo, nhưng Bob đã sa đà vào rượu chè, không thể tự nuôi sống chính mình nên xin được trở lại làm nô lệ; nhà Bache đã từ chối, tuy nhiên họ vẫn cho phép anh ta sống nốt phần đời còn lại trong nhà mình.) Sally cũng được trao tấm chân dung nhỏ của Louis XVI bao quanh bởi những viên kim cương, với giao ước rằng cô không được biến “số kim cương này thành trang sức dù là cho chính cô hay cho các con gái của cô để rồi lại quảng bá hay tán dương việc mang trang sức đắt tiền, phù phiếm và vô ích ở đất nước này.” Cô đã bán những viên kim cương đó để thỏa nỗi khát khao của cả một đời, đó là được đến Anh. Cùng chồng mình, cô tới ở cùng William, người vẫn luôn thân thiết với cô. Khi trở về, nhà Bache quyết định về sống lâu dài ở một trang trại tại Delaware.
Benjamin Bache: Thừa kế thiết bị in ấn và nhiều sách vở của Franklin, 70 năm sau khi tờ Tuần báo New England ra số đầu tiên, anh đã tiếp bước ông nội bằng việc tung ra tờ Bình minh nước Mỹ. Tờ báo nhiệt thành đứng về phía Jefferson và trở thành một thân binh thay mặt cho những người tin vào các chính sách dân chủ và thân Pháp bằng một niềm say mê thậm chí còn hơn cả Franklin. Nó công kích Washington và sau đó là Adams vì đã tạo ra các tổng thống đế vương. Suốt một thời gian, nó là tờ báo nổi tiếng nhất nước Mỹ và trở thành chủ đề cho hai cuốn sách gần đây. Sự nghiệp chính trị của anh đã gây ra những rạn nứt với cha mẹ. Anh cũng trái ý họ khi quyết định cưới một cô gái nóng nảy tên là Margaret Markoe. Anh bị bắt vào năm 1798 vì tội nổi loạn và phỉ báng Adams, song đã chết vì bệnh sốt vàng da ở tuổi 29 trước khi phiên xử diễn ra. Cho đến lúc đó, anh phải chịu sự ghẻ lạnh từ cha mẹ đến nỗi các em gái ruột của anh phải trốn đến thăm nom anh vào những ngày bệnh tật cuối cùng. Cô Margaret sớm tái hôn với ký giả làm thuê cho chồng mình, một người Ireland hay lý sự tên là William Duane, và tiếp tục duy trì tờ Bình minh. Một trong các em gái của Benny, Deborah Bache, về sau còn kết hôn với một người con trai riêng từ cuộc hôn nhân trước của Duane.3
Polly Stevenson: Bà không được thừa kế gì từ người đàn ông mà bà đã kính trọng suốt 33 năm ngoài một chiếc vại bằng bạc và sớm thất vọng với mọi chi trong dòng họ ông cũng như mọi thứ ở Mỹ. Khi Tom, người con trai thứ của bà, trở lại Anh (cùng Willie Bache, để học dược), bà đã viết cho anh những lá thư đầy mong nhớ và khao khát được trở về cố hương. Song trước khi có cơ hội, bà đã mất vào năm 1795. Tom cuối cùng đã trở lại Philadelphia và trở thành một bác sĩ thành công tại đây. Anh trai William và em gái Eliza của anh cũng ở lại Mỹ và đều gây dựng cho mình những gia đình hạnh phúc.
Các thương nhân đầy khát vọng ở Boston và Philadelphia: Điều khoản lạ nhất trong phần phụ chú thuộc di chúc của Franklin là một bản tín thác mà ông lập ra. Ông nhận xét, không như các nhà lập quốc khác, ông sinh ra trong nghèo khó và đã đi lên nhờ sự giúp đỡ của những người ủng hộ ông, vốn là những người thợ thủ công chật vật. “Nếu có thể, tôi mong mình vẫn còn có ích ngay cả khi đã lìa đời, trong việc tạo nên và khuyến khích những người trẻ biết phụng sự đất nước.” Vì thế, ông đã dành 2.000 bảng thu được từ công việc của một Chủ tịch của Pennsylvania - nhắc lại đức tin mà ông thường bày tỏ, rằng các công chức nên phụng sự quốc gia mà không cần nhận lương - chia đều cho hai thành phố Boston và Philadelphia, đồng thời cấp các khoản vay “với lãi suất 5% mỗi năm, dành cho các thợ trẻ khéo tay đã kết hôn” - những người trải qua thời gian học nghề và giờ đang tìm cách khởi sự kinh doanh riêng. Với nỗi ám ảnh thường thấy về tính chi tiết, ông đã mô tả chính xác cách vận hành của các khoản vay và việc trả nợ. Theo ông tính toán, sau 100 năm, niên kim của mỗi khoản vay sẽ trị giá 131.000 bảng. Khi đó, các thành phố có thể chi 100.000 bảng cho các dự án công ích, phần còn lại giữ trong quỹ tín thác. Khoản tiền này, như ông ước tính, sau 100 năm tiếp tục cho vay và cộng dồn lãi kép sẽ đạt trị giá 4.061.000 bảng. Đến lúc đó, số tiền ấy có thể sung vào công quỹ.
Mọi thứ có vận hành như ông hình dung? Tại Boston bản tín thác đã phải sửa đổi bởi hệ thống học việc đã lỗi thời, nhưng các khoản cho vay vẫn được thực hiện theo tinh thần bản di chúc của ông. Sau 100 năm, quỹ đã có giá trị khoảng 400.000 đô-la, ít hơn một chút so với những gì ông dự tính. Vào thời điểm đó, một trường thương mại, Nghiệp đoàn Franklin (ngày nay là Học viện Công nghệ Benjamin Franklin), đã được sáng lập với ba phần tư số tiền trên cùng một khoản thừa kế tương xứng từ Andrew Carnegie, người luôn xem Franklin như anh hùng. Số tiền còn lại vẫn nằm trong quỹ tín thác. Một thế kỷ sau, nó đã sinh sôi lên gần 5 triệu đô-la, dù không hẳn là tương đương với 4 triệu bảng, song đó cũng là một số tiền đáng kể. Theo di chúc của Franklin, quỹ này đã được giải ngân. Sau một cuộc chiến pháp lý cần tới cả một đạo luật của cơ quan lập pháp để giải quyết, các quỹ đó đã thuộc về Học viện Công nghệ Benjamin Franklin.
Tại Philadelphia, số tiền ông để lại không tích lũy tốt lắm. Một thế kỷ sau khi ông mất, tổng giá trị của nó đạt 172.000 đô-la, tương đương khoảng một phần tư so với dự tính của ông. Trong đó, ba phần tư được dành để thành lập Viện Franklin của Philadelphia, hiện vẫn là một bảo tàng khoa học phát triển mạnh mẽ. Phần còn lại tiếp tục trở thành một quỹ cho vay dành cho các thương nhân trẻ tuổi, phần lớn trong số đó dưới dạng vay thế chấp nhà. Một thế kỷ sau, vào năm 1990, quỹ này lên tới 2.3 triệu đô-la. Vì sao nó lại thấp hơn một nửa so với số tiền Boston có? Một thân binh tại Philadelphia đã cáo buộc rằng Boston đã biến quỹ của họ thành “một công ty tiết kiệm cho người giàu”. Bởi tập trung vào các khoản vay dành cho người nghèo như dự định của Franklin, nên Philadelphia đã không thành công như Boston trong việc thu hồi các khoản nợ.
Vào thời điểm đó, vị thị trưởng Philadelphia, Wilson Goode, đã gợi ý một điều hẳn là đùa cợt rằng tiền của Ben Franklin nên được dùng để trả cho một bữa tiệc dành cho Ben Vereen và Aretha Franklin. Nhiều người khác nghiêm túc hơn, đã đề xuất dùng số tiền này để thúc đẩy ngành du lịch, và điều này đã gây ồn ào khắp nơi. Ngài thị trưởng cuối cùng đã chỉ định một hội đồng gồm các sử gia, và bang đã phân chia số tiền theo các khuyến nghị chung mà họ đưa ra. Trong những người thụ hưởng có Học viện Franklin, nhiều thư viện cộng đồng và các công ty cứu hỏa, một tổ chức gọi là Viện Hàn lâm Philadelphia thường tài trợ học bổng cho các chương trình dạy nghề tại các trường trên địa bàn thành phố. Khi các học bổng năm 2001 được công bố, một nhà báo của tờ Người chất vấn Philadelphia đã chỉ ra rằng sự đa dạng của 34 cái tên, trong đó có Abimael Acaedevo, Muhammed Hogue, Zrakpa Karpoleh, David Kusiak, Pedro Lopez và Rany Ly, sẽ làm vui lòng ân nhân của họ. Ông chắc hẳn sẽ mỉm cười trước một thí dụ nhỏ song phù hợp khi di sản của mình xuất hiện tại giải Tour de Sol, một giải đua xe hơi thử nghiệm. Một số người nhận học bổng còn lại tới từ một trường trung học nghèo khó ở phía Tây Philadelphia. Họ đã dùng 4.300 đô-la nhận từ cha đẻ của điện để chế tạo một chiếc xe chạy bằng năng lượng pin và đoạt được giải thưởng Sức mạnh của Giấc mơ.4