1. Cuộc Phục Kích Bất Thành (2)
Chàng lực sĩ chưa kịp cất tiếng hỏi thì, sau hàng song sắt Lê Thế Hùng đã hớn hở cất tiếng chào mừng:
- Kính chào tráng sĩ. Tôi rất đội ơn được người ra tay giải cứu, và thành thật khen tặng tráng sĩ, vì từ xưa đến nay trong đời tôi, tôi quả chưa bao giờ trông thấy một bực kỳ tài như thế. Lúc nãy được chứng kiến tận mắt, tráng sĩ trổ thần oai tiêu diệt trong nháy mắt lũ lang sói của Trịnh Tùng, tôi tuy bó tay ngồi trong cũi này, nhưng lòng cũng nôn nao khoan khoái như chính mình đang dự chiến bên cạnh tráng sĩ vậy.
Sau một chuỗi cười thẳng thắn, sang sảng như tiếng chuông đồng, chàng lực sĩ đáp:
- Túc hạ quá khen. Tôi bất quá cũng như bao nhiêu kẻ khác, chỉ biết làm nhiệm vụ của một người trai đất Việt, giữa thời ly loạn nhiễu nhương: ấy là can thiệp vào những chuyện bất bình trong xã hội, cứu người cô thế, trừ kẻ hung tàn.
Ngừng một lát, chàng tiếp:
- Tiện đây tôi xin phép được hỏi túc hạ một đôi điều mà tôi rất nóng lòng muốn biết: ấy là quý danh tánh và nhứt là nguyên nhơn gì khiến túc hạ sa vào tay đám kỵ binh của chúa Trịnh?
Thế Hùng vui vẻ xưng tên họ của mình và vắn tắt thuật rõ đầu đuôi mọi việc đã xảy ra từ hồi khuya. Chàng lực sĩ chăm chú lắng tai theo dõi câu chuyện, mặt hầm hầm đầy nội khí khi nghe kể đến những thủ đoạn tàn ác và ám muội của bọn Trịnh Tùng, Trương Báo và Nguyễn Hữu Liên.
Như chợt nhớ ra chuyện quan trọng, chàng vùng nói:
- Chết nỗi! Xin công tử tha lỗi. Nãy giờ ham hỏi chuyện, tôi quên cả việc lo tháo cũi để đem công tử ra. Chúng ta phải hành động gấp, vì rất có thể Nguyễn Hữu Liên sẽ trở lại đây với binh cứu viện của viên trấn thủ Nghệ An, để trả thù.
Thế Hùng gật đầu:
- Tráng sĩ dạy chí lý. Nhưng hiện giờ mở cái cũi nầy có hơi bất tiện vì chìa khóa của nó ở trong tay Nguyễn Hữu Liên.
Chàng giang hồ lực sĩ mỉm cười:
- Không sao! Công tử chớ lo, tôi đã có cách.
Dứt lời, chàng nhảy thót lên tù xa, giơ hai bàn tay vạm vỡ, nắm lấy hai song sắt trước mặt mình rồi nghiến răng kéo ra theo hai chiều ngược hẳn nhau.
Dưới sức mạnh phi thường của chàng, hai thanh sắt cứng ngắt bỗng nhiên cong vòng lại như một vật gì mềm dẻo lạ lùng, để lộ ra một lỗ hổng khá lớn, vừa đủ cho một người chui lọt, trong khi toàn thể chiếc cũi chuyển lên nghe răng rắc.
Như vậy, chàng lực sĩ không cần phải mất công phá chiếc cũi thêm nữa. Chàng chỉ đưa hai cánh tay qua lỗ hổng lớn giữa hai thanh sắt vừa bẻ cong, nhẹ nhàng ôm lấy người bị giam, và từ từ kéo ra.
Đoạn chàng dìu Thế Hùng bỏ xuống tù xa, đặt ngồi trên thảm cỏ và tìm cách cởi trói cho vị Công tử.
Nhưng, cũng như chiếc cũi, xích sắt cột nơi tay và nơi chân của Thế Hùng đều bị khóa chặt, không dễ gì mở ra được. Chàng lực sĩ cầm lấy hai tay của chàng thanh niên, nâng lên, day qua, trở lại để ngắm nghía chiếc xích sắt, rồi bảo:
- Công tử ráng chịu đau một tí nhé!
- Dạ, thưa tráng sĩ, không sao.
Thế Hùng vừa đáp xong, thì sợi dây xích bắt đầu xoay rổn rảng một vòng nghịch hướng với nhau, khiến hai cổ tay chàng cũng phải xoay theo.
Rồi thình lình, sợi xích sắt tung ra làm hai đoạn với một tiếng “rắc” dòn tan, chát chúa trong hai bàn tay gân guốc của chàng lực sĩ.
Chàng thanh niên hết sức kinh dị, giương cặp mắt sửng sốt nhìn ân nhân mình không chớp. Chàng rất lấy làm thán phục sức mạnh phi thường của người giang hồ mãi võ mà chàng được gặp lần thứ nhứt trên đời. Thật vậy, bẻ cong song sắt, bẻ gãy xích sắt, đối với chàng lực sĩ kia, chỉ là một trò đùa, tương tợ như lấy đồ trong túi. Càng lạ hơn nữa, là sau khi làm xong những công việc ấy, chàng vẫn thư thái không tỏ ra chút vẻ gì mệt nhọc.
Như vậy, vẫn thái độ ung dung và bình thản ấy, người lực sĩ tiếp tục bẻ gãy nốt sợi xích sắt nơi hai chưn của Thế Hùng, hoàn toàn giải thoát cho chàng thanh niên.
Tìm thấy lại sự tự do yêu quý, Thế Hùng rất mừng rỡ và cảm động, toan sụp lạy tạ ơn kẻ cứu mạng cho mình, thì chàng lực sĩ đã vội vàng ngăn lại, thân mật đặt tay lên hai vai Thế Hùng, chàng ôn tồn bảo:
- Công tử ạ, chúng ta nên dẹp qua một bên những lễ nghi khách sáo không được tự nhiên và không phù hợp với những tâm hồn trai trẻ, đầy nhiệt huyết. Hôm nay, chúng ta, hai bạn giang hồ đồng chí hướng, tình cờ gặp gỡ nhau và cảm mến nhau. Ấy thật là một cuộc hạnh ngộ may mắn cho cả hai bên. Vậy tôi có điều nầy thành thật xin đề nghị: Nếu công tử không chối từ, chúng ta sẽ kết làm anh em, đồng sanh, đồng tử với nhau có được hay chăng?
Ý kiến ấy được Thế Hùng nhiệt liệt hoan nghênh. Chàng sung sướng ôm chầm lấy người lực sĩ:
- Ồ, nếu thế thì còn gì quý báu bằng. Tôi đang mơ ước được gần tráng sĩ để học hỏi võ nghệ cao cường và đức tánh hào hùng nghĩa liệt của tráng sĩ, nay đột nhiên được ân nhân hạ cố nhận làm anh em, quả thật là một việc quá sức tưởng tượng của tôi.
Không giấu được nỗi vui mừng, chàng lực sĩ hỏi người đối thoại:
- Công tử tuy còn trẻ mà đã tỏ ra là người có chí khí khác thường. Vậy chẳng hay niên kỷ của công tử năm nay được bao nhiêu?
- Dạ, tôi mới được hai mươi tuổi. Thế Hùng đáp.
Chàng lực sĩ mỉm cười:
- Công tử thua tôi tới tám tuổi. Tôi họ Bùi tự là Văn Khuê, vốn xuất thân từ một gia đình bần nông, ở Tổng Yên trường phủ Hưng Nguyên, trấn Nghệ An nầy. Nếu công tử không ngại về chỗ bất đồng đảng về giai cấp, phân chia sang hèn, thì xin cho phép tôi được nhận công tử là em nuôi…
Chàng chưa nói dứt, đã bị Thế Hùng ngắt lời:
- Chết nổi! Xin tráng sĩ đừng chấp nệ về thành kiến sai lầm ấy. Được phép tôn tráng sĩ làm anh đó là một vinh hạnh hết sức lớn lao đối với hạng thiếu niên tài hèn sức mọn như tôi. Nhơn tiện, từ nay, tôi cũng xin phép tráng sĩ thôi gọi tôi bằng hai tiếng “công tử” nữa. Đã là anh em, chúng ta nên đổi lại cách xưng hô cho tự nhiên và thân mật.
Bùi Văn Khuê cười xòa, tán thành:
- Phải đấy! Phải đấy công tử… ủa quên hiền đệ nói rất chí lý…
Ngừng một lát, đưa mắt nhìn khắp một lượt chung quanh chàng lại tiếp:
- Đáng lẽ chúng ta phải mở một tiệc rượu để long trọng ăn mừng cuộc kết nghĩa giữa anh em ta ngày hôm nay, song vì thì giờ cấp bách, nên buộc lòng phải hoãn lại một ngày khác.
Hiện thời, chúng ta phải lập tức lánh khỏi nơi nầy nếu không muốn phải chạm trán với đám quân cứu viện của Nguyễn Hữu Liên sắp kéo tới đây, và luôn thể, đi tìm xác của Hoàng Đế Anh Tôn, của Đặng Ngự Sử và dấu vết của hai vị hoàng tử hiện đang bị bọn chúng bắt giam.
Thế Hùng gật đầu đồng ý, nhưng chàng nhíu mày suy nghĩ và lẩm bẩm:
- Điều hơi khó, là không rõ chúng đã hạ sát nhà vua và cậu ruột em tại chỗ nào?
- Có khó gì! Bùi Văn Khuê đáp – chúng ta cứ tra hỏi bọn lính của Trịnh Tùng bị trọng thương còn nằm rải rác gần đây, tất nhiên thế nào cũng có đứa biết!
Dứt lời, chàng cúi xuống đất, lượm thanh gươm của Trương Bảo (đã bị tử trận) trao cho họ Lê và dắt vị công tử tiến đến bên cạnh một tên kỵ binh đang đưa tay ôm chặt lấy vết thương rớm máu nơi hông nằm dãy dụa trên la trên đám cỏ.
Chợt thấy hai tráng sĩ lại gần, hắn khiếp đảm, run cầm cập chắp tay lạy lia lịa, xin dung mạng.
Bùi Văn Khuê dí mũi kiếm vào cổ hắn, nghiêm nghị quát:
- Nếu mi muốn được sống thì phải khai rõ sự thật: Bọn Nguyễn Hữu Liên đã giết thác Hoàng đế và Đặng Ngự Sử và giấu xác tại đâu? Còn hai vị hoàng tử hiện bị chúng giam giữ ở nơi nào? Hãy khai mau.
Tuy vết thương nơi hông rất sâu đã khiến máu ra quá nhiều song bản năng tự vệ vẫn còn rất mạnh nơi con người hoi hóp mà vẫn còn tham sống.
Tên lính ấp úng đáp, qua hơi thở thều thào:
- Dạ… thưa… tráng… sĩ tôi… tôi… có… có… biết… việc… ấy… vì tôi có… theo hộ tống… chiếc kiệu chở nhà vua đi.
Chàng lực sĩ giục:
- Không được kể dài dòng. Phải nói mau và vắn tắt, chúng ta không thể chờ đợi lâu.
Tên lính mệt nhọc từ từ đưa tay chỉ về hướng tây và uể oải tiếp:
- Nhà vua bị thắt cổ chết hồi sáng nay tại vườn mía ở đằng kia, cách xa đây chừng năm trăm thước. Quan Ngự sử thì bị giết chết tại chỗ khác nhưng thi hài cũng đem đến vứt bỏ tại đó. Còn riêng hai vị hoàng tử hiện bị giam giữ tại một cái hầm bí mật trong quán rượu nơi mà nhà vua đã vào nghỉ chơn hồi ban mai và sa vào cạm bẫy.
- Được rồi!
Bùi Văn Khuê vừa buông rơi hai tiếng trên đây vừa ấn mạnh mũi kiếm vào cổ tên Kỵ binh của chúa Trịnh. Thêm một tia máu vọt phun lên. Tên lính chết không kịp trối.
Thế Hùng hơi lấy làm lạ, nhìn bạn hỏi:
- Vừa rồi, đại ca đã hứa dung mạng cho hắn nếu hắn chịu khai rõ sự thật kia mà?
Văn Khuê cười khanh khách:
- Hiền đệ quá thật thà đến đổi quên cả việc đề phòng mọi hiểm nghèo sẽ xẩy ra cho chúng ta. Này nhé! Nếu để cho tên lính nầy sống thì lát nữa khi bọn Hữu Liên trở lại, hắn sẽ thuật rõ cho chủ tướng hắn biết việc tra gạn nầy, và do đó, quân nghịch sẽ dễ dàng đoán ra hành động của chúng ta và tìm cách vây bắt hay cản trở chúng ta vậy. Vì lẽ ấy tôi buộc lòng phải xuống tay để diệt trừ mối hậu hoạn.
Lê công tử gật đầu khen phải.
Chàng lực sĩ tiếp:
- Bây giờ hiền đệ hãy phụ lực với ta lột nhung phục của hai tên lính tử thương này ra.
- Để làm gì vậy đại ca? Thế Hùng tò mò hỏi.
Văn Khuê đáp rất nhanh:
- Để dành vì sắp cần dùng tới. Rồi đây hiền đệ sẽ biết.
Dứt lời chàng cuối xuống nâng thi hài của tên lính vừa chết ngồi lên và nhờ Thế Hùng lẹ tay cởi hết lớp nhung trang kỵ binh đang khoác trên mình của nạn nhơn.
Xong, cả hai lại đi tìm một tử thi của một người lính khác nằm kế đó, và cũng làm y hệt như trên. Đoạn, với hai bộ võ phục vừa đoạt được, Bùi Văn Khuê và Lê Thế Hùng leo lên hai con ngựa vô chủ mà đám quân bại trận đã để lại trên bãi chiến và ra roi quất mạnh.
Trong chớp mắt, hai con vật quăng mình phi nước đại, nhắm hướng tây trực chỉ, đem theo hai chàng hiệp sĩ mà bóng dáng hiên ngang, kêu dõng khuất dần sau đám bụi mù trời…
Dưới nắng chiều tà đang phủ lên cảnh vật màu vàng héo úa và bệnh hoạn, khu vườn mía hoang phế hẻo lánh ở phía tây Phú Diễn hiện ra như một đám rừng con rậm rạp um tùm.
Hai tráng sĩ phải xuống ngựa, buộc hai con vật vào một gốc cây gần đó, rồi cùng nhau len lỏi tiến vào trong sườn. Chung quanh họ, không một bóng người. Tiếng sột soạt của cành lá dưới bước chân đều đều của họ, có âm hưởng khô khan, tức tưởi nghe rờn rợn như từ một thế giới âm u nào vọng lại.
Trầm ngâm lặng lẽ, cả hai vừa đi vừa dáo dác nhìn khắp mọi nơi. Họ không phải tìm kiếm lâu vì kia kìa! Trước mặt họ, một cái thây ma đã hiện ra, cổ cột vào một cành cây cao, treo tòn ten lơ lửng.
Đó là xác chết của Lê Anh Tôn Hoàng đế. Mặt tái nhợt, tóc rũ rượi, lười thè ra, đầu nghẽo về một bên, tay chơn co rút lại, nhà vua chết đi đã lưu lại cho đời một hình ảnh khủng khiếp đau thương; gần đó, kế dưới chân cái thây ma chết treo là một thi hài khác, lưng tựa vào gốc cây, hai chân dang ra, hai tay buông thỏng, đầu gục xuống như sắp ngả về đằng trước. Ấy là xác chết của Ngự sử Đặng Phương. Khác với nhà vua, vị lão quan đã bị đầu độc mà thiệt mạng trước khi bị đem vứt xác tại đây.
Tuy vốn là những tay anh hùng gan dạ phi thường, nhưng hai chàng tráng sĩ không khỏi rùng mình trước một cảnh tượng vừa kinh khủng, vừa đau xót ấy. Nhứt là Thế Hùng, không thể nào cầm lòng được trước tình cốt nhục và nghĩa chúa tôi. Chàng òa lên khóc rồi phục xuống trước hai cái tử thi mà nức nở.
Bùi Văn Khuê cũng từ từ quỳ xuống sụp lạy sau lưng bạn để san sẻ nỗi bi ai. Chàng liếc nhìn hai kẻ chết oan rùng rợn và âm thầm đo lường tất cả niềm thống khổ, bao la, và ngọn lửa hận cừu đang sung sục bốc cháy trong lòng bạn.
Thật vậy, họ Bùi đoán không lầm. Không còn gì làm cho Thế Hùng đau đớn, oán hận bằng cái cảnh tượng vô cùng khốc liệt đang phô bày ra trước mặt chàng. Vị công tử nhớ lại người cậu ruột thân yêu trung hậu đã dám từ bỏ một cuộc sống xa hoa phú quý để được trọn đạo thần tử đối với quân vương. Chàng nhớ đến vị vua nhơn từ, bình dị, mà trong cảnh gian lao chàng đã được gần gũi và cảm mến. Sau hết những ý nghĩ ấy khiến chàng liên tưởng đến phụ nhân chàng: Thái quận công Lê Cập Đê, người đã can đảm đứng lên vận động đánh đổ thủ đoạn độc tài khắc nghiệt và hung tàn của chúa Trịnh, và đã sa cơ lọt vào tay kẻ nghịch trong khi chí nguyện chưa thành. Thế Hùng đoán chắc rằng song thân chàng ắt đã phải bỏ mình trong ngục thất tại Tây đô. Tự nhiên một mối căm hận vô biên tràn ngập lòng người thiếu niên dũng sĩ.
Như điên như cuồng, vị công tử thét lên một tiếng và vùng đứng dậy. Chàng day về hướng bắc, giậm chơn trợn mắt, nghiến răng sỉa sói vào cõi hư vô:
- Trịnh Tùng! Ngày nào ta còn sống, ta quyết phải trả cho xong mối thù bất cộng đại thiên nầy.
Hiểu rõ tâm sự của bạn, Bùi Văn Khuê vẫn lặng im, để cho bạn tự do trút hết nỗi lòng uất ức; một lát sau, thấy trời sắp hoàng hôn, chàng toan giục Thế Hùng ra đi, thì bỗng nghe phía sau có tiếng sột soạt.
Họ Bùi quay phắt lại nhìn. Một bóng người khả nghi, nãy giờ hình như đã lảng vảng rình rập đâu đây, thình lình cắm đầu chạy vùn vụt về hướng Nam. Người ấy khoác trên mình một bộ áo quần vải nâu lam lũ của nông phu và đội một chiếc nón lá to vành phủ gần kín mặt.
Ngạc nhiên và ngờ vực, Văn Khuê tức thì phóng mình rượt theo hắn như tên bắn. Chỉ trong chớp mắt, chàng đã ở sát sau lưng người lạ mặt.
Biết là bị theo dõi gần kịp, người nầy vội dừng chân day lại và trong lúc xuất kỳ bất ý, rút cây đoản đao giấu sẵn trong mình, chém thẳng vào mặt chàng lực sĩ.
Văn Khuê thản nhiên, khẽ nghiêng mình sang một bên né tránh rồi co chân vụt đá thốc lên ngay cùi chỏ cánh tay mặt của hắn. Gã kia rú lên một tiếng thất thanh. Cây đoản đao rời khỏi bàn tay tê buốt của hắn, bay tung lên trên không lộn hai vòng rồi sa xuống đất, cách đó chừng vài thước.
Mất khí giới, kẻ lạ mặt khiếp đảm, lính quýnh toan bỏ chạy thì liền bị bàn tay lực lưỡng của chàng lực sĩ lẹ làng thò ra thộp lấy cổ áo của hắn và ghì chặt lại. Thế rồi, sau khi hắn cố vùng vẫy, dãy dụa một cách vô hiệu quả, bàn tay của Văn Khuê đã nhắc bổng hắn lên khỏi mặt đất, như một cậu bé tinh nghịch xách hỏng con mèo lên để nô đùa.
Hoảng vía trước sức mạnh khác thường của chàng lực sĩ, kẻ lạ mặt run cầm cập, chấp hai tay lạy không ngớt, như tế sao:
- Xin tráng sĩ tha chết, xin tráng sĩ dung mạng.
Họ Bùi trừng mắt quát hỏi:
- Mầy làm nghề nghiệp gì? Ai sai mầy đến đây thám thính? Nói mau. Nếu gian dối ta chỉ quật cho mầy một cái là đủ tan xương nát thịt, nghe chưa?
Hai tay hắn vẫn vái lịa như cái máy:
- Dạ… dạ… xin tráng sĩ buông tôi ra, tôi sẽ nói, tôi xin nói.
- Được!
Bàn tay Văn Khuê từ từ hạ thấp và êm ái đặt kẻ lạ mặt xuống đất. Đồng thời tay trái của chàng tò mò nắm lấy vạt áo ngoài của hắn mà giựt mạnh. Một manh áo rách toang, để lộ ra phía dưới, bộ binh phục của một quân nhơn.
Bị lộ tẩy, tên nông phu giả hiệu, mặt xám như gà cắt tiết, lật đật khúm núm cung khai sự thật:
- Xin tráng sĩ thương tình, tôi là Vương Bột, lính trong cơ binh của quan trấn thủ Nghệ An được lịnh trên sai tới đây trá hình làm dân quê để thám thính.
Hễ gặp ai đến đây khóc điếu nhà vua, thì tôi phải lập tức chạy về phi báo cho quan quân kéo đến vây bắt.
Chàng lực sĩ bật cười, mai mỉa:
- Lũ thầy trò nhà ngươi xoàng như vậy mà hòng gì bắt được ai?
Chàng ngừng lại giơ tay vẫy Thế Hùng đang tất tả chạy tới và bảo rằng:
- Nầy hiền đệ, bây giờ chúng ta mới hiểu tại sao bọn Thái phó Nguyễn Hữu Liên và viên trấn thủ Nghệ An là Trịnh Tam Miêu không chịu đem mai táng thi thể của nhà vua và của Đặng Ngự sử đã bị chúng sát hại một cách thảm thương. Một là vì ác tâm, hai là chúng muốn dùng hai thây ma ấy làm cạm bẫy để lôi cuốn chúng ta và tất cả những người thuộc phe đảng Cần Vương vào đó. Mưu kế của chúng kể ra cũng khá thâm độc. Nhưng chúng ta có cách đối phó. Chúng ta sẽ buộc thằng Trịnh Tam Miêu phải theo ý muốn của chúng ta.
Dứt lời, Văn Khuê day lại hỏi tên do thám vừa bị chàng bắt được:
- Nhà ngươi biết rõ cái hầm bí mật trong tửu quán là nơi giam cầm hiện thời của hai vị hoàng tử chớ
Vương Bột rất đổi kinh ngạc không hiểu tại sao chàng lực sĩ nầy lại có thể thấu đáo một chuyện bí ẩn như thế, thấu đáo hơn cả những người lính thân tín nhứt tỏng dinh viên trấn thủ Nghệ An. Thấy khó lòng giấu giếm, vì giấu ắt sẽ nguy đến tánh mạng, hắn đành ấp úng đáp:
- Thưa tráng sĩ, tôi biết rõ cái hầm ấy. Chính hồi xế chiều, tôi đã được phái đến đó để đem các thức ăn cho hai hoàng tử bị giam.
Văn Khuê tỏ vẻ hài lòng. Chàng lại hỏi:
- Hiện giờ, nơi ấy do ai canh giữ?
- Dạ, do một viên đội và hai tên lính. Ba người nầy đang có phận sự canh gác rất nghiêm nhặt các ngõ ra vào của tửu quán nói trên. Nghe đâu, chỉ nội tối nay, hai hoàng tử sẽ được dời tới dinh quan trấn thủ.
Văn Khuê cả mừng:
- Tốt lắm, vậy lát nữa, nhà ngươi dẫn chúng ta tới đó. Ngươi sẽ giới thiệu với ba người lính gác rằng chúng ta là thuộc hạ của Thái phó Nguyễn Hữu Liên được lịnh đến phụ lực với họ để tăng cường cuộc đề phòng cho thiệt châu đáo và cẩn thận.
Tên do thám lưỡng lự và lo ngại:
- Vâng, nhưng nhị vị tráng sĩ không khoác trên mình bộ nhung phục của kỵ binh thì làm sao đánh lừa được lính canh.
Chàng lực sĩ mỉm cười:
- Nhà ngươi đừng lo, chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ cả rồi.
Nói đoạn, chàng lấy ra hai bộ võ phục vệ quân đã đoạt được và giắt sẵn bên mình, trao cho Lê Thế Hùng và bảo:
- Đã đến lúc chúng ta nên cải trang để tiện bề hành động.
Vị công tử gật đầu tán thành và đưa tay tiếp lấy bộ nhung trang và chàng lanh lệ mặt vào mình cùng một lúc với Văn Khuê. Thế là chỉ trong khoảnh khắc, hai chàng tráng sĩ đã nghiễm nhiên biến thành hai kỵ binh của Chúa Trịnh.
Dưới nắng chiều dần tắt, cánh đồng quê hẻo lánh với khu vườn mía hoang vu ghê rợn, từ từ đi vào trong bóng hoàng hôn.
Bùi Văn Khuê đưa mắt cho bạn và ra lịnh cho tên lính theo mình. Cả ba cùng bước về phía hai con ngựa buộc sẵn nơi thân cây.
Chàng lực sĩ nắm lấy cánh tay tên do thám của Trịnh Tam Miêu, nhắc hỏng nó lên, đặt trên lưng ngựa, trước mặt mình. Thế Hùng cũng nhảy thót lên yên.
Chàng lực sĩ ra dấu. Hai con vật tức thì lao mình trong bóng tối.