Chương 18 KẾT LUẬN-NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA LỊCH SỬ
Tạp chí đã Quốc gia tuyên bố vào năm 1868 rằng “loài người chia làm hai loại”: những người “bẩm sinh đã yêu” và những kẻ “bẩm sinh đã ghét” Benjamin Franklin. Sở dĩ có sự phân chia này một phần vì ông không phải là hiện thân của tính cách Mỹ, dù các nhà bình luận có nhận định thế nào. Thay vào đó, ông là hiện thân của một khía cạnh của nó. Ông đứng về một phía trong cuộc bất đồng ý kiến tầm quốc gia đã tồn tại suốt từ khi mà ông và Jonathan Edwards còn là những nhân vật văn hóa tương phản.1
Đứng về một phía là những người như Edwards và nhà Mather, họ tin có một nhóm người được chọn để xức dầu và tin vào sự cứu rỗi chỉ thờ hồng ân Thiên Chúa. Họ có xu hướng giữ một lòng nhiệt thành tôn giáo, có ý thức về giai cấp và thứ bậc xã hội và trân trọng những giá trị cao quý hơn những thứ trần tục. Ở phía bên kia là những người như Franklin, tin vào sự cứu rỗi nhờ làm việc thiện nên tôn giáo của họ từ bi và bao dung; họ luôn phấn đấu không nao núng và luôn vận động đi lên.
Từ đây nảy sinh ra nhiều sự phân chia có liên quan trong tính cách Mỹ và Franklin là đại diện của một nhánh trong đó. Ông đứng về phía chủ nghĩa thực dụng, trái với chủ nghĩa lãng mạn; đứng về phía lòng nhân từ thực tế, trái với cuộc thập tự chinh về đạo đức. Ông đứng về phía của sự khoan dung tôn giáo hơn là đức tin phúc âm; phía của sự linh hoạt của xã hội hơn là giới tinh hoa định sẵn; phía của các giá trị trung lưu hơn là những khát vọng cao quý, thanh tao hơn.
Suốt ba thế kỷ từ khi ông chào đời, sự thay đổi trong cách đánh giá Franklin có xu hướng tiết lộ về ông ít hơn là về các giá trị của những người phán xét ông và thái độ của họ đối với tầng lớp trung lưu đang phấn đấu. Từ một sân khấu lịch sử uy nghiêm với số nhà lập quốc dễ tiếp cận ít hơn hẳn, ông quay mặt nhìn mỗi thế hệ mới với một nụ cười nửa miệng và nói trực tiếp bằng bất kỳ phương ngữ nào đang thịnh hành, khiến một số người tức giận và lôi cuốn nhiều người khác. Vì thế uy tín của ông có khuynh hướng phản ánh hoặc khúc xạ thái độ của mỗi thời kỳ kế tiếp.
Trong mấy năm sau khi ông mới qua đời, khi những sự đối lập cá nhân dịu đi, sự tôn kính với ông lại tăng lên. Đến cả William Smith, người từng chống lại ông trong cơ quan lập pháp và trong ban quản trị của Học viện, đã đọc một bài điếu văn đầy trọng thị tại một lễ tưởng niệm vào năm 1791, theo đó ông bỏ qua “những tranh cãi và chia rẽ không vui” giữa hai người, mà tập trung vào cuộc đời làm từ thiện và khoa học của Franklin. Sau đó, khi con gái của ông nói rằng cô ngờ rằng ông chỉ tin vào “một phần mười những gì cha nói về cột thu lôi của Ben quá cố”, ông chỉ cười sảng khoái.2
Một người khác thỉnh thoảng có đối lập với Franklin, John Adams, cũng dịu bớt nhiều. Đáng chú ý là vào năm 1811, Adams viết trong một bài đánh giá lại đầy khổ tâm rằng: “Không điều gì trong đời từng hành xác hoặc khiến tôi đau đớn hơn sự thiết yếu buộc tôi thường xuyên phải đối đầu với ông ấy như tôi đã từng”. Và Adams giải thích rằng những lời chỉ trích cay đắng trước đây của ông, theo cách nào đó, chính là bằng cứ về sự vĩ đại của Franklin: “Nếu ông ấy là một con người bình thường, thì chẳng bao giờ tôi phải bận lòng phơi ra những chi tiết về những sự vụng trộm sa đọa của ông ấy.” Ông thậm chí còn nhắc đến sự thiếu tận tụy với tôn giáo của Franklin - điều ông từng chế nhạo là gần tới ngưỡng của chủ nghĩa vô thần - với ánh sáng thiện cảm hơn: “Mọi giáo phái đều coi ông như một người bạn của sự độ lượng vô hạn, và tôi tin điều đó là thích đáng.” Có đôi lúc, Adams buộc tội Franklin là một nhà đàm phán yếu kém, đạo đức giả và chính trị gia lầm lạc. Nhưng tiểu luận của ông cũng hàm chứa những lời lẽ thể hiện sự ghi nhận sâu sắc nhất từng được bất cứ người cùng thời nào viết ra:
Franklin là một thiên tài vĩ đại, độc đáo, khôn ngoan và sáng tạo. Khả năng khám phá khoa học của ông không kém gì so với việc cải tiến về mỹ thuật và cơ khí. Ông có trí tưởng tượng bao la... Ông có sự mẫn tiệp theo ý muốn. Sự hài hước của ông sẽ rất tinh tế và vui tươi nếu ông muốn. Lối châm biếm của ông có thể hiền từ hay cay độc, Horace hay Juvenal, Swift hay Rabelais tùy vào sở thích của ông. Ông có tài kể chuyện hài hước, phúng dụ và ngụ ngôn và có cách tùy chỉnh chúng tuyệt vời để thúc đẩy chân lý chính trị và đạo đức. Ông là bậc thầy của sự đơn giản trẻ thơ mà người Pháp gọi là naiveté (ngây thơ), vốn không bao giờ hết lôi cuốn.3
Lúc này, quan điểm của Franklin về vai trò trung tâm của tầng lớp trung lưu Mỹ đã thắng thế, bất chấp nỗi băn khoăn của nhiều người cảm thấy nó đại diện cho khuynh hướng dẫn tới sự tầm thường hóa. “Bằng việc tiếp thu cái quý phái của giới quý tộc cùng việc làm của giới lao động, tầng lớp trung lưu giành được một sự bá quyền mạnh mẽ về đạo đức trong toàn xã hội”, sử gia Gordon Wood nhận xét. Ông đang mô tả nước Mỹ đầu những năm 1800, song cũng có thể đang mô tả cá nhân Franklin.
Uy tín của Franklin tiếp tục được nâng cao khi cháu nội ông, Temple, sau cùng cũng trình làng một ấn bản các tác phẩm của ông vào năm 1817. Adams viết cho Temple rằng, bộ sưu tập của anh “dường như làm cho tôi sống lại quãng đời ở Passy lần nữa”. Điều này có thể khiến những người biết sự đối đầu cay đắng của họ ở Passy rất mơ hồ nếu ông không nói thêm: “Hiếm có nét bút nào của ông ấy lại không xứng đáng được bảo tồn.” Ngài Jeffrey, một người sáng lập ra Tạp chí Edinburgh, đã ca ngợi các tác phẩm của Franklin vì sự “hài hước giản dị”, vì nỗ lực “thuyết phục đám đông về đạo đức”, và trên tất cả, vì chúng nhấn mạnh vào các giá trị nhân văn vốn đã định rõ thời kỳ Khai sáng. “Người Mỹ tự học này có lẽ là triết gia lý trí nhất. Không bao giờ ông đánh mất đi lẽ thường tình trong bất cứ suy đoán nào của mình.”4
Tuy vậy, vào đầu thế kỷ 19, kỷ nguyên Khai sáng đã bị thay thế bởi kỷ nguyên văn chương, vốn coi trọng tính lãng mạn hơn là tư duy lý tính. Xuất hiện cùng sự chuyển đổi này là cuộc đảo lộn sâu sắc, nhất là giữa những người được cho là nhạy cảm hơn, trong thái độ đối với Franklin. Các nhà lãng mạn chủ nghĩa không đánh giá cao lý trí và trí tuệ mà ngưỡng mộ cảm xúc sâu sắc, sự nhạy cảm chủ quan và óc tưởng tượng; ngợi ca tính anh hùng và thần bí hơn lòng bao dung và tính duy lý. Sự phê bình ngạo mạn của họ đã hạ giá chín phần mười danh tiếng của Franklin, Voltaire, Swift và các nhà tư tưởng Khai sáng khác.5
Thi sĩ lãng mạn vĩ đại John Keats là một trong những người công kích Franklin vì thói đa cảm tầm thường của ông. Năm 1818, Keats viết cho anh trai của mình rằng, Franklin chất chứa “những châm ngôn tằn tiện và tầm thường” và là “người không cao cả”. Bạn hữu đồng thời là nhà phát hành của Keats, thi sĩ và biên tập viên Leigh Hunt, trút sự khinh miệt lên “những châm ngôn vô lại” của Franklin và kết tội ông “đứng đầu những kẻ nghĩ rằng con người chỉ cần sống bằng bánh mì”. Cáo trạng của Leigh còn nói: ông “ít đam mê và hoàn toàn không có trí tưởng tượng”; ông thúc đẩy nhân loại hướng đến “tình yêu với sự giàu sang” vốn đã bị tước mất “những tiếng gọi cao quý hơn” của trái tim và tâm hồn. Ngoài những dòng này, Thomas Carlyle, nhà phê bình người Scotland quá yêu chủ nghĩa anh hùng lãng mạn, đã khinh miệt gọi Franklin là “cha đẻ của tất cả lũ người Mỹ”, điều mà có lẽ không gây tổn hại như Carlyle mong muốn.6
Các nhà triết học tiên nghiệm người Mỹ như Thoreau và Emerson, vốn chia sẻ phản ứng dị ứng của các nhà thơ lãng mạn với chủ nghĩa duy lý và duy vật, cũng thấy ông quá trần tục đối với thị hiếu tinh tế của họ. Những người khai phá thế tục và trung lưu hơn vẫn tôn kính Tự truyện của Franklin. Đó là cuốn sách Davy Crockett mang theo mình cho đến khi chết trong trận Alamo. Song, một người khai phá đầy học thức như Thoreau không có chỗ cho nó khi lên đường tới Hồ Walden. Thực tế, chương đầu trong nhật ký Walden của ông về kinh tế có những bảng biểu châm biếm tinh tế những gì Franklin đã dùng. Tương tự, trong câu chuyện Người doanh nhân, Edgar Allen Poe giễu Franklin cùng những người “có phương pháp” khác khi mô tả sự gia tăng. Các phương pháp của ông được tài tình đặt tên là Peter Proffit phản diện.
Franklin xuất hiện bằng tên trong tiểu thuyết bán lịch sử Israel Potter của Herman Melville vào năm 1855. Trong truyện, ông xuất hiện như một người phát ra những châm ngôn nông cạn. Song, Melville đã trò chuyện trực tiếp với độc giả, xin lỗi và nhận xét Franklin không hoàn toàn một chiều như cuốn sách đã khắc họa ông. “Khi tìm cách tả lại ông trong những thói quen ít cao sang hơn, người kể cảm thấy như thể mình đang vui đùa với một chiếc vớ len của nhà hiền triết hơn là tôn kính nâng chiếc mũ vốn đã từng vinh dự ngự nơi trán ông một cách bí hiểm.” Dù tốt hơn hay xấu hơn, theo đánh giá riêng của Melville, Franklin là người rất đa tài. “Một khi đã cân nhắc thế giới thận trọng, Franklin có thể đóng bất cứ vai nào trong đó.” Ông liệt kê danh sách hàng tá công việc mà Franklin làm xuất sắc, rồi nói thêm theo lối phê bình lãng mạn tinh túy: “Franklin là mọi thứ trừ một thi sĩ.” (Franklin chắc hẳn cũng đồng ý. Ông từng viết rằng mình “đồng tình với việc dùng thơ ca để tự mua vui lúc này hay lúc khác - cùng lắm là để hoàn thiện ngôn ngữ - ngoài ra không có gì hơn thế”.)7
Emerson cũng đưa ra kiểu đánh giá hỗn hợp tương tự. Ông nói trong thư viết cho dì mình rằng: “Franklin là một trong những người nhạy cảm nhất từng sống trên đời; có ích hơn, đạo đức hơn và trong trẻo hơn Socrates.” Nhưng ông lại tiếp tục than phiền: “Bản tính của Franklin là một công dân căn cơ, vô hại, tằn tiện, song không cứu rỗi điều gì thật anh hùng.” Nathaniel Hawthorne để một nhân vật trẻ của mình than thở rằng châm ngôn của Franklin “đều là về chuyện kiếm tiền hoặc tiết kiệm tiền”. Để đáp lại nó, Hawthorne tự nhận xét rằng, trong các châm ngôn ấy có ít nhiều đạo đức; chúng “dạy dỗ con người, nhưng chỉ một phần nhỏ bổn phận của họ”.8
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa lãng mạn, xuất hiện một thái độ khinh thị ngày càng lớn đối với tầng lớp trung lưu thị dân mà Franklin yêu quý và những đức tính của chủ cửa hiệu mà tầng lớp này sở hữu. Nó bắt đầu từ những người mà với họ, “tư sản” sẽ trở thành một một từ có tính khinh miệt. Đó là một sự học đòi được chia sẻ bởi các nhóm khác xa nhau: vô sản và quý tộc, công nhân cực nhọc và chủ đất nhàn nhã, giới Mác-xít và giới tinh hoa, phe trí thức và phe chống trí thức. Flaubert tuyên bố rằng việc ghét bỏ tư sản “là sự khởi đầu của mọi đạo đức”, điều này trái ngược tuyệt đối những gì Franklin rao giảng.9
Song việc xuất bản những ấn bản chứa đầy đủ trước tác của Franklin hơn giúp uy tín của ông hồi phục trở lại. Sau Nội chiến, tăng trưởng công nghiệp và sự khởi đầu của Kỷ nguyên Vàng khiến đây là thời điểm chín muồi để vinh danh các tư tưởng của ông.* Trong ba thập niên kế tiếp, ông là chủ đề được yêu thích nhất của dòng văn học tiểu sử Mỹ. Một trăm ba mươi tiểu thuyết của Horatio Alger, rốt cuộc đã bán được tới 20 triệu bản, khiến câu chuyện về các cậu bé có phẩm giá, vươn từ rách rưới lên giàu sang trở nên phổ biến trở lại. Uy tín của Franklin cũng được nâng lên do sự xuất hiện của triết lý Mỹ khác biệt, được biết đến như chủ nghĩa thực dụng. Cũng như Franklin trước đây, nó cho là chân lý của bất cứ quan điểm nào, dù là về khoa học, đạo đức, thần học hay xã hội, đều dựa trên mức độ liên quan của chúng với các kết quả thực nghiệm và tác động thực tế mà chúng mang lại.
Mark Twain, một người thừa kế về văn chương vốn luôn giấu sự hài hước của ông sau mảnh vải tầm thường, từng thích thú trêu đùa thân thiện rằng, Franklin đã “bán rẻ tài năng của mình vào việc phát minh ra những châm ngôn và cách ngôn được tính toán để mang đau khổ cho thế hệ mới lớn của các thời đại sau này... những cậu bé mà lẽ ra đã có thể hạnh phúc.” Nhưng Twain thực ra là một người ngưỡng mộ bất đắc dĩ. Với những nhà tư bản lớn, luôn nghĩ các châm ngôn của Franklin là nghiêm túc, thì sự tôn kính còn hơn thế nữa.10
Kỹ nghệ gia Thomas Mellon, người đã dựng một bức tượng Franklin ở trụ sở ngân hàng của mình, khẳng định rằng Franklin đã tạo cảm hứng khiến ông rời bỏ nông trại của gia đình gần Pittsburgh và khởi sự kinh doanh. Ông viết: “Tôi xem việc đọc Tự truyện của Franklin như bước ngoặt trong đời mình. Đây là Franklin, nghèo hơn cả tôi, song nhờ sự cần mẫn, tằn tiện và căn cơ đã trở nên thông thái và khôn ngoan, vươn tới sự giàu có và nổi tiếng... Các châm ngôn của Richard Nghèo Khổ phù hợp tuyệt đối với các tình cảm của tôi. Tôi đọc cuốn sách nhiều lần rồi băn khoăn liệu mình có thể nào không làm mọi việc theo cùng một hướng và cùng một cách.” Andrew Carnegie cũng đã được thúc đẩy tương tự. Chuyện thành công của Franklin không những soi đường chỉ lối cho ông trong kinh doanh mà còn tạo cảm hứng cho ông trong việc thiện nguyện, nhất là sự cống hiến cho việc thành lập các thư viện công cộng.11
“Người Mỹ vĩ đại đầu tiên” là lời ca ngợi Franklin đã nhận được từ Frederick Jackson Turner, sử gia xuất chúng của giai đoạn này. “Cuộc đời ông là câu chuyện về trí tuệ phổ quát của người Mỹ ở hình thái cao nhất của nó, áp dụng trong kinh doanh, chính trị, khoa học, ngoại giao và thiện nguyện”, ông viết năm 1887. Franklin cũng nhận được sự ủng hộ của biên tập viên có sức ảnh hưởng nhất giai đoạn này, William Dean Howells của tạp chí Harper’s. Howells viết năm 1888: “Ông là một người rất vĩ đại, và đối tượng mà vì chúng ông hiến thân cùng một sự hòa trộn của động lực bền bỉ, là những thứ liên quan tới, chẳng hạn, tiện nghi tức thời của con người và sự tiến bộ của tri thức.” Dù ông “cay độc hoài nghi của những lý tưởng và niềm tin thiêng liêng với đa số chúng ta”, ông đã “có công thúc đẩy phúc lợi tinh thần và vật chất của loài người”.12
Vào thập niên 1920, khi chủ nghĩa cá nhân của Kỷ nguyên Vàng mất đi sự ủng hộ từ giới trí thức, con lắc lại một lần nữa vung lên chống lại Franklin. Trong cuốn Đạo đức Tin lành và linh hồn của chủ nghĩa tư bản, Max Weber mổ xẻ rất cừ đạo đức làm việc của giới trung lưu Mỹ từ một quan điểm nửa Mác-xít. Ông ta trích dẫn Franklin (và Richard Nghèo Khổ) rất nhiều lần như một thí dụ điển hình về “triết lý của sự tham lam”. Weber viết, tất cả thái độ đạo đức của Franklin “đều nhuốm màu thuyết vị lợi” và buộc tội Franklin vì chỉ tin vào “việc kiếm càng lúc càng nhiều tiền kết hợp với sự tránh né tuyệt đối mọi ràng buộc tự nhiên của cuộc sống”.
Nhà phê bình văn chương Van Wyck Brooks đã chia văn hóa Mỹ thành hai nhóm: trí thức và ít học và ông xếp Franklin là người sáng lập ra nhóm sau. Brooks nói rằng Franklin là điển hình của một “chủ nghĩa cơ hội rẻ tiền” và một “sự khôn ngoan hai chiều”. Thi sĩ William Carlos Williams nói thêm rằng, Franklin là “nhà tiên tri sáng suốt về sự xảo ngôn của chúng ta”. Còn trong cuốn tiểu thuyết Babbitt,* Sinclair Lewis xem nhẹ các giá trị tư sản và chủ nghĩa thúc đẩy dân sự. Trong một đòn kích bác nhằm vào tín điều mà Franklin thường phát biểu, Lewis viết: “Nếu hỏi Babbitt tôn giáo của ông ta là gì, ông ta hẳn sẽ trả lời bằng bài diễn văn hùng hồn của Câu lạc bộ Những Kẻ Thúc Đẩy: ‘Tôn giáo của tôi là phục vụ đồng bào, làm vẻ vang anh em tôi như chính tôi và làm từng chút để khiến cuộc đời mỗi người và mọi người hạnh phúc hơn.’”13
Đòn công kích luẩn quẩn nhất, vui nhất và về hầu hết mọi khía cạnh là sai lầm nhất lên Franklin xảy ra vào năm 1923; đến từ nhà phê bình và tiểu thuyết gia người Anh D. H. Lawrence. Đôi lúc, tiểu luận của ông là một dòng ý thức trống rỗng tấn công Franklin vì bản chất tư sản, phi lãng mạn của các giá trị được phản ánh trong Tự truyện:
Tiến sĩ Franklin. Người đàn ông nhỏ thó màu thuốc hít! Linh hồn bất tử và tất cả! Phần linh hồn bất tử là một thứ hợp đồng bảo hiểm rẻ tiền! Thực sự Benjamin không bận tâm tới linh hồn bất tử. Ông ấy quá bận rộn với con người xã hội... Tôi không thích ông ấy.
Tôi vẫn nhớ khi mình còn nhỏ, mỗi năm cha tôi hay mua một niên giám vô giá trị với hình mặt trăng, mặt trời và những vì sao trên bìa. Nó thường dự đoán những trận đổ máu và nạn đói. Song nhồi nhét ở các góc, cũng có vài giai thoại và chuyện vui nhỏ, với một sáo ngữ về đạo đức. Tôi đã từng nở nụ cười tự mãn về người đàn bà đếm đàn gà trước khi chúng nở và các chuyện đại loại như thế. Cũng với một chút tự mãn, tôi bị thuyết phục rằng trung thực là chính sách tốt nhất, và cũng ra vẻ đạo đức một chút. Tác giả các mẩu truyện ấy là Richard Nghèo Khổ; và Richard Nghèo khổ chính là Benjamin Franklin - người đã viết chúng tại Philadelphia hơn 100 năm trước. Đến giờ có thể tôi vẫn chưa vượt qua các sáo ngữ của Richard Nghèo Khổ: tôi nhiễm độc vì chúng. Chúng là những cái gai đâm vào da thịt trẻ thơ.
Bởi lẽ dù tôi vẫn tin rằng trung thực là mưu mẹo tốt nhất, tôi chán ghét cả mưu mẹo. Dù không hay ho gì khi bạn đếm lũ gà của mình trước khi chúng nở, nhưng sẽ còn đáng ghét hơn nếu hả hê đếm khi chúng đã nở rồi. Tôi đã mất nhiều năm và vô số trí khôn để thoát khỏi sợi dây thép gai bao vây đạo đức mà Richard Nghèo Khổ dựng lên…
Điều gì đưa chúng ta trở lại chính câu hỏi này - Benjamin đã sai ở đâu khiến chúng ta không chịu nổi ông ấy?... Tôi là một động vật đạo đức và sẽ luôn như thế. Tôi sẽ không bị biến thành một cỗ máy đạo đức nhỏ như Benjamin hằng muốn... Và giờ đây, ít nhất tôi hiểu vì sao mình không thể chịu nổi Benjamin. Ông ấy cố gắng lấy đi sự trọn vẹn và khu rừng tăm tối của tôi, sự tự do của tôi.
Như một phần của tiểu luận, Lawrence viết lại 13 đức tính của Franklin để làm chúng phù hợp với sở thích lãng mạn của ông hơn. Với định nghĩa của Franklin về sự cần mẫn (“Luôn sử dụng thời gian vào một việc gì đó có ích”) Lawrence thay thế nó bằng: “Phụng sự Chúa Thánh Linh; chớ bao giờ phụng sự loài người.” Còn về định nghĩa của Franklin về công lý (“Đừng làm tổn thương bất kỳ ai”), Lawrence khẳng định: “Công lý duy nhất là làm theo trực giác chân thành của linh hồn, dù giận dữ hay dịu dàng.”
Đây là nột tiểu luận vững chắc, nhưng nên lưu ý rằng, ngoài việc đưa ra một định nghĩa lạ kỳ và dễ dãi về công lý, Lawrence không hề hướng sự công kích của mình vào Franklin ngoài đời thực mà vào nhân vật ông sáng tạo ra trong Richard Nghèo khổ và Tự truyện. Hơn nữa, Lawrence đưa ra một số thông tin sai sót, trong đó có việc gán châm ngôn “Trung thực là chính sách tốt nhất” cho Franklin. Tuy có vẻ giống lời ông, thực chất nó là của Cervantes. Tương tự, đừng đếm đàn gà khi chưa nở là ý của Aesop.14
Lối tiếp cận của Lawrence được lặp lại trong một đòn công kích thực chất hơn, nói đúng ra là bớt kịch hơn, của Charles Angoff về thói tự mãn tư sản của Franklin trong cuốn Lịch sử văn chương của người Mỹ, xuất bản năm 1931. Angoff khẳng định, việc Carlyle gọi Franklin là cha đẻ của mọi người Mỹ là một sự phỉ báng với một dân tộc đã sản sinh ra các cây bút xuất sắc như Hawthorne và Thoreau. Angoff chế nhạo rằng “sẽ chính xác hơn nếu gọi Franklin là cha đẻ của tất cả các Kiwanis”* và hung dữ nói về thứ mà ông xem là “hạ cấp” trong tư tưởng của Franklin:
Franklin đại diện cho các phẩm chất ít đáng ca ngợi nhất của cư dân tân thế giới: hà tiện, thực tế đến cuồng tín và thiếu quan tâm đền những thứ thường được xem là thiêng liêng. Thói tự mãn tư sản không phải điều gì mới ở Mỹ, song ông ta đã biến nó thành một tôn giáo. Bằng thành công to lớn của mình nhờ nó, ông ta đã ghép nó lên người dân Mỹ một cách vững chắc đến nỗi thánh bổn mạng của quốc gia vẫn còn đau khổ vì nó... Không một lời về sự cao quý, không một lời về danh dự, không một lời về sự vĩ đại của tâm hồn, không một lời về thiện tâm!.. Franklin có một linh hồn rẻ tiền và tồi tàn và những cung bậc cao hơn của tâm hồn nằm ngoài tầm với của ông ta.15
Cuộc Đại Khủng hoảng thập niên 1930 nhắc nhở con người rằng, những đức tính cần mẫn, căn cơ, biết trợ giúp người khác và đảm bảo tính gắn bó của cộng đồng, không đáng bị coi là tầm thường và nhàm chán. Uy tín của Franklin một lần nữa đã trở lại. Trong cuốn Tâm hồn Thanh giáo, nhà triết học thực dụng Herbert Schneider chỉ ra các cuộc công kích trước đây chủ yếu nhắm vào những lời dạy của Richard Nghèo Khổ hơn là cách Franklin sống cuộc đời thật của mình, vốn không chăm chăm theo đuổi sự giàu sang vì lợi ích của chính nó.
Vào năm 1938, Carl Van Doren, một đồng nghiệp của Schneider tại Đại học Columbia, mở rộng thêm điểm này trong trong cuốn tiểu sử văn học vinh quang của ông về Franklin. “Ông đi qua thế giới này với một sự thấu hiểu đầy khôi hài về nó”, Van Doren kết luận. Và sử gia khoa học vĩ đại I. Bernard Cohen đã bắt đầu sự nghiệp trọn đời của mình bằng việc chỉ ra rằng, các thành tựu khoa học của Franklin khiến ông xứng đáng được đặt cùng đền thờ với Newton. Các thí nghiệm của Franklin “đem lại đủ cơ sở để lý giải tất cả hiện tượng của ngành điện”16, ông viết năm 1941.
Franklin cũng trở thành vị thánh bảo hộ của các động thái tự lực. Dale Carnegie từng học hỏi Tự truyện khi ông viết Đắc nhân tâm,* cuốn sách mà sau khi được xuất bản năm 1937 đã góp phần tạo nên một cơn sốt còn dai dẳng đến ngày nay với dòng sách viết về các quy tắc và bí mật đơn giản để thành công trong kinh doanh và trong cuộc đời. Như E. Digby Baltzell, một nhà xã hội học thuộc tầng lớp tinh hoa Mỹ, đã nhận định: Tự truyện của Franklin là “cẩm nang đầu tiên và vĩ đại nhất mà các Babbit có tham vọng nghề nghiệp từng viết ra.”17
Stephen Covey, giáo trưởng của dòng sách này, đã đề cập tới hệ thống của Franklin khi xây dựng cuốn sách bán chạy nhất của mình, 7 thói quen hiệu quả, và một chuỗi cửa hàng toàn quốc giờ đây bán “Sổ Kế hoạch FranklinCovey” và các văn phòng phẩm khác phác họa các ý tưởng của Franklin. Bước vào thềm thế kỷ 21, các giá sách tự lực của các hiệu sách chất đầy những cuốn với tựa đề như: Sách đạo đức của Ben: Kế hoạch đơn giản hàng tuần để thành công và hạnh phúc của Ben Franklin; 12 quy tắc quản trị Ben Franklin: Người cha sáng lập ra nền kinh doanh của nước Mỹ giải quyết những vấn đề khó khăn nhất của bạn; Nghệ thuật đạo đức của Benjamin Franklin: Công thức để sống thành công; Nhân tố Ben Franklin: Bán hàng trực tiếp; và Sức khỏe, Giàu có và Khôn ngoan: Các nguyên tắc sống thành công từ cuộc đời Benjamin Franklin.18
Trong giới học thuật, khi dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông đến gần, Franklin là chủ đề của những cuốn sách được yêu thích rộng khắp. Trong cuốn Người Mỹ đầu tiên, H. W. Brands (Đại học Texas A&M) đã miêu tả đầy cảm thông sự phát triển của nhân vật Franklin trong một tiểu sử trần thuật quân bình và chắc chắn. Ông kết luận: “Bên cạnh thiên tài, ông còn có đam mê với đạo đức.” Năm 2002, giáo sư lịch sử Sterling đã nghỉ hưu đáng kính của Đại học Yale, Edmund S. Morgan, đã có một bài phân tích nhân vật vô cùng sắc sảo sau khi đọc đầy đủ các trước tác của Franklin. Morgan tuyên bố: “Chúng ta có thể tìm thấy một con người có sự thông tuệ về bản thân, vốn chỉ đến với người có trái tim lớn.”19
Trong lối tưởng tượng được nhiều người ưa chuộng, Franklin bắt đầu được xem như một nhân vật vui vẻ, thay vì một nhà tư tưởng nghiêm túc được Hume ngưỡng mộ, hay một người thao túng chính trị làm Adams phẫn uất. Trong một thời đại nhiều khi tầm thường và không bị xáo trộn, với đầy những cái nháy mắt dục tính và tinh thần kinh doanh không trói buộc, Franklin bị cuốn vào tinh thần của nó. Ông trở thành một kẻ phóng đãng vui vẻ thâm nhập vào thuật trị quốc trong các vở kịch như 1776 và Ben Franklin ở Paris, một phát ngôn viên già vui vẻ về tất cả mọi thứ từ bánh quy cho tới các quỹ tương hỗ, và một nhà hiền triết hòa nhã mà các châm ngôn của ông được tạo ra để giải trí hơn là đe dọa các công nhân trẻ đầy khát vọng.
“Ngày nay chúng ta biết đến Benjamin Franklin chủ yếu qua hình ảnh quảng cáo cũ kỹ: một ông lão mặc quần cụt, khoác áo choàng, đeo mục kỉnh với một vương miện hói và mớ tóc dài trên đầu, một kẻ nhiệt tình ngốc nghếch quyết tâm thả diều dưới trời giông bão”, nhà sử học Alan Taylor đã viết. “Ông không còn khơi dậy sự tranh cãi hay nịnh hót, chỉ còn tiếng cười. Chúng ta chỉ lờ mờ cảm nhận được tầm quan trọng của ông trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 như tấm gương và khuôn mẫu cho các giá trị của tầng lớp trung lưu Mỹ.”20
Đối với nhà bình luận xã hội David Brooks thì phiên bản giảm nhẹ của Franklin là hiện thân của tinh thần kinh doanh và đạo đức Mỹ đầu thế kỷ 21. Theo Brooks, dù là một nhân vật lịch sử bước ra từ đền thờ Mỹ, “ông sẽ ngay lập tức thân quen với một khu văn phòng”.
Ông có thể tham dự vào dàn hợp xướng của tất cả những người đam mê kỹ thuật tin rằng Internet và công nghệ sinh học đột phá đang thay đổi cuộc sống trên trái đất một cách tuyệt vời; bởi ông chia sẻ niềm đam mê về sự tiến bộ. Đồng thời, ông sẽ hoàn toàn thân quen với sự mỉa mai và âu yếm nhẹ nhàng, hiện là giọng điệu đàm thoại thịnh hành trong các tòa nhà đó...
Còn sau đó, Franklin sẽ thân quen với nhiều người Mỹ đương đại. Ông sẽ thoải mái chia sẻ về các giá trị của tầng lớp trung lưu; ông lạc quan, vui tính, tốt bụng, và lỗi lớn nhất của ông là việc tự cho phép mình thỏa mãn. Người ta có thể dễ dàng hình dung ông đi chậm rãi qua một khu mua sắm đầy mê hoặc với sự phong phú vui tươi và lối tiếp thị khôn khéo. Cùng lúc đó, ông sẽ ngưỡng mộ mọi nỗ lực mà người Mỹ trẻ tuổi đặt vào các hoạt động dân sự và cách người Mỹ lớn tuổi dùng tôn giáo một cách có ích trong các tổ chức cộng đồng dựa trên đức tin.
Brooks kết luận rằng, Franklin đã bị tấn công không đẹp suốt nhiều năm bởi các nhà lãng mạn có đích ngắm thực sự là chủ nghĩa tư bản và đạo đức giới trung lưu. “Song ngày nay, vấn đề chủ đạo lại là chủ nghĩa Franklin thái quá và chúng ta phải tìm ra cách mang tới nước Mỹ hiện đại cảm giác bi thảm và vẻ nghiêm nghị đạo đức hết sức thiếu nơi vị Yuppie Sáng lập của nó.”21
CUỐN SỔ CÁIViệc bị cho là thiếu sự nghiêm nghị đạo đức và chiều sâu tâm hồn là cáo buộc nghiêm trọng nhất với Franklin. Trong cả đời sống và các tác phẩm của mình, ông đôi khi bày tỏ một sự thiếu vắng ràng buộc, nỗi đau khổ, chất thơ hay tâm hồn. Một câu ông viết cho em gái Jane năm 1771 đã nắm bắt được tính thỏa mãn và khô cạn niềm đam mê ấy: “Về tổng thể, anh có xu hướng thích thế giới như anh thấy nó và anh hoài nghi xét đoán của chính mình về việc nó sẽ được sửa chữa ra sao.”22
Đức tin tôn giáo của ông, nhất là trong giai đoạn đầu đời, đa phần là sự tính toán xem các tín điều tỏ ra hữu ích như thế nào với tín đồ, hơn là sự bộc lộ của lòng tin chân thành nội tại. Tự nhiên thần giáo thật hấp dẫn nhưng ông nhận ra nó không hoàn toàn hữu ích nên ông đã phê bình nó về luân lý và ít khi để tâm hồn mình vướng bận về ân sủng, sự cứu rỗi và thần tính của Ki-tô hay các vấn đề sâu sắc khác nếu chúng không phù hợp với câu hỏi thực tiễn. Ông thuộc về thái cực đối lập với các tín hữu Thanh giáo đi tìm kiếm linh hồn khổ hạnh. Bởi không có bằng chứng thực tế về một thứ gì được tạo cảm hứng thần thánh, thay vào đó, ông chấp nhận tín điều giản dị rằng, cách tốt nhất để phụng sự Chúa là làm việc tốt cho người khác.
Tương tự, niềm tin đạo đức của ông cũng trần tục và đơn sơ, tập trung vào những cách thức thực tế để làm lợi cho người khác. Ông ủng hộ các giá trị trung lưu của một chủ cửa hiệu và ít quan tâm tới việc truyền bá về các khát vọng đạo đức cao hơn. Ông chiến đấu với cái mà ông gọi là “lỗi in ấn” nhiều hơn với tội lỗi.
Là một nhà khoa học, ông có sự nhạy cảm với cơ chế vận hành của thế giới, nhưng ít đánh giá cao các lý thuyết trừu tượng hay siêu phàm. Ông là một nhà thực nghiệm vĩ đại và một nhà phát minh khéo léo, luôn nhấn mạnh vào những điều hữu ích. Nhưng ông thiếu cả khí chất lẫn sự đào tạo để trở thành một khái niệm gia uyên bác.
Trong hầu hết nỗ lực của tâm hồn và trí tuệ, sự vĩ đại của ông bắt nguồn từ tính thực dụng hơn là tính uyên bác hay chất thơ. Về khoa học, ông gần Edison hơn Newton, về văn chương, ông gần Twain hơn Shakespeare, về triết học, ông gần Tiến sĩ Johnson hơn Giám mục Berkeley, còn về chính trị, ông gần Burke hơn Locke.
Tương tự, trong đời sống cá nhân, ông cũng thiếu một sự cam kết về tâm hồn và nỗi đam mê sâu sắc. Ông lui tới nhiều tiền sảnh, nhưng ít ghé tới các buồng trong.* Tình yêu du ngoạn của ông phản ánh tinh thần của một người đã bỏ lại gia đình mình ở Boston khi còn trẻ, bỏ lại Deborah khi lần đầu nghĩ tới kết hôn và bỏ lại William ngay trước đám cưới của anh. Suốt cuộc đời, ông ít có các sợi dây tình cảm trói buộc ông với bất cứ nơi chốn nào và dường như đã đi lướt qua thế giới theo cùng một cách mà ông lướt qua các mốt quan hệ.
Các mối quan hệ với nam giới của ông kết thúc tồi tệ: anh trai James, các bạn John Collins, James Ralph, các đối tác trong nghề in Samuel Keimer và Hugh Meredith. Ông là một người hòa đồng, thích các bang hội đem lại những cuộc thảo luận và hoạt động có tính khai sáng, song tình bạn ông thiết lập với bằng hữu nam giới thiên về sự niềm nở hơn là thân mật. Ông có tình cảm ân cần với vợ mình, nhưng không đủ tình yêu để cản bước ông dành 15 trong 17 năm cuối của cuộc hôn nhân giữa họ ở một nơi cách xa bà một đại dương. Với bà, ông có một mối quan hệ thực tế - cũng giống như với trường hợp bà chủ nhà của ông ở London, Margaret Stevenson. Với nhiều phụ nữ ngưỡng mộ ông, ông thích tán tỉnh hơn là tạo ra những cam kết nghiêm chỉnh và sẽ rút lui về một sự thờ ơ khôi hài khi có bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào. Mối quan hệ nồng nàn nhất của ông là với con trai William, song ngọn lửa đó rốt cuộc đã hóa thành băng. Chỉ với cháu trai Temple, ông thể hiện một tình cảm không trộn lẫn.
Dù ông công khai thể hiện niềm tin về giá trị của sự thành thật, ông cũng có thể tỏ ra thâm hiểm. Ông viết câu chuyện hư cấu đầu tiên khi 16 tuổi và câu chuyện cuối cùng khi ở trên giường bệnh; ông đã lừa dối chủ của mình, Samuel Keimer, khi lên kế hoạch phát hành một tờ báo; ông hoàn thiện sự gián tiếp như một kỹ xảo hội thoại và tận dụng cả bề ngoài của sự đức hạnh lẫn thực tế của nó. “Tại một nơi và vào một thời kỳ mà người ta tung hô sự thành thật song vẫn hành xử thiếu thành thật, Franklin dường như giỏi giang quá mức ở về sau”, Taylor nhận xét. “Do tính trơn tru và các chiến thuật đổi vai của mình, Franklin mời gọi những sự hoài nghi vượt xa ý định đánh lừa thực tế của ông.”
Tất cả những điều đó đã dẫn đến một vài sự phê bình khiến ngay cả các hoạt động hoàn thiện công dân của ông cũng bị gạt đi vì bị xem là các khát vọng thế tục của một tâm hồn nông cạn. Sự sùng bái lối chỉ trích như thế xuất hiện trong cuốn Những dòng chính trong tư tưởng Mỹ của Vernon Partington:
Một người chẳng quan tâm đến những vỉa hè vàng nơi Thành phố của Chúa nhiều bằng việc các viên đá trên Phố Chestnut tại Philadelphia nên được xếp đẹp và đều ra sao. Một người chẳng bận tâm về việc cứu chuộc linh hồn mình khỏi bị thiêu cháy sau này nhiều bằng việc bảo vộ ngôi nhà của láng giềng thông qua tổ chức một nhóm cứu hỏa năng nổ. Một người chẳng quan tâm tới thứ ánh sáng không bao giờ có trên biển hay trên đất liền nhiều bằng một đèn đường kiểu mới để soi sáng những bậc thang cho một lữ khách đường khuya. Rõ ràng, một người như thế không phản ánh bản chất đầy đủ của khát vọng làm người.24
Chính việc Parrington cao ngạo dùng từ “rõ ràng” đã cho chúng ta một xuất phát điểm tốt để bảo vệ Franklin. Rõ ràng có lẽ là với Partington và những người khác có sự nhạy cảm tinh tế và đóng góp của họ không trần tục như thư viện, đại học, đội cứu hỏa, kính hai tròng, bếp lò, cột thu lôi hoặc về một vấn đề khác - các hiến pháp dân chủ. Thái độ khinh thị ấy một phần là do sự khao khát những lý tưởng cao cả hơn đôi khi có thể thiếu vắng nơi tâm hồn Franklin. Nhưng một phần nó cũng là sự xem nhẹ đối với các mối quan tâm thế tục và các giá trị của tầng lớp trung lưu mà ông để cao.
Vậy chúng ta, trong vai trò một người cầm sổ cái mà Franklin chắc hẳn sẽ mong muốn, phải cân đối cuốn sổ ấy một cách công tâm như thế nào? Như ông từng làm trong phiên bản tính toán đạo đức của chính mình, chúng ta có thể liệt kê tất cả các Ưu điểm về một bên và xác định xem chúng có lớn hơn các Nhược điểm không. Tôi tin là có.
Đầu tiên, chúng ta cần giải cứu Franklin khỏi hình lối vẽ biếm họa rất giáo khoa về một ông già vui tính nào đó thả diều dưới cơn mưa và gieo những châm ngôn thô mộc về một đồng tiết kiệm là một đồng có thêm. Chúng ta cũng cần giải cứu ông khỏi giới phê bình, những người thường nhầm lẫn ông với nhân vật được ông đã thận trọng phác họa trong cuốn Tự truyện của mình.
Khi Max Weber nói nền tảng đạo đức của Franklin chỉ dựa trên việc kiếm thêm nhiều tiền hơn nữa; và khi D. H. Lawrence đã dồn ông trở thành một con người phải dè xẻn từng đồng xu và đạo đức của mình, họ đã để lộ một sự thiếu hiểu biết dù chỉ thoáng qua về hình ảnh một con người nghỉ kinh doanh từ tuổi 42, tận tâm cống hiến cho các nỗ lực dân sự và khoa học, không màng đến phần lớn bổng lộc công vụ, từ chối việc lấy bằng sáng chế cho các phát minh của mình và kiên định với lập trường rằng tích lũy của cải dư thừa và chìm đắm trong xa hoa phù phiếm một cách trì trệ là việc không nên được xã hội tán thành. Franklin không coi việc năng nhặt chặt bị là cái đích cuối cùng mà chỉ là con đường qua đó các thương nhân trẻ có thể bộc lộ các đức tính cao quý hơn như tinh thần cộng đồng và bổn phận công dân của họ. “Rất khó để một túi rỗng có thể đứng thẳng lên”, cả ông và Richard Nghèo Khổ đều khẳng định như vậy.
Thay vào đó, để đánh giá Franklin thật đúng đắn, ta cần nhìn nhận ông trong chính sự phức tạp của ông. Ông vốn không phải một người phù phiếm, nông cạn hay đơn giản. Có rất nhiều tầng lớp mà chúng ta cần bóc tách khi ông đứng trước chúng ta với sự che đậy rụt rè với cả lịch sử và với bản thân ông như một nhân vật trần trụi không được điểm tô bởi mái tóc giả hay sự khoe mẽ nào khác.
Hãy bắt đầu với lớp trên bề mặt, một Franklin trong vai trò một cây cột thu lôi hút những tia sét của Thần Sấm Chớp từ những người coi thường các giá trị của tầng lớp trung lưu. Có vài điều để nói - và Franklin đã nói rất hay và thường xuyên - về các đức tính của cá nhân của sự cần mẫn, trung thực, chăm chỉ và chừng mực, nhất là khi các đức tính ấy được xem như phương tiện để hướng tới một cái đích cao thượng và nhân từ hơn.
Điều đó cũng đúng khi nói về các đức tính công dân mà Franklin đã luôn thực hành và rao giảng. Các hiệp hội cải thiện cộng đồng của ông và các nỗ lực công cộng khác giúp tạo ra một trật tự xã hội thúc đẩy lợi ích chung. Rất ít người từng làm việc vất vả hay làm được nhiều đến thế để khắc sâu các đức tính và tính cách đó trong chính bản thân họ và cộng đồng của họ.27
Liệu các nỗ lực ấy có trần tục như Parrington và một số người khác cáo buộc? Có thể một phần nào đó, tuy vậy trong cuốn tự truyện của ông, sau khi kể lại nỗ lực lát các đường phố Philadelphia, Franklin đã đưa ra một sự phản biện hùng hồn trước những lời phỉ báng như thế:
Một vài người có thể nghĩ những chuyện nhỏ mọn này chẳng đáng đề tâm hay nhắc tới; nhưng khi họ thấy rằng dù bụi bay vào mắt một người hay vào một cửa hiệu nào đó trong một ngày trời gió chỉ là vấn đề nhỏ, nhưng với số nhiều trường hợp ở một thành phố đông dân cư và cứ lặp đi lặp lại thường xuyên như thế, có lẽ họ sẽ không chỉ trích cay nghiệt những người để tâm đến các vấn đề tưởng chừng tầm thường ấy. Hạnh phúc của con người được tạo nên không phải từ các mảnh vận may lớn hiếm khi xảy ra, mà từ các lợi ích nhỏ họ được hưởng từng ngày.28
Tương tự như vậy, dù một đức tin tôn giáo dựa trên sự nhiệt thành có thể rất truyền cảm hứng song một quan điểm tôn giáo dựa trên sự khiêm nhường và cởi mở cũng rất đáng đề cao. Charles Angoff đã cáo buộc rằng “đóng góp chủ yếu của ông cho câu hỏi về tôn giáo không nhiều hơn sự bao dung tốt đẹp.” Vâng, có thể là như thế nhưng trong thực tế, ý niệm về sự khoan dung tôn giáo tốt đẹp là một bước tiến không hề nhỏ của nền văn minh thế kỷ 18. Đó chính là một trong những đóng góp vĩ đại nhất của kỷ nguyên Khai sáng, có tính thiết yếu hơn tất cả mọi cống hiến của phần lớn các nhà thần học đương thời.
Với cuộc đời và các tác phẩm của ông, Franklin đã trở thành một người đề xướng ưu tú của tín ngưỡng khoan dung. Ông đã phát triển nó với sự hài hước tuyệt vời qua những câu chuyện của mình và với sự sâu sắc nghiêm túc nhất trong cuộc sống và những lá thư của ông. Trong một thế giới mà khi đó (than ôi, cũng như bây giờ) đẫm máu vì những kẻ tìm cách áp đặt chính trị thần quyền, ông đã giúp tạo nên một kiểu quốc gia mới có thể thu được sức mạnh từ sự đa tôn giáo. Như Garry Wills lập luận trong cuốn Bên dưới Chúa, điều đó “hơn bất cứ điều gì khác, đã làm cho Mỹ trở thành một thứ mới mẻ trên trái đất này”.29
Franklin cũng có một đóng góp tôn giáo tinh tế hơn: ông đã chắt lọc tinh thần cần cù Thanh giáo từ những tín điều cứng nhắc của giáo phái này. Với sự khinh thị dành cho các giá trị trung lưu, Weber xem nhẹ đạo đức Thanh giáo còn Lawrence cảm thấy phiên bản giải thiêng nó của Franklin không đủ làm thỏa mãn linh hồn u tối. Tuy vậy, đạo đức này có tầm quan trọng khi truyền dẫn đạo đức và tính cách đã xây dựng nên nước Mỹ. John Updike, người có các tiểu thuyết khám phá các chủ đề này, viết: “Ông đã tái tạo phần Thanh giáo trong mình thành một nhà tư sản nhiệt thành và chắc chắn đây là vai trò chính của ông với tâm lý Mỹ: sự giải phóng những nguồn năng lượng bị gò bó dưới chủ nghĩa Thanh giáo để tiến vào thời đại Khai sáng.” Như Henry Steele Commager từng tuyên bố trong Tâm hồn Mỹ: “Bên trong Franklin có thể là sự hòa quyện giữa các đức tính của chủ nghĩa Thanh giáo loại trừ đi các khiếm khuyết của nó và sự soi sáng của thời kỳ Khai sáng loại trừ đi sức nóng của nó.”30
Vậy, Franklin có xứng đáng với danh hiệu “triết gia đầu tiên” của Mỹ mà David Hume, vĩ nhân cùng thời với ông, trao tặng? Trong một chừng mực nào đó, ông xứng đáng. Việc gỡ rối giá trị đạo đức ra khỏi thần học là một thành công quan trọng của thời kỳ Khai sáng và Franklin là hiện thân của thời kỳ này ở Mỹ. Hơn nữa, qua việc liên hệ đạo đức với các hệ lụy của con người trong cuộc sống thường ngày, Franklin đã đặt nền tảng cho triết lý nội địa có sức ảnh hưởng lớn nhất tại Mỹ - chủ nghĩa thực dụng. Như James Campbell viết, tư tưởng đạo đức và tôn giáo của Franklin, khi được xem xét trong bối cảnh các hành vi của ông, “trở thành một lớp phòng vệ triết học kiên phục vụ cho việc thúc đẩy lợi ích chung.” Những thứ còn thiếu sót trong sự sâu sắc về tinh thần đã được bù lại bằng thực tiễn và sự công hiệu.31
Còn về cáo buộc rằng Franklin là một người quá thỏa hiệp thay vì một anh hùng của nguyên tắc? Quả thật, ông đã đóng cả hai vai trong một vài năm của thập niên 1770, khi cố gắng hòa giải Anh và Mỹ. Và đúng là ông có phần yếu ớt trong việc đương đầu với Đạo luật Tem. Khi còn là một thương nhân trẻ, ông đã tự dạy mình tránh các tranh luận mang tính công kích và thói quen mỉm cười tử tế của ông khi lắng nghe mọi người khiến ông nhiều lúc có vẻ dối trá hoặc ám chỉ.
Nhưng một lần nữa, cần phải nói chút ít về tầm nhìn, chủ nghĩa thực dụng và tính thường xuyên sẵn sàng thỏa hiệp của Franklin. Ông tin rằng cần có sự khiêm nhường để mở lòng với các ý kiến trái chiều. Vì ông, đó không chỉ đơn thuần là một giá trị thực tế, mà còn là một giá trị đạo đức. Nó dựa trên nguyên tắc vô cùng quan trọng đối với đa số mọi hệ thống đạo đức: mọi cá nhân đều xứng đáng được tôn trọng.
Thí dụ, tại Hội nghị Lập hiến, ông đã sẵn sàng thỏa hiệp một số đức tin của mình để giữ vai trò chủ chốt trong việc hòa giải, nhờ đó tạo ra một văn kiện tiệm cận sự hoàn hảo. Điều này không thể thực hiện được nếu hội trường khi ấy chỉ toàn những kẻ hiếu chiến cố thủ với các nguyên tắc cứng nhắc của họ. Những người thỏa hiệp có thể không tạo nên các anh hùng vĩ đại nhưng chính họ đã tạo nên nền dân chủ.
Quan trọng hơn, Franklin thực sự tin tưởng một cách không khoan nhượng vào một số nguyên tắc tối cao mà ông đã trung thành trong suốt đời mình - các nguyên tắc rất quan trọng định hình nên quốc gia này. Học được từ anh trai mình sự phản kháng với quyền lực định sẵn, ông chưa từng dao động khi chống lại chính quyền độc đoán. Điều đó khiến ông không hề nao núng với việc chống đối các chính sách thuế bất công mà nhà Penn cố gắng áp đặt, cho dù điều đó có thể bất lợi cho bản thân ông. Nó cũng có nghĩa là, mặc dù ông đã cố gắng tìm cách thỏa hiệp với Anh trong suốt những năm 1770, ông vẫn luôn giữ vững nguyên tắc công dân Mỹ và các cơ quan lập pháp của họ không thể bị xem là những đối tượng thần phục.
Tương tự, ông đã giúp tạo nên, sau đó trở thành biểu tượng của một trật tự chính trị mới trong đó các quyền và quyền lực không dựa trên sự thừa kế ngẫu nhiên mà dựa trên tài năng, đạo đức và sự chăm chỉ. Ông đã dựng lên một nấc thang xã hội, từ một cậu thợ học việc bỏ trốn tới chính khách ăn tối với các hoàng đế, theo một cách sẽ trở nên thuần túy kiểu Mỹ. Song trong khi thực hiện điều đó, như một vấn đề thuộc về nguyên tắc, ông kiên quyết chối bỏ, đôi khi đến mức xù lông cực đoan, đón nhận các yêu sách có màu sắc ưu chủng.
Niềm tin của Franklin về việc phụng sự Thiên Chúa bằng cách phụng sự đồng loại có thể bị một số người xem là trần tục, nhưng đó thật sự là một tín điều đáng giá mà ông tin cẩn sâu sắc và nhất mực làm theo. Ông tỏ ra khá linh hoạt trong cách phụng sự ấy. Ông thiết kế ra cơ quan lập pháp và cột thu lôi, xổ số và thư viện cho mượn sách. Ông đã tìm ra những cách thức thực tế để khiến bếp lò xả ít khói hơn và các quốc gia bớt hủ bại. Ông đã tổ chức lực lượng cảnh sát khu vực và các liên minh quốc tế. Ông đã kết hợp hai mắt kính để tạo nên kính hai tròng và kết hợp hai khái niệm về đại diện để thúc đẩy thỏa hiệp liên minh của đất nước. Như một bằng hữu của ông - chính khách người Pháp Turgot - đã nói trong lời châm chọc hóm hỉnh nổi tiếng, Eripuit coelo fidmen sceptrumque tyrannis, ông đã giật sét từ bầu trời và vương trượng từ các bạo chúa.
Tất cả những điều này khiến ông trở thành người Mỹ xuất sắc nhất trong thời đại của mình và ảnh hưởng sâu sắc nhất tới việc kiến tạo một khuôn mẫu xã hội mà nước Mỹ sẽ trở thành. Thực tế, gốc rễ của hầu hết những gì làm nên sự khác biệt của quốc gia này có thể được tìm thấy ở Franklin: sự hài hước mộc mạc và óc khôn ngoan; sự tinh xảo của công nghệ; sự bao dung đa nguyên; khả năng kết nối chủ nghĩa cá nhân với sự hợp tác cộng đồng; triết học thực dụng; sự tán dương việc thăng tiến dựa vào thực tài; nét lý tưởng hóa ăn sâu trong chính sách đối ngoại; và các đức tính Phố Main hay Phố Chợ đóng vai trò như nền tảng của các giá trị công dân. Franklin là người theo chủ nghĩa quân bình ở một nghĩa đã trở thành kiểu Mỹ: đồng tình với việc các cá nhân làm giàu nhờ vào sự chuyên cần và tài năng của họ, và đồng thời cũng phản đối việc trao đặc quyền cho ai đó dựa trên gốc gác của họ.
Ông có xu hướng tập trung vào cách thức các vấn đề thông thường ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của con người ra sao và làm thế nào để những con người bình thường có thể tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn. Song điều đó không hề khiến ông trở thành một con người tầm thường, cũng không hề phản ánh sự nông cạn. Trái lại, tầm nhìn về cách thức tạo lập một quốc gia kiểu mới của ông quả thực có tính cách mạng và sâu sắc. Dù không sử dụng mọi lý tưởng siêu việt hay thi vị, ông đã sử dụng những gì thực tế và hữu dụng nhất. Đó là mục tiêu của ông và là một mục tiêu đáng giá.
Qua tất cả những điều trên, ông đã tin tưởng trái tim và khối óc của những đồng loại mang tạp dề da của mình hơn tất thảy những người thuộc giới tinh hoa thuần túy. Ông coi các giá trị trung lưu là nguồn gốc của sức mạnh xã hội chứ không phải là thứ gì đáng bị chế giễu. Nguyên tắc dẫn đường của ông là “không thích bất kì thứ gì có xu hướng làm giảm giá trị tinh thần của người bình dân”. Rất ít nhà lập quốc cùng thời với ông cảm thấy thoải mái với nền dân chủ hoàn toàn và trực quan đến vậy.
Từ năm 21 tuổi, khi ông lần đầu tập hợp Hội Kín của mình, Franklin đã giữ một lý tưởng căn bản bằng sự kiên định vững vàng và nhiều khi thật anh hùng: một niềm tin vào trí tuệ của người bình dân, biểu lộ sự trân trọng nền dân chủ và phản đối mọi hình thức bạo quyền. Đó là một lý tưởng cao quý, nó siêu việt và thi vị theo cách rất riêng.
Và lịch sử đã chứng tỏ rằng đó hóa ra cũng đồng thời là một lý tưởng thực tiễn và hữu dụng.*
Chú thích: