2. Lọt vào hầm bí mật
Phủ Diễn đã lên đèn, nhưng những ánh đèn lốm đốm, yếu ớt, lờ mờ tỏa ra từ các khung cửa lớn nhỏ của mọi căn nhà ngói hay túp lều tranh lụp xụp, không đủ đem lại cho vùng nầy một phần sanh hoạt đầy hoạt động lúc ban ngày. Ở đây, ban đêm, cuộc sống dường như ngừng hẳn lại. Vì chỉ một lát sau là bao nhiêu cánh cửa phên liếp sẽ hạ xuống, hoặc sẽ cài kín mít, thâu về luôn bao vệt sảng thờ ơ, xê động trải ra trên các mảnh đất vàng, để rồi sau cùng nhường cho đêm đen hoàn toàn ngự trị.
Trong không khí đìu hiu, buồn tẻ ấy, sự hiện diện của ba quân nhơn mới đến trên lưng hai con ngựa cao lớn, khỏe rnạnh, không làm cho cho ai chú ý. Ba quân nhơn ấy chính là: Bùi-Văn-Khuê, Lê-Thế-Hùng và tên lính Vương-Bột (đã bị Văn-Khuê bắt được).
Vương-Bột nãy giờ rất khiếp sợ trước sức mạnh và võ nghệ cao cường của chàng lực sĩ, nên nhứt nhứt đều tuân theo mạng lịnh của chàng không dám mảy may kháng cự hay tìm cách để thoát thân.
Tới trước một căn nhà rộng lớn, Thế Hùng nhận ra đó là quán rượu mà hồi ban mai chàng đã vào đó với hoàng-đế Anh-Tôn và Đặng Ngự-Sử. Vị công tử khẽ hỏi họ Vương:
- Có phải tửu quán nầy không?
Tên dọ thám run lập cập đáp:
- Dạ... chính phải.
Bằng một giọng cảnh cáo đầy hâm dọa, chàng ghé sát tai hầu cận dặn:
- Nhà ngươi phải luôn luôn ở cạnh bên mình ta, không rời một bước, cho đến lúc mà ta cho phép. Phải coi chừng, một cử chỉ phản bội nhỏ nhặt sẽ khiến đầu nhà ngươi rơi khỏi cổ dưới lưỡi gươm của ta nghe chưa.
- Xin tuân lịnh.
Bóng của họ in dài trên thềm đất, khi ba người vượt qua ngượng cửa để bước vào trong tửu quán. Bên trong, gian phòng vắng vẻ, lại càng đìu hiu tẻ ngắt hơn dưới ánh đèn lờ mờ của một ngọn đèn cũ kỹ, treo lủng lẳng giữa nhà.
Vương-Bột giơ tay chỉ thẳng về phía trước mặt và khẽ bảo:
- Đó! Lính gát đều đứng ở trong đó. Họ chỉ gồm có ba người thôi, một viên đội trưởng và hai binh sĩ.
Theo ngón tay trỏ của tên dọ thám, Bùi-văn-Khuê và Lê- thế-Hùng định thần nhìn kỹ. Hai chàng tráng sĩ trong thấy rõ ba quân nhân đang lấp ló sau khung cửa ăn thông từ gian phòng nầy với nhà bếp ở khít phía sau.
Thế-Hùng bóp mạnh vào cánh tay của Vương Bột để nhắc hắn phải nhớ kỹ tới vai tuồng hắn sắp đóng, tuân theo mạng lệnh của hai người đang điều khiển hắn.
Cả ba tiếp tục tiến tớii, dáng đi và nét mặt hoàn toàn điềm tĩnh như những người quen thuộc.
Vương-Bột, bằng một giọng vui vẻ, bả lả, giả trá và gượng gạo, giả vờ cất tiếng chào hỏi bạn đồng đội:
- Ô kia! Bác đội Cao vẫn còn đấy à? Bác chưa đổi phiên canh hay sao?
Qua khung cửa. ba quân nhơn đang xúm nhau lén lút uống rượu và chuyên gẫu, nghe tiếng động, bỗng giựt mình quay nhìn ra. Viên đội trưởng họ Cao nhận thấy Vương-Bột, bạn y cùng đi với hai người, mặc sắc phục kỵ binh thì hơi yên tâm. Y mỉm cười hơi thong thả đáp:
- Chào bác Vương. Có lẽ khuya nay chúng tôi mới sẽ mãn
phiên gát. Chẳng hay tối nay, bác đi đâu mà tạt qua đây thế?
- Tới đây để tiếp tay với bác chờ còn đi đâu nữa! Tôi vừa được lịnh của quan trấn thủ sai đưa hai ông bạn này là hai vệ úy kỵ binh thuộc quyền quan Nguyễn Thái phó tới để phụ lực tăng cường công cuộc canh gát, hầu đề phòng một vụ bắt cóc hay phá hoại có thể xảy ra.
Viên đội họ Cao hơi lấy làm ngạc nhiên:
- Lạ nhỉ! Chỉ vỏn vẹn có hai cậu bé con ngây thơ yếu ớt, việc gì mà cần phải uy động đến nhiều người canh chừng như thế? Vả chăng, tôi nghe rằng chỉ nội trong đêm nay là hai hoàng tử sẽ được dời vào an trí tại dinh quan Trấn thủ đễ cho sự giam cầm được chắc chắn hơn. Vậy thì việc gì người ta còn phải làm nhọc công đến bác và hai ông bạn nầy nữa?
Vương Bột cười xòa:
- Điều ấy tôi không rõ. Tôi chỉ biết lịnh trên ban xuống là bọn chúng mình bắt buộc phải thi hành. Chờ bác thử nghĩ xem! Vào giờ này ai mà không muốn về nhà, nằm chõng cẳng lên mà nghỉ cho khỏe xác.
Bất đắc dĩ, viên đội họ Cao đành phải mời bạn mình và hai thanh niên mang võ phục kỵ binh bước vào trong. Y hơi khó chịu vì sự hiện diện của hai người lạ mặt mà y tưởng là thuộc hạ của Nguyễn hữu Liên, và khó chịu nhất là y phải bỏ dở tiệc rượu vụng trộm mà y vừa san sẻ với hai tên lính dưới quyền mình.
Vừa vào đến nơi, Bùi-văn-Khuê lễ phép và nghiêm nghị bảo viên đội:
- Thưa đội trưởng, theo ý muốn của quan Thái phó, anh em chúng tôi có phận sự phải canh gát ngay sát cửa hàm để ngừa mọi việc bất trắc. Vậy đội trưởng hãy vui lòng dẫn chúng tôi tới đó.
Tên đội họ Cao không đợi nài nỉ đến hai lần. Vốn rất ghét bọn kỵ kinh của Nguyễn hữu Liên thường quen tánh kiêu căng khinh miệt đối với các binh sĩ địa phương, nên y rất bực bội mỗi khi phải đối diện hay tiếp xúc với chúng. Vì vậy thấy họ ngỏ ý muốn đứng gát ở chỗ khác, y sẵn sàng làm theo lời yêu cầu của họ ngay.
Viên đội dặn dò hai người lính vài lời rồi đưa Vương-Bột cùng hai kỵ binh lạ mặt đi thẳng xuống nhà bếp, rẽ sang tay trái và, do theo một lối đi nhỏ hẹp, ngoắt ngoéo, tiến vào phía cửa hầm.
Tại đây, một ngọn đèn lồng leo lét, trải lên vách tường là xuống mặt đất ẫm ướt, một chút ánh sáng úa vàng, hấp hối.
Viên đội dở một chiếc nón, treo úp trên vách, đọan chỉ vào một cái nút đen hình tròn lớn bằng ngón tay cái, ẩn dưới chiếc nón ấy và cắt nghĩa:
- Khi nào muốn giao tiếp với các tội nhơn, hãy cứ bấm vào cái nút nầy, tức thì cửa hầm sẽ bật mở ra.
Dứt lời, y mim cười, khẽ nghiêng đầu chào rồi toan xây lưng bước đi, thì bị Thế-Hùng chận đường cản lại:
- Khoan đã, đội trưởng đã có lòng tốt thì nhơn thể hãy cho chúng tôi mượn đỡ luôn... cái thủ cấp!
Viên đội ngơ ngác, chưa hiểu sao thì một quả đấm dữ dội đã tung vào mặt hắn với sức mạnh của một trái núi Thái-Sơn từ trên cao gieo xuống.
Hắn ngã ngửa trên mặt đất với một tiếng ‘‘bịch’’ khô khan không khác một thân cây đổ. Thế-Hùng vội rút kiếm ra lia ngang một lát, tức thì đầu và mình hắn đứt lìa làm hai đoạn.
Trước cảnh máu đổ thịt rơi. Vương-Bột toan rú lên một tiếng kêu khủng khiếp thì liền bị Bùi-văn-Khuê lẹ tay bịt lấy mồm hắn và quát:
- Phải im miệng lại, nếu không chúng ta cũng sẽ hoá kiếp cho nhà ngươi đi theo tên đội nầy luôn!
Họ Vương sợ tái mặt, đứng yên không dám cựa quậy cũng
không dám nhìn xác chết cụt đầu nằm sóng sượt dưới mắt mình.
Trong lúc ấy, Lê Thế Hùng chùi lưỡi kiếm trên áo cái thây ma đoạn tra kiếm vào vỏ và hỏi ý kiến bạn:
- Thưa đại ca, bây giờ đến phiên hai tên lính canh đứng phía ngoài nầy chứ?
- Văn Khuê khẽ gật đầu. Tức thì chàng thanh niên nhảy phóc ra ngoài trong chớp mắt.
Đến gần chỗ hai binh sĩ nồng nặc hơi men, đang gật gù sau cánh cửa, Thế Hùng cất tiếng bảo họ:
- Nầy hai bác, thầy đội Cao nhờ tôi ra gọi hai bác vào có việc cần.
Một tên lính lè nhè phản đối:
- Việc gi gấp thế? Sao lại gọi một lượt cả hai đứa chúng tôi? Phải để một người ở ngoài nầy canh chừng chớ?
Vị công tử xẳng giọng đáp:
- Tôi không biết! Thầy đội Cao cậy tôi ra gọi giùm. Còn các bác muốn cãi lịnh thì cứ vào trong ấy.
Trước vẻ quả quyết của chàng, hai người lính gác lười biếng vì đã ngà ngà say, đành nặng nề quay lưng cất bước đi.
Thế Hùng lùi lại cho họ tiến lên trước, rồi rón rén nối gót theo sau. Trong bóng tối lờ mờ của con đường đưa tới miệng hầm, hai binh sĩ chếnh choáng lần đi, không ngờ rằng họ đang dấn thân vào nơi tử địa.
Thật vậy, gần đến chỗ mà vừa rồi viên đội họ Cao đã bỏ mình. Lê-Thế-Hùng liền vội vã ra tay, vì không muốn để mất thì giờ quý báu.
Chàng giơ hai bàn tay cứng như sắt đá của mình thình lình nắm lấy cổ của hai tên lính và cắn răng, siết chặc lại.
Một vài giây đồng hồ qua. Dưới sức mạnh ghê gớm của hai cái gọng kềm cứ càng lúc càng lún sâu vào da thịt ấy, hai tên lính cố vùng vẫy phản kháng, nhưng vô hiệu quả.
Những tiếng è è yếu ớt phát ra từ miệng há hốc với cái lưỡi thè lè, rồi tắt hẳn. Hai đệ tử Lưu-Linh mới đó đã biến thành hai xác không hồn.
Trong khi Vương Bột run cầm cập, Bùi-văn-Khuê khoanh tay đứng lặng nhìn. Chàng rất hài lòng được thưởng thức tài năng xuất chúng và bản lãnh cao cường của bạn.
Vui vẽ, chàng thốt lời khen:
- Hiền đệ đã ‘‘thanh toán’’ công việc một cách cực kỳ êm thắm và mau lẹ! Thật quả không hổ là con giống cháu giòng. Bây giờ chúng ta hãy lo dẹp dọn mấy cái tử thi này đi, trước khi xuống hầm kiếm hai vị hoàng tử.
Dứt lời. chàng xây lại truyền cho Vương-Bột phụ lực với mình để dời ba xác chết đi nơi khác.
Cả hai hì hục mấy thây ma vứt bỏ vào một xó của gian phòng tối tăm bên cạnh. Thế-Hùng hơi lấy làm lạ không hiểu tại sao Văn-Khuê chưa giải thoát liền cho hai hoàng tử mà lại lo dọn dẹp các tử thi là điều mà chàng cho là không mảy may cần thiết. Tuy nhiên lần nầy chàng không dám hỏi lý do vì chàng đã từng nhận biết rõ rằng mọi quyết định của bạn đều bao hàm bên trong một ý gì bí ẩn và thiết thực.
Bùi-văn Khuê không chú ý đến sự thắc mắc của Thế-Hùng.
Sau khi dời xong ba cái tử thi và chùi xóa sơ sài các dấu vết để lại trên mặt đất, thay vì nghĩ đến việc xuống hầm giải thoát cho hai đứa bé bị giam cầm, chàng bỗng day qua hỏi Vương Bột một câu rất vui vẻ khiến Thế Hùng một phen nữa phải lấy làm ngạc nhiện và khó hiểu:
- Nầy Vương-Bột, nhà anh ở gần đây hay xa?
Không dám dối trá dưới lưỡi kiếm sắt bén và lợi hại của hai tráng sĩ, tên dọ thám của viên trấn thủ Trịnh tam Miêu đáp:
- Thưa tráng sĩ, nhà tôi ở cách đây lối hơn trăm thước.
- Tốt lắm! – Văn Khuê vừa tiếp vừa thân mật vỗ vai họ Vương - Hiện thời anh có mấy cháu? Chúng ăn chơi mạnh khoẻ cả chứ?
Đến lượt Vương Bột trố mắt ra nhìn kẻ đối thoại. Hắn lấy làm lạ, tự hỏi vì sao chàng lực sĩ lại tò mò hỏi thăm về nhà cửa, gia đình và sức khỏe của con cái mình. Hắn nghĩ rằng: ‘‘Âu là nên nhơn dịp nầy kể lể rõ gia cảnh nghèo khó của ta cho họ nghe, may ra họ sẽ rủ lòng thương mà tha ta ra khỏi móng vuốt của họ chăng?’’
Nghĩ thế, hắn nhỏ nhẹ đáp, giọng tha thiết như kẻ van lơn:
- Cảm ơn tráng sĩ có hảo tâm hỏi đến. Gia đình tôi là cả một gánh nặng, mà tôi phải cưu mang: cả thảy là sáu đứa con, đứa lớn nhứt chỉ mới mười ba tuổi và đứa bỏ nhứt chưa đầy tám tháng... Tôi cúi xin nhị vị tráng sĩ nghĩ đến tình cảnh của tôi...
Bùi Văn Khuê gạt ngang:
- Hay lắm, hay lắm! Anh không cần phải nói nhiều. Bây giờ anh hãy cho chúng tôi mượn lập tức... hai đứa con của anh. Bạn tôi đây sẽ theo anh về tận nhà và sẽ đưa anh trở lại đây với hai đứa trẻ trạc tuổi hai vị hoàng tử bị giam trong hầm này.
Vương-Bột biến sắc, toàn thân run bần bật như một chiếc lá trước cơn gió lốc. Thế Hùng cũng vừa chợt hiểu ra ý định của bạn và hết sức phục thầm.
Để giải thích cho bạn hiểu rõ thêm, Văn Khuê ghé sát tai vị công tử thì thầm:
- Chúng ta sẽ đem lại hai đứa con của Vương Bột đến đây để đánh tráo lấy hai vị hoàng tử mà chúng ta sẽ giấu đi nơi khác, thế rồi tha hồ cho viên trấn thủ Nghệ An rước chúng đi.
Trong khi Thế Hùng gật đầu tán đồng mưu kế của bạn, thì bên cạnh chàng Vương-Bột sụt sùi, khóc lóc van lơn:
- Xin nhị vị tráng sĩ thương tình.Nếu quả tôi có tội thì nhị vị cứ trừng trị một mình tôi cũng đủ, và xin mở lượng bao dung tha thứ cho lũ con tôi vì tôi mà bi tội lây...
Vừa mếu máo, hắn vừa chắp tay vái lạy không ngớt.
Cử chỉ và nỗi đau xót thành thực của một người cha đang khốn khổ làm cho hai thanh niên không đè nén được nỗi cảm động. Bằng lời lẽ ồn tồn, Bùi văn Khuê cố an ủi tên dọ thám:
- Đây là một việc vạn bất đắc dĩ hoàn toàn ngoài ý muốn của chúng tôi. Anh em chúng tôi không hề chủ tâm muốn làm liên lụy đến anh và các con anh trong vụ này, nhưng vì quyền lợi tối trọng của quốc gia. chúng tôi phải cứu sống để bảo vệ sanh mạng và an ninh cho hai hoàng tử. Một trong hai vị ấy sẽ lên ngôi báu để phục hưng lại cơ đồ sụp đổ của nhà Lê.
Riêng về trường hợp của anh, tuy đối với chúng tôi anh là tay sai của kẻ gian ác, hại dân nhưng nếu anh biết hối cải bỏ tà theo chánh, sốt sắng giúp đỡ chúng tôi trong nhiệm vụ thiêng liêng này, thì tội lỗi của anh chẳng những sẽ được tha thứ mà chúng tôi sẽ còn tìm cách an toàn cho anh và luôn cả gia-đình của anh nữa.
Vương Bột chăm chú lắng tai nghe và rưng rưng ứa lụy. Lần đầu tiên trong đời mình, hắn cảm thấy những lời lẽ ồn hòa trang nghiêm của chàng lực sĩ đang thấm thía, đã ‘‘đi thẳng’’ vào cõi lòng hắn, với một mãnh lực thúc đầy cám dỗ gì rất huyền bí, vô hình. Đồng thời hai mắt hắn sáng lên trên một khuôn mặt ủ rũ vừa thấm tươi trở lại, biểu thị tâm trạng quả quyết của một người vừa được cảm hóa, được giác ngộ đang hân hoan tiếp đón lần thứ nhứt cái chân lý rực rỡ sáng tỏ mới đột ngột đến với mình.
Xúc động, tên dọ thám thình lình quỳ xuống, ôm lấy vạt áo của Văn Khuê:
- Thưa tráng sĩ, nhờ tráng sĩ ra ơn chỉ giáo, bây giờ tôi mới rõ đâu là nẻo quấy đường ngay. Tôi rất hối hận vì đã lầm lạc đi phụng sự phường gian ác hại dân hại nước. Vậy từ nay, tôi xin hăng hái chuộc tội bằng sự hy sinh. Tôi xin tráng sĩ cho phép hy sinh tánh mạng của lũ con tôi, miễn sao cho quyên lợi của đất nước được cứu vãn, ngai vàng nhà Lê được phục hồi,
Chàng lực sĩ đỡ Vương-Bột đứng dậy và thân mật vỗ về:
- Hay lắm! Anh đã biết hối cải, đó là điều tôi rất mong mỏi và thành thật ngợi khen. Tôi rất hiểu tấm lòng hăng hái của anh đối với nghĩa cả. Tuy nhiên chúng tôi không đòi hỏi ở anh sự hy sinh quá nhiều. Các con anh mà chúng tôi tạm mượn đỡ rồi đây sẽ trả đủ cho anh. Điều cần nói là sau khi nhiệm vụ này hoàn thành, anh và trọn gia đình anh sẽ phải đi nơi khác thật xa, để tránh hậu họa.
Thôi nãy giờ câu chuyện cũng khá dài rồi, chúng ta phải gấp rút bắt tay vào việc, vì theo lời viên đội đã nói, chỉ nội trong đêm này, Trịnh Tam Miêu sẽ cho người tới đây đem dời hai hoàng tử vào an trí trong dinh trấn thủ.
Vậy, từ phút nầy, chúng tôi hoàn toàn đặt tín nhiệm vào lòng trung thành của anh và tin chắc rằng anh sẽ không để cho chúng tôi thất vọng.
Vương Bột chắp hai tay xá tạ ơn:
- Nhị vị tráng sĩ cứ yên lòng. Kẻ hèn mọn nầy nguyện đem hết tâm trí để báo đáp ân sâu và chuộc tội mình dù có phải tan xương nát thịt cũng không từ...
Văn Khuê vui vẻ ngắt lời:
- Được rồi, anh cứ sửa soạn đi cùng với bạn ta về nhà đem hai con anh đến đây. Nhưng trước hết, anh chịu khó chờ chúng ta cải trang lại một lần nữa nhé, vì lúc này sắp đóng vai tuồng mới, còn vai tuồng kỵ binh của anh em chúng tôi đã kết thúc rồi.
Nói đoạn chàng hất hàm ra hiệu cho Thế Hùng. Trước cặp mắt ngạc nhiên của họ Vương, hai chàng hiệp sĩ trút bỏ rất nhanh bộ nhung trang kỵ binh đang khoác trên mình, rồi thay thế vào bằng bộ võ phục mà họ đã lột của hai người lính canh bị Thế Hùng bóp cổ chết. Chỉ trong nháy mắt, cả hai đã nghiễm nhiên biến thành hai binh sĩ địa phương của dinh Trân thủ Nghệ An. Sự thay hình đổi dạng cực kỳ tài tình và mau lẹ của họ khiến cho một tay dọ thám chuyên nghiệp như Vương Bột cũng phải lắc đầu thán phục.
Sau khi nhận lãnh những lời dặn chót của bạn, chàng thanh niên dũng sĩ dẫn Vương Bột ra đi, để lại một mình Bùi văn Khuê giữa căn phòng vắng vẻ chìm trong bóng tối lờ mờ với mùi tử khí âm u rợn người thoang thoảng xông lên từ gian buồng kế cận.
Chàng lực sĩ đưa mắt nhìn lại một lượt nữa để xét kỷ tình hình của gian phòng kỳ lạ ăn thông với cái hầm bí mật mà chàng sắp dấn bước vào.
Không có dấu vết gì khác khả nghi, ngoài cái nút đen lớn cỡ đầu ngón tay cái giấu sau một chiếc nón trên vách mà viên đội đã chỉ khi mới đưa chàng vào đây.
Công việc thứ nhất của Văn Khuê là lại gần bức vách ấy giở chiếc nón lá lên và cẩn thận làm y theo lời dặn của viên đội xấu số. Quả nhiên, khi ngón tay trỏ của chàng vừa ấn mạnh xuống thì ngay chính giữa hầm, một cái nấp ván vuông vắn, mỗi bề dài lối hai thước ta, thình lình bật lên và mở hoác ra.
Văn Khuê lật đật bước tới, cúi đầu nhìn xuống... Một cảnh tượng thương tâm bày ra trước mắt chàng: Dưới đáy hầm ẩm thấp và u uất như một ngục tù, hạng bét, trong ánh sáng leo lét hấp hối của một ngọn đèn dầu phọng gần tàn, 2 cậu bé ngây thơ ôm chầm lấy nhau khóc nức nở đến gần như không ra tiếng..
Do theo một cái thang bằng gỗ cũ kỹ, đã gần mục, cứ lung lay và chuyển răng rắc dưới sức nặng của mỗi bước chân, Bùi- văn-Khuê rón rén lần mò leo xuống tận đáy hầm. Hai mắt chàng lanh lẹ liếc nhìn khắp tứ phía, để đề phòng những nguy cơ bất ngờ có thể xảy ra. Nhưng không, chàng không thấy dấu hiệu gì khác lạ.
Hầm này, chỉ là một hầm giam thường, chắc không gồm có những cơ quan tự động bí mật như những hầm lợi hại ghê gớm khác mà chàng đã biết qua.
Vả chăng nếu có, thì viên đội bị hạ sát hay là. Vương-Bột đã báo trước với chàng rồi. Như vậy, Văn-Khuê có thể yên tâm về điều đó.
Trái với sự dự liệu của mình chàng lực sĩ không được niềm nở tiếp đón khi vừa mới đặt chơn tới mặt đất. Hai cậu bé ngước lên nhìn chàng với bộ mặt kinh sợ, hãi hùng. Văn-Khuê chợt nhớ rằng chàng đang khoác trên mình bộ nhung phục của binh sĩ địa phương nên không gây được chút thiện cảm nào trong lòng của hai hoàng tử bé nhỏ và vô phước ấy.
Dưới cặp mắt bỡ ngỡ của chàng lực sĩ, hai đứa bẻ ấy không khóc nữa. Trên khuôn mặt ngây thơ của chúng, vẻ sợ sệt thiểu não đã nhường chỗ cho sự nghiêm nghị, lạnh lùng.
Đứa lớn tuổi nhứt vụt đứng phắt dậy, đưa vạt áo gạt vội hai dòng lệ long lanh trên má, đoạn nhìn chòng chọc vào Văn- Khuê, thốt ra những lời hậm hực đầy phẫn nộ:
- Tên lính này muốn gì nữa đây? Các ngươi lại muốn ép chúng ta phải dùng thứ cơm tù tội và các món ăn có bỏ thuốc độc của các ngươi à? Chúng ta quyết không ăn đâu! Thà là chúng ta đành nhịn đói mà chết. Các ngươi tàn ác lắm. Các ngươi dám xúc phạm hành hạ chúng ta, các ngươi nhẫn tâm bắt phụ vương của chúng ta dẫn đi đâu mất. Hãy trả lại phụ vương cho chúng ta mau lên. Rồi đây trời đất sẽ trừ diệt các ngươi không còn một mống cho mà xem.
Biết là cậu bé lầm, chàng lực sĩ chỉ mỉm cười, chờ cho cậu ta tuôn ra một hơi cho hả giận, đoạn ôn tồn bảo:
- Kính hoàng tử, tôi xuống đây không phải để ép buộc hay uy hiếp chư vị hoàng tử như những tên lính khác của Trịnh Tùng mà chính là để giải cứu chư vị thoát khỏi cảnh giam hãm u ám nầy. Xin hoàng tử để ý: bộ võ phục binh sĩ địa phương tôi đang mặc chỉ là một lớp cải trang để dễ đột nhập vào đây...
Cậu bé nhíu mày, lắc đầu, tỏ vẻ ngờ vực:
- Thôi đi! Nhà ngươi đừng tìm cách lừa dối chúng ta nữa. Phụ vương ta đã bị bắt, Đặng Ngự sử cũng vậy, còn công tử Lê thế Hùng thì bị các ngươi đầu độc mất rồi. Còn gì đâu mà giải cứu anh em chúng ta... trừ khi phụ Vương chúng ta may mắn được quỷ thần phò hộ, thoát hiểm trở lại đây...
Dứt lời, không đè nén được nỗi xúc động, cậu bé ôm mặt khóc òa, khiến em cậu cũng khóc theo.
Tuy vốn tánh sắt đá, cứng cỏi, Văn Khuê cũng không khỏi mủi lòng trước nỗi đau xót vô hạn đang dè nặng lên hai đứa trẻ thơ. Chàng thong thả bước lại gần cậu bé, và thân mật tìm cách vỗ về an ủi:
- Xin hoàng tử bớt bi thương. Hiện thời hoàng tử ngờ vực hảo ý của tôi cũng phải. Song lát nữa sẽ có người làm cho hoàng tử thay đổi ý kiến và tin chắc rằng mục đích của chúng tôi đến đây chính là để giải thoát nhị vị hoàng tử ra khỏi hang hùm và móng vuốt của lũ tôi tớ Trịnh Tùng.
Giọng nói thân mật, điềm đạm và đượm đầy vẻ quả quyết của chàng lực sĩ khiến cho cậu bé ngạc nhiên, chăm chú nhìn chàng, hơi phân vân lưỡng lự.
Trước vẻ thành thật rõ rệt đang tiết ra từ lời nói cũng như từ cử chỉ của người đối thoại, cậu bé có cảm tưởng rằng mình hơi vững dạ hơn lúc ban đầu. Tuy nhiên mối hoài nghi còn lởn vởn trong tâm trí trí cậu bé không phải vì thế mà tiêu tan hẳn.
Thình lình, Bùi văn Khuê và hai hoàng tử đều ngẩng đầu lên, nhìn về phía miệng hầm. Họ vừa chợt nghe tiếng động, những bước chân mỗi lúc mỗi gần.
Rõ ràng có người tiến rất mau vào căn phòng ăn thông với hầm bi mật nầy.
Chàng lực sĩ lật đật giơ hai tay nắm lấy hai cậu bé và kéo chúng theo mình tới sát bức vách kế cận để phòng ngừa mọi sự bất trắc. Tại đây, chàng ra dấu cho chúng yên lặng và chàng cau mày chăm chú lắng tai nghe.
Bỗng Văn Khuê thở ra nhẹ nhõm. Chàng đã nhận được tiếng nói quen thuộc của bạn mình từ trên cao vọng xuống hầm sâu.
Đồng thời, qua khung vuông cửa miệng hầm, một khuôn mặt nữa kế tiếp xuất hiện.
Đó là Lê thế Hùng và Vương Bột. Chàng lực sĩ cả mừng cất tiếng hỏi:
- Ủa, sao hiền đệ trở về đây sớm thế? Mọi việc đều lo xong rồi chứ?
- Xong hết cả rồi, thưa đại ca.
Vừa đáp, Thế Hùng vừa đặt chân lên bực thang gỗ để leo xuống hầm. Nối gót sau chàng là Vương Bột, đang lính quính dẫn theo hai đứa con trai của hắn.
Văn Khuê ngắm nghía hai đứa bé vừa đến. Chúng xấp xỉ trạc cỡ tuổi của hai hoàng tử. Trong bộ áo quần vải nâu thô kịch quê mùa, chúng có vẻ nhớn nhác sợ sệt đáng thương.
Trái lại, Vương Bột, cha chúng thì biểu lộ sự hoan hỉ hài lòng của một người đang sung sướng làm một việc hy sinh cao quý do chính mình đã tự do lựa chọn.
Nhác thấy Thế Hùng, vị hoàng tử lớn nhứt nhảy chồm tới ôm chầm lấy chàng mừng rỡ reo lên:
- Ô kìa! Lê tráng sĩ còn sống và còn trở về được đây ư? Thế mà chúng tôi cứ ngỡ tráng sĩ đã thiệt mạng sau khi bị bỏ thuốc mê. Còn phụ vương của chúng tôi và Đặng Ngự sử hiện đang bị giam cầm ở đâu, tráng sĩ có biết không!
- Dạ! Kính tâu hoàng tử...
Ứa lệ vì cảm động. Thế Hùng âu yếm nhin cậụ bé ngây thơ, toan đem tất cả sự thật bi thương thuật lại hết cho cậu nghe, nhưng vừa mở miệng thốt ra được mấy tiếng thì chàng bỗng ngừng bặt lại. Mắt chàng vừa gặp phải tia mắt lạnh lùng nghiêm nghị của Bùi văn Khuê. Tia mắt ấy có ý nghĩa một lời căn dặn vô cùng khẩn yếu: ‘‘Không nên tiết lộ điều gì ráo, về cái chết thảm khốc của hoàng đế Anh Tôn, vì làm thế sẽ bất tiện cho kế hoạch đang thực hiện.’’
Hiểu rõ ý bạn, chàng thanh niên giả vờ hơi lưỡng lự, cau mày như cố nhớ lại một địa điểm nào đó mà mình vừa quên mất, rồi tiếp rất nhanh:
- Kính thưa Hoàng tử... Thánh thượng và Đặng Ngự sử đã bị giặc đem xuống làng... làng gì nhỉ? À phải rồi, làng Cẩm Giang, cách đây không xa lắm. Chinh tôi đến đây là để hộ giá chư vị Hoàng tử đi tìm ngài...
Gương mặt của cậu bé sáng rực lên như bông hoa hé nở, đầy hân hoan và hy vọng chứa chan. Cậu xây lại bảo em mình:
- Ồ, nếu vậy thì hay quá! Em ơi chúng ta sắp gặp mặt phụ vương.
Đoạn nắm lấy vạt áo trước của Thế Hùng, cậu bé thúc giục
- Tráng sĩ hãy dẫn chúng tôi đi lập tức. Chúng tôi không thể ở lạí cái hầm ghê gớm u ám này lâu hơn nữa.
Nỗi sung sướng, sự tin tưởng tràn trề của vị Hoàng tử khiến cho Thế Hùng cảm thấy lòng mình se lại. Chàng tự lấy làm khó chịu, hổ thẹn với lương tâm, vì lần đầu tiên trong đời mình, chàng đã mở miệng dối gạt một đứa trẻ ngây thơ mà, với tư cách của một thần tử, chàng có phân sự phải tôn kính và bảo vệ. Nhưng đây là một trường hợp bắt buộc và tối cần thiết.
Anh hồn của vua Lê phảng phất đâu đây sẽ thấu rõ và chứng giám cho cõi lòng chàng.