3. Náo động trong dinh Trấn-Thủ (2)
TRỜI đã tối hẳn khi Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng thúc ngựa tiến vào vùng ngoại ô Tây đô.
Ánh đèn bắt đầu nhóm lên từ các căn nhà lụp xụp nối tiếp nhau thành hai dãy dài, trải ra những vệt sáng lung linh trên con đường chật hẹp.
Thấy Thế Hùng có vẻ hơi do dự, một lần nữa, Văn Khuê lại tìm lời khuyến khích bạn:
- Hiền đệ chớ ngại. Chúng ta đã cải dạng làm lái buôn cẩn thận và khéo léo như thế nầy, thì chắc là bọn tay sai của Trịnh Tùng sẽ khó lòng mà nhận diện ra được,
Vừa nói, chàng vừa cúi xuống ngấm nghía cái áo thâm dài xốc xếch của mình đang phủ lên một chiếc quần trắng màu cháo lòng xăn lên gần tới gối. Tất cả đó, đi đôi với chiếc khăn bịt xéo trên đầu và gói hành lý mang theo kè kè sau lưng ngựa, đã biến họ thành hai chú lái thô kịch từ nhà quê vừa ra tỉnh.
Chàng lực sĩ ra dáng đắc ý, nhưng vị công tử mỉm cười:
- Xin lỗi Đại ca, tiểu dệ không dám chối cãi rằng điều
nhận xét mới rồi của đại ca là không đúng, nhưng nó chỉ đúng riêng về trường hợp của Đại ca mà thôi. Vì ở Tây đô này, người ta ít biết mặt Bùi Văn Khuê, chỉ trừ ra Nguyễn hữu Liên và bọn kỵ binh còn sống sót sau trận đánh cướp tù xa ở Phủ Diễn. Còn về phần Thế Hùng thì khốn nỗi, bởi đã từng lưu ngụ tại đây quá sáu năm rồi, nên khó tránh khỏi bị chúng nhận diện.
Chàng thanh niên nối theo câu nói của mình bằng một chuỗi cười hồn nhiên, rồi tiếp:
- Nói thế chứ, tiểu đệ không e sợ đâu đại ca ạ! Vì ai dại gì có dịp đi ngang Tây Đô mà không ghé lại để thám thính tình hình? Vả chăng anh em chúng ta đã thành công vẻ vang trong việc giải thoát hai vị hoàng tử và gởi gấm vào một nơi kín đáo, đã buộc tên tham quan Trịnh tam Miêu phải chôn cất thi hài hoàng đế Anh Tôn là của một bậc trung thần, đã trả lại cảnh đoàn viên cho gia đình Vương Bột và dắt dẫn hắn đi sang đường ngay nẻo chánh thì ít nhứt bây giờ đây, chúng ta cũng phải được hưởng những giờ phút mạo hiểm ngay giữa kinh thành này mới xứng đáng là cái phần thưởng tinh thần của kẻ trượng phu anh hùng chứ? Có phải thế không đại ca?
Văn Khuê gật đầu, vui vẻ tán đồng
- Hay lắm, hiền đệ quả thật không hổ với câu ‘‘con dòng cháu giống’’. Ở dưới suối vàng, hẳn quan Thái quận công cũng rất tự hào có được một người con anh dùng như hiền đệ.
Lời khen tặng của chàng lực sĩ, cùng một lúc với việc đặt chơn trở lại đất Tây đô, vô tình đã khêu gợi lại đống tro tàn dĩ vãng và nhắc lại cho vị công tử cái chết thảm khốc của song thân chàng, cái chết đã lưu lại cho chàng một mối thù không đội trời chung.
Trong phút chốc, bị kích thích mạnh mẽ vì ý nghĩ rửa hờn, báo phục, Thế Hùng bèn đề nghị với bạn:
- Hay là nhơn cơ hội nầy, tiểu đệ muốn lẻn vào phủ Chúa thích khách Trịnh Tùng một phen xem sao.
Văn Khuê vội gạt đi:
- Không nên, lúc này chưa phải là lúc thi hành được việc đó, anh em chúng ta chỉ có hai người, không thể nào đương đầu lại với hàng muôn hàng vạn hùng binh của chúa Trịnh ngay trên khu vực thống trị của nó được. Vậy chúng ta nên ẩn nhẫn đợi chờ, rồi sau khi nương dựa vào thế lực của chúa Mạc, sẽ nghĩ đến sự thi hành chí nguyện của mình cũng chẳng muộn. Tôi dám chắc rằng tới lúc ấy, chúng ta sẽ đạt tới kết quả một cách chắc chắn...
Chưa dứt lời, chàng lực sĩ đột nhiên ngừng lại về một cái liếc mắt ra hiệu của Thế-Hùng. Chàng thấy vị công tử đang chăm chú nhìn một tấm giấy trắng lớn hình chữ nhựt, bề cao bằng một cánh tay, dán trên một bức vách xám cũ kỹ, phía trước mặt.
Văn Khuê cũng nhìn về phía ấy. Dưới ánh đèn lờ mờ của một ngọn đèn lồng treo kế cận, chẳng nhận thấy trên giấy 2 bức chân dung họa bằng những nét khả tỉ mỷ. Một bức là Thế Hùng, in hệt như khuôn đúc, còn bức kia chính là của chàng, trông không giống lắm, vì có lẽ họa sĩ đã nghe người ta thuật lại rồi mương tượng mà vẽ ra, trước khi sửa đi sửa lại nhiều lần.
Bên cạnh hai bức chân dung ấy, người ta đọc mấy giòng chữ như sau:
‘‘ Đây là hai tướng giặc, một đứa tên Lê Thế Hùng con của phản thần ‘‘ Lê cập Đệ’’ còn một đứa nữa không tên, đã làm loạn chống triều đình giết hại rất nhiều binh sĩ. Nếu ai bắt đặng chúng thì sẽ được 500 nén bạc.
Thì ra đó là một trong những tờ cáo thị kêu gọi dân chúng góp sức vào sự truy nã Bùi văn Khuê và Lê công tử, dán khắp các ngả đường giữa Tây đô.
Bùi văn Khuê bật cười:
- Trịnh Tùng gọi hai anh ta là giặc cướp vì chúng ta là đối lập của hắn; nhưng hắn quên chính hắn là tên ăn cướp thiệt thọ. xứng đáng với danh từ ấy. Nó đã cướp từ hạnh phúc cho đến nhà cửa. manh áo miếng cơm của dân chúng. Một ngày kia công lý sẽ đem phơi bày ra trước mắt thiên hạ cái tội ác tầy trời của hắn và ngày ấy người ta sẽ biết kẻ cướp là ai.
Thế Hùng gật đầu tán thành lời phê bình của bạn và tiếp:
- Nhưng nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp công lý sáng tỏ bằng cách cố gắng lật đổ uy quyền của Trịnh Tùng và chấm dứt một chế độ áp bức, tàn nhẫn, bất công đang đè nặng lên cuộc sống của toàn dân. Tiểu đệ xin thề quyết sẽ không bao giờ xao lãng cái nhiệm vụ ấy.
Vị công tử vụt ngưng nói khi chợt thấy một toán lính tiến tới trước mặt mình. Qua những dấu hiệu trên những trang của họ, Thế Hùng nhân ra đó là đoàn Kiêu binh ở trong phủ Chúa. Dường như chúng đang thừa hành một phận sự gì khẩn cấp nên hăm hở, mải miết đi không thèm nhìn đến hai chàng hiệp sĩ.
Văn Khuê đưa mắt để hỏi:
- Chắc Trịnh Tùng phái quân hộ vệ của hắn đi bắt cóc ai đấy. Mỗi lần hắn xử dụng tới bọn Kiêu binh thì tất nhiên đó phải là một cuộc bắt bớ quan trọng.
Hai người dấn mình vào một con đường phố rộng rãi và vượt qua hai dãy nhà ngói cao ráo, sạch sẽ gồm toàn là những hiệu buôn của người Việt xen lẫn với người Huê Kiều.
Bỗng nhiên từ xa, văng vẳng đưa lại những tiếng hát hòa nhịp cùng tiếng đàn phách nhặt khoan, bỗng trầm. Đó là giọng hát thảnh thót, lanh lảnh của những ca nhi Trung quốc. Đồng thời. Trước mắt họ, một tửu lầu sang trọng và độ sộ với ánh đèn rực rỡ hiện ra, mỗi lúc mỗi gần.
Thấy bạn chăm chú hướng về phía ấy, Lê thế Hùng giải thích:
- Đây là Hoàng hạc Lâu. một tiệm cao lâu khách trú lớn nhất và nổi tiếng tại Tây đô vì có nhiều món cao lương mỹ vị và nhiều ca nhi tuyệt sắc.
Văn Khuê mỉm cười pha trò:
- Hiền đệ bình phẩm một cách thành thạo lắm chắc hẳn trước kia hiền đệ đã từng đặt chân tới đây nhiều lần rồi thì phải. Các bậc vương tôn công tử có khác. Hôm nay đến phiên kẻ quê mùa là Văn Khuê nầy cũng muốn bắt chước vào đây đóng vai khách quí một phen chơi.
Họ Lê cũng cười:
- Đại ca đùa đấy chứ?
Chàng lực sĩ nghiêm nghị:
- Không, tôi nói thật đó! Chúng ta hãy dừng ngựa, vào đây đánh chén, vì tôi thấy bụng đói lắm rồi.
Thế Hùng cản lại:
- Ấy chết, tiểu đệ xin can đại ca! Chúng ta nên chọn mộl tửu quán khác, có vẻ trung bình hơn. Vì Hoàng hạc Lâu là nơi lui tới của một số đông những người tai mắt ở thủ đô, và những người ấy hầu hết đều biết mặt tiểu đệ.
Văn Khuê vẫn không đổi ý:
- Đành là thế, nhưng nếu chúng ta không liều lĩnh dấn mình vào những chỗ quan trọng như vậy thì làm sao có thể dọ thám nghe ngóng được những tin quan trọng. Theo ý tôi, thì tôi rất mong được gặp một vài tay sai có uy thế của chúa Trịnh. Vả chăng nếu xảy ra bất trắc thì chúng ta sẽ liệu thế mau lẹ rút lui chớ có sao đâu!
Dứt lời, họ đã đến trước cửa tửu lầu. Văn Khuê dừng ngựa nhảy phóc xuống đất. Vị công tử bất đắc dĩ cũng làm theo.
Hai tráng sĩ cột dây cương vào một thân cây bên vệ đường rồi mỗi người xách gói hành lý riêng của mình, thong thả bước vào trong tiệm.
Tửu lầu vào giờ ấy, đông nghẹt những khách thuộc hạng tài tử, phong lưu, xênh xang trong những bộ y phục đắt tiền, gồm toàn lụa là, the gấm. Từng dưới, không còn lấy một bàn trống.
Văn Khuê còn đương ngơ ngác nhìn thì Thế Hùng đã nắm tay chàng, kéo tuột thẳng lên lầu và bảo:
- Lên trên nầy thanh vắng hơn, và may ra còn hy vọng thâu thập được những tin tức quan hệ. Vì các khách thượng lưu và hào phóng nhứt thường thường đều dành chỗ riêng trước ở trên lầu, để tự do yến ẩm và thưởng thức giọng hát cung đàn.
Lên tới nơi, hai người lựa xong một chỗ ngồi khít bên cửa sổ, có thể trông xuống đường cái rất rõ ràng. Họ Bùi và vị công tử đặt hai gói hành lý xuống bàn. Trong khi chờ đợi tiểu nhị, họ liếc nhìn khắp xung quanh.
Đúng như lời của Thế Hùng đã nói, trên lầu rất vắng khách. Trừ hai viên võ quan sang trọng ngồi xuống uống rượu và đàm thoại với nhau ở bàn kế cận ra thì không còn một ai khác lạ. Đám ca nhi đã kéo xuống đàn hát ở dưới lầu.
Lúc hai tráng sĩ mới thoạt tới nơi, hai viên võ quan đều ngửng đầu lên một lượt và tò mò nhìn họ. Có lẽ tưởng đó chỉ là hai gã lái buôn quê kịch và ngờ nghệch không đáng lưu ý, nên hai viên tướng ấy lại cúi xuống tiếp tục thì thầm với nhau một câu chuyện gì bí mật.
Một trong hai viên võ quan nói:
- Cuộc thảm bại bất ngờ ở Phủ Diễn vừa rồi là một vố hết sức đau đớn mà quân ta chưa bao giờ gặp. Nó đã làm tổn hại rất nhiều đến uy tín và thanh danh của Bình an Vương nên vừa hay tin, ngài đã nổi cơn lôi đình dữ dội. Chỉ suýt nữa là địa vị của quan Thái phó đã bị lung lay vì chính ông ta là người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Chúa tuy có tiếc viên hộ tướng Trương Báo nhưng bất mãn nhửt là
ở chỗ trọn một đoàn kỵ binh hùng dũng đã phải bó tay trước một lên giặc vô danh, ngang nhiên giết binh chém tướng, cướp đoạt tù xa, hoành hành như ở chỗ không người.
Viên võ quan thứ nhì hé một nụ cười mai mỉa:
- Tay vô địch võ nghệ cao cường như Trương Báo mà còn phải bỏ mạng trong nháy mắt huống hồ là đoàn kỵ binh! Nhưng theo ngu ý của tôi, vụ thảm bại vừa rồi chẳng qua là do sự khinh xuất của quan Thái phó và tánh kiêu căng hợm hĩnh của Trương tướng quân mà ra cả. còn tướng giặc chắc không đến nổi xuất chúng như người ta đã ca tụng và kinh sợ thái quá đâu. Nếu gặp tay đệ đây, dầu không dùng sức đệ cũng dùng mưu hạ nó dễ như bỡn.
Viên võ quan thứ nhứt không ngăn được chuỗi cười bật ra.
- Thôi đi! Tôi xin can. Ông bạn của tôi mới nếm có hai chén mà đã chếnh choáng rồi. Nếu bác ngứa ngáy muốn bắt giặc thì cứ việc trổ tài mà lãnh năm trăm nén bạc thưởng, còn tớ đây xin chịu.
Nhơn đây, tớ xin mách nhỏ cho bác biết, một tin hết sức quan trọng mà bác nhớ phải giữ kín nhé!
Thấy kẻ đối thoại gật đầu, ông ta lại tiếp, giọng nói hạ thấp hơn:
- Hồi chiều này, lúc còn đang hầu trong phủ, tôi được chứng kiến một cuộc thịnh nộ ghê gớm của Bình an Vương. Ngài vỗ bàn, đập ghế rầm rầm trong phòng riêng, vửt liệng đồ vật xuống đất kêu loảng choảng và lên tiếng nguyền rủa viên Trấn thủ Nghệ An là Trịnh tam Miêu không ngớt miệng. Một lát sau, thấy ngài hầm hầm bước vào nội dinh, tôi bèn tò mò hỏi thăm viên tướng hầu cận là Lê Cầu mới biết rõ nguyên do như thế nầy: Trước đó vài phút có tình báo viên về báo cáo cho ngài hay rằng hai vị Hoàng tử con vua Anh Tôn mà Thái phó Nguyễn hữu Liên đã gởi cho viên Trấn thủ Nghệ An giam giữ, đã mất tích thình lình từ đêm hôm qua.
Viên võ quan thứ nhỉ hết sức kinh ngạc.
- Hai Hoàng tử mất tích bí mật rồi à? Chắc đó cũng là thủ đoạn của tên cướp lạ mặt kia và của thằng bé phản nghịch Lê Thế Hùng chớ gì?
- Dĩ nhiên là thế - vị võ quan kia đáp.
- Và đó chính là điều làm cho Bình an Vương hết sức lo âu. Vì những biến cố vừa xảy ra đã chứng tỏ rằng tên giặc lạ mặt ấy là một trong những đồ đảng còn sót lại của phe Lê cập Đệ. Chúng đang ráo riết hành động để mưu lập một Hoàng tử lên làm vua nối nghiệp nhà Lê và sẽ chuẩn bị dấy binh đánh lại triều đình. Như vậy chúng sẽ trở nên một hiểm họa không nhỏ, bên cánh hai mối hiểm họa lớn lao là chúa Mạc ở mặt Bắc và chúa Nguyễn ở mặt Nam. Vi chúng nó sẽ đoạt mất của Bình an Vưưng cái danh nghĩa tôn phù nhà Lê mà xưa nay ngài vẫn thường khoa trương để che mắt thiên hạ.
- Vậy quan huynh có biết Ngài định sẽ đối phó bằng cách nào chăng? Ngoài việc truy nã hai tên thủ phạm chắc ngài đã huy động toàn ban trinh sát phải đi lùng kiếm khắp nơi. cho ra hai Hoàng tử hầu đem về lập làm vua kế vị cố hoàng đế Anh Tôn.
Viên võ quan thứ nhứt lắc đầu:
- Không phải vậy. Vì nếu chờ cho tới lúc làm ra được các Hoàng tử mất tích, thì biết đến bao giờ? Vả chăng để nước nhà một ngày không vua ắt sẽ gây lắm nỗi dị nghị hoang mang trong dư luận. Bởi thế, tôi nghe đâu ngài Bình an Vương đã khởi sự thi hành một biện pháp khẩn cấp. Ngài đã phái một đoàn kỵ binh tức tốc tới làng Quảng Thi, huyện Thùy Nguyên rước Hoàng tử thứ ha là Duy Đàm lới lên 6 tuổi con của hà thứ phi họ Trần đem về cung, hình như đoàn kiện binh ấy mới lên đường vừa rồi.
Viên võ quan nói tới đây bỗng ngừng lại vì chợt thấy ba tên tửu bảo trong tiệm bước lên lầu. Một đứa tiến tới trước bàn của anh em Bùi văn Khuê để hỏi hai ông ‘‘lái buôn già’’ ấy muốn dùng các món ăn gì. Trong khi đó hai tửu bảo kia lo ra tay lau chùi sắp đặt lại gọn ghẽ một cái bàn lớn kèm theo nhiều chiếc ghế ở chính giữa gian phòng, ý hẳn là dành riêng cho mộl quý khách nào vào bực đệ nhứt sang trọng tại Tây đô.
Có lẽ đoán biết trước vị quý khách sắp đến là ai và muốn tránh khỏi bị khuấy rối trong sự yên tĩnh mà họ đã chọn lựa, hai viên võ quan bèn mời nhau cạn chén đoạn kêu tiểu nhị tinh tiền, rồi lật đật đứng dậy, dắt nhau xuống lầu.
Thế Hùng và Văn Khuê tuy không rõ tên họ và chức vị của hai người ấy, song nãy giờ, ngồi chăm chú lắng nghe cuộc đàm thoại bí mật của họ, hai hiệp sĩ cũng chán hiểu rằng đó là hai nhơn vật khá trọng yếu trong số thuộc hạ của Trịnh Tùng.
Đợi cho họ xuống khỏi thang lầu, họ Bùi ghé tai bảo nhỏ bạn:
- Chúng ta vào đây, quả là không đến nỗi uổng công. Vừa rồi lão kia đã tiết lộ với đồng liêu của hắn rằng Trịnh Tùng mới sai người đi rước Hoàng tử thứ năm là Duy Đàm, tại huyện Thùy Nguyên. Dám binh sĩ đi rước mà anh em ta gặp lúc nãy giữa đường, đích thị là đoàn kiêu binh ấy.
Vậy phen này, chúng ta lại thử phá hỏng một phen nửa kế hoạch của tên đại gian hùng!
Lê thế Hùng gật đầu:
- Đại ca nói chí phải. Chúng ta không nên bỏ lỡ cơ hội này. Phải làm cho Trịnh Tùng lâm vào cảnh bế tắc, khiến nó rơi mặt nạ xuống trước dân chúng mới được.
Thôi anh em ta dùng qua loa vài món tạm no lòng rồi chuẩn bị ra vùng ngoại ô chận đón bọn kiêu binh.
Trái với sự hăm hở, nôn nao của bạn, Bùi văn Khuê vẫn giữ vẻ bình tĩnh và mỉm cười:
- Hãy thong thả ngồi đánh chén cho thật no say đã. Bây giờ chỉ mới cuối giờ Dậu. Bọn Kiêu binh dầu có nhanh chơn lắm thì cũng quá khuya nay mới có thể trở về Tây Đô. Ấy là chưa kể một vài trở ngại mà chúng có thể gặp tại Thùy nguyên hay ở dọc đường...
Chàng nói chưa dứt lời, thì từ phía dưới lầu bỗng có những tiếng xôn xao, huyên náo. Cả hai giựt mình dứng dậy, nghiêng đầu qua cửa sổ, nhìn xuống đường. Họ thấy một đám người ngựa lố nhố đang dừng chân trước tửu quán. Đi đầu là một gã thiếu niên sang trọng, trạc mười chín, hai mươi tuổi, to béo phục phịch, đầu chít khăn vàng, mình mặc áo cẩm bào màu lam, lưng đeo trường kiếm, trông hách dịch bệ vệ trên lưng ngựa.
Trong tửu lầu, những tiếng xì xào chạy dài một lượt trên khắp cửa miệng của mọi người:
- Ngài Thế tử!
Hai viên võ tướng cao lớn lực lưỡng tùy tùng hai bên, vội vàng nháy phóc xuống ngựa và xúm lại nâng đỡ gã thanh niên hạ mã. Đoạn họ thong thả bước vào trong tiệm. Sau lưng họ, có mười tên sĩ tốt được lịnh theo hầu, còn lối mấy chục tên còn lại thì đứng chờ trước quán.
Có tiếng bàn ghê xê dịch sột soạt ở từng dưới, báo cho hai tráng sĩ biết rằng tất cả khách khứa ngồi trong tửu lầu đều đứng lên một loạt, cung kính chào mừng gã thiếu niên mới tới.
Trước vẻ ngạc nhiên của Bùi văn Khuê, Lê thế Hùng cắt nghĩa:
- Thằng trai trẻ mập mạp ấy là Trịnh Tráng, con trai của Trịnh Tùng đấy.
Họ Bùi cau mày:
- Thế à! Mà này hiền đệ, tại sao người ta lại trọng vọng nó thế nhỉ?
Thế Hùng mỉm môi:
- Trọng vọng nỗi gì! Ở Tây đô nầy, thiên hạ đều nơm nớp sợ uy thế của cha nó. Chớ thật ra, trong tâm, người ta thống mạ, nguyền rủa cha con nó không tiếc lời. Vì thằng Trịnh Tráng này được cha nó nương chiều, nên lâu nay từng tác oai, tác phúc và làm khổ lương dân không phải ít, tất nhiên là phải sợ lây đến nó.
Nói đến đây, chàng tráng sĩ bỗng ngừng lại, xây lưng nhìn một tên tiểu nhị đang xồng xộc chạy lên lầu, tới trước mặt mình vẻ mặt hớt hơ hớt hãi.
- Thưa nhị vị quý khách, chủ nhơn tôi xin mời nhị vị xuống tạm dưới lầu an tọa, vì trên này phải dành riêng cho ngài Thế tử. Xin nhị vị xuống gấp cho.
Bùi văn Khuê quắc mắt nhìn tên phổ ky:
- Ô hay! nếu lầu này để dành riêng cho kẻ khác thì tại sao chủ tớ nhà ngươi lại không cho khách hay trước? Đợi đến bây giờ, chúng ta đang ăn uống dở đang như thế này, nhà ngươi lại buộc chúng ta phải dời đi là cớ làm sao?
Thái độ hơi bướng bỉnh của Văn Khuê làm cho viên chủ tiệm vừa tất tả chạy lên sau rất lấy làm lo sợ. Ông ta gạt tên phổ ky sang một bên, rồi gãi đầu, gãi tai, cố gắng giải thích:
- Xin nhị vị tha lỗi cho, sở dĩ vừa rồi chúng tôi không kịp thông báo với nhị vị là vì ngài Thế tử đến thình lình quá. Vậy xin nhị vị...
Chàng lực sĩ cắt ngang:
- Như vày, đó chính là lỗi củu Thế tử chớ đâu phải lỗi của chú mà chú lo lắng rối rít cho mệt xác. Theo lẽ công bằng, bất luận ai, dầu là vua chúa chăng nữa, hễ muốn đặt mâm cỗ tiệc tùng hay muốn dành riêng một phòng, hoặc trọn căn lầu cho mình thì phải dặn trước. Nếu không, tửu lầu có quyền để các chỗ trống cho khách tứ phương. Và khách tứ phương có quyền xử dụng những chỗ trống ấy. Như trường hợp của chúng tôi chẳng hạn, chúng tôi có quyền ngồi ở đây. Tuyệt nhiên không sợ ai đuổi xô hoặc uy thế gì buộc chúng tôi phải dời đi nơi khác hết.
Sự lập luận cường ngạnh của Bùi văn Khuê khiến lão chủ tiệm người Tàu bất mãn. Nhìn lốt y phục lái buôn quê mùa của hai người đang khoác trên mình, lão có ý khinh thường. Vả chăng, những tiếng bước chân nện thình thịch trên các bậc thang, báo hiệu rằng Trịnh Tráng và đoàn tùy tùng của y sắp sửa lên lầu, lại càng làm cho lão thêm lính quýnh. Lão buông ra một câu nói sỗ sàng:
- Nầy nhé! Thấy hai bác quê mùa, không thuộc tục lệ của chốn kinh kỳ nên tôi đã dùng những lời lẽ ôn tồn để khuyên bảo mà hai bác không thèm nghe, lại còn giở lý sự ra nữa.Rồi đây có mất đầu thì đừng oán trách nghe không?
Dứt lời, lão toan trở gót quay đi nhưng liền bị bàn tay hộ pháp của chàng lực sĩ thộp lấy ngực, nắm lại. Văn Khuê quát lên:
- Cha chả! Lão già khốn kiếp nầy lại dám hổn xược với khách à? Chúng ta phải cho mầy một bài học mới được.
Nói xong, chàng giở hổng lão chủ tiệm lên dang tay hầm hầm toan ném xuống thang lầu.
Sợ cơn thịnh nộ của Bùi văn Khuê sẽ gây thành án mạng và nẩy sanh ra chuyện bất thường có thể làm bại lộ tông tích của hai chàng hiệp sĩ giữa chốn kinh thành, Lê thế Hùng vùng đứng dậy, nắm lấy cánh tay bạn, cản lại:
- Xin đại ca bớt nóng, dung tha cho hắn một phen. Cái bọn phú thương ngoại kiều ngu muội nầy đều như thế cả, chấp nhứt chúng mà làm gì! Vả chăng sắp đến giờ chúng ta phải lên đường rồi!
Bùi văn Khuê nhìn bạn hiểu ý. Sắc mặt vẫn còn giận dữ, chàng buông tay ra. Lão chủ quán nãy giờ bị chàng giỡ hổng lên, tứ chi co quắp, theo đó lăn nhào xuống sàn lầu với một tiếng ‘‘thịch’’ nặng nề.
Sau một phen khiếp vía, lão chủ quán được tha, hì hục lồm cồm bò dậy và quên cả đau đớn đâm đầu chạy thẳng một mạch xuống lầu.
Nhưng đến cầu thang, thì hắn vội dừng lại, vì gặp Trịnh Tráng và đoàn tùy tùng đang rần rộ bước lên. Nối gót chúng là bọn ca nhi và nhạc công với đờn địch kèn sáo kè kè bên nách.
Trịnh Tráng bệ vệ tiến đến trước bàn tiệc sang trọng dành sẵn cho mình, rồi liếc nhìn khắp một vòng gian phòng rộng rãi của Hoàng hạc Lâu. Bỗng tia mắt hắn ngừng lại trên hai người ‘‘lái buôn giả’’ và sa sầm xuống.
Trịnh Tráng cau mày, day lại quát hỏi chủ tiệm:
- Ồ hay! Tại sao nhà ngươi lại cho hai tên nhà quê thô kịch và lạ mặt này leo lên lầu để làm bẩn mắt ta?
Lão chủ quán chỉ đợi có giây phút ấy để mượn tay người trả mối căm thù vừa rồi đối với chàng lực sĩ. Lão khúm núm, chắp tay lại mà bẳm rằng:
- Kính bẩm Thiên tuế, xin Thiên tuế tha lỗi cho tôi nhờ. Chính lúc nãy, khi chợt hay tin Thiên tuế ‘‘ngự’’ tới đây để làm vinh dự cho Hoàng hạc Lâu, tôi đã đích thân lên nài nỉ yêu cầu hai gã nhà quê nầy nên lập tức xuống nhà dưới để tránh chỗ cho tôi được hầu hạ Thiên tuế. Thì chúng nhứt định không nghe, lại còn thốt lời hỗn xược và hung hăng giở thói vũ phu, khiến suýt nửa tôi phải táng mạng.
Nghe dứt lời. Trịnh Tráng hai mắt đỏ ngầu, giơ tay chỉ thẳng về phía Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng mà thét lớn:
- Ái chà! Hai thằng chết bầm nầy từ xó đồng ruộng nào mò lên tới kinh đô mà dám to gan lớn mật, cãi lịnh của ta à? Tạ tướng quân đâu! Hãy bắt trói cổ cả hai đứa lại, giải về tống giam vào ngục thất cho ta.
Viên võ tướng đứng bên tả Trịnh Tráng, tác người cao lớn, nước da ngăm ngăm đen, tướng mạo hung dữ, tên là Tạ bảo Sơn cúi đầu, tuân lịnh, rồi hăm hở tiến thẳng đến trước bàn của hai chàng lực sĩ.
★
Từ nãy tới giờ, Lê thế Hùng và Bùi văn Khuê vẫn ngồi lặng yên. Cả hai, nhứt là họ Bùi, đã ân hận rằng, họ không sớm rời khỏi tửu quán để tránh một cuộc đụng chạm nẩy lửa bất ngờ và chắc chắn bất lợi cho họ. Vì sự hiện diện bí mật của họ tại Tây đô có thể vì đó mà bị phát giác và Trịnh Tùng ắt sẽ huy động tất cả binh mã của y để vây bắt họ.
Nghĩ thế, nên vừa rồi, Cả hai đã cố dằn lòng tự ái của mình, đã cố nhịn nhục, không trả lời câu sỉ mạ của Trịnh Tráng, mong rằng hắn sẽ để cho họ thoát ra khỏi Hoàng hạc Lâu một cách yên thân. Nhưng không, Trịnh Tráng quyết bắt họ để hạ ngục, để trừng trị cho thoả tánh kiêu hãnh, độc ác tham tàn của hắn. Thế là, rốt cuộc, việc đã dĩ lỡ. Hai tráng sĩ chỉ còn có cách chuẩn bị hầu liệu bề đối phó với tai họa đột ngột xảy ra đến cho mình. Khi thấy Tạ bảo Sơn hăng hái tiến tới trước bàn họ, cả hai chàng Iái buôn giả đều đưa mắt cho nhau và trầm tính đợi chờ.
Viên võ tướng của Trịnh Tráng dừng lại cách chỗ họ ngồi chừng một bước, rồi lên tiếng dõng dạc truyền:
- Hai thằng quê mùa, mọi rợ này! Chúng bây đã nghe ngài Thế tử phán những gì rồi chứ? Hãy mau mau đứng dậy đưa tay ra mà chịu trói!
Nhưng Văn Khuê và Thế Hùng vẫn ngồi yên không nhúc nhích, trừng trừng nhìn lên viên võ tướng.
Tạ bảo Sơn cả giận, trợn cặp mắt tròn xoe:
- Ô hay! Chúng bây giả điếc à? Có lẽ chúng bây đã đến lúc tận số rồi thì phải!
Dứt lời, hắn giơ tay toan thộp lấy cổ của Lê thế Hùng, song không ngờ chàng dũng sĩ đã vụt đứng phắt dậy, lẹ làng đón bắt lấy tay hắn, vặn ngược trở lại. Viên võ tướng họ Tạ đau đớn quá, chưa kịp kêu lên một tiếng, thì đã bị Thế Hùng phóng chân tống cho một đá, văng ra xa cách hơn năm thước, và ngã nằm sóng sượt trên sàn gác.
Việc xảy ra nhanh chóng như một lằn chớp, khiến mọi người hiện diện, kể từ Trịnh Tráng, đám vệ sĩ, lão chủ quản cho chí bọn ca nhị và nhạc công đều vô cùng kinh dị. Không ai ngờ rằng một gã lái buôn quê mùa trẻ tuổi lại có thể cho viên dõng tướng hầu cận của vị Thế tử ‘‘đo ván’’ một cách dễ dàng như trở bàn tay.
Nóng lòng trả thù cho bạn, viên võ tướng đứng bên hữu Trịnh Tráng là Hà song Thạch không đợi lịnh của vị Thế tử, tuốt gươm xông tới...
Lanh như cắt, hai chàng tráng sĩ đồng một loạt, rút hai thanh đoản kiếm giấu trong mình ra, lăm lăm cầm sẵn nơi tay, thủ thế.
Bùi văn Khuê xây qua bảo Thế Hùng:
- Hiền đệ cứ để mặc ta xử trí với lũ này.
Chàng vừa dứt lời, thì Hà song Thạch đã sẵn đến trước mặt chàng, nghiến răng trèo trẹo:
- À! Thì ra thằng súc sanh này tình nguyện nạp mạng chết thay cho thằng kia. Được lắm!
Một lát gươm từ trên cao vụt bổ xuống, tiếp theo liền câu nói hăm dọa ấy, Văn Khuê điềm nhiên sẽ nghiêng mình sang một bên, rồi tung kiếm lên gạt mạnh lưỡi gươm của họ Hà. Hai thứ khí giới chạm nhau trong một tiếng ‘‘xoảng’’ đinh tai, chát óc.
Tuy Văn Khuê không vận dụng hết sức bình sanh, nhưng cánh tay viên võ tướng của Trịnh Tráng bỗng nhiên bủn rủn và tê buốt, cơ hồ muốn buông rơi võ khí. Kinh hoảng, hắn toan rút vội thanh gươm của mình về nhưng không kịp. Chàng lực sĩ lanh tay đã chém quật trở lại một lát, khiến thanh gươm của Hà song Thạch rời khỏi tay hắn và bay vẹt sang một bên.
Thấy hai dõng tướng của mình, kẻ bị đánh ngã, kẻ bị tước khí giới, Trịnh Tráng sợ hãi cuống cuồng, vội thúc gọi binh lính mau mau xông vào trợ chiến.
Mười tên vệ sĩ hiện diện, hiệp với đám binh lính rần rộ từ dưới đường kéo lên lầu, tức thì hăm hở kéo tới, quyết bao vây hai chàng tráng sĩ.
Ngay lúc ấy Tạ Bảo Sơn viên võ tướng của Trịnh Tráng
đã bị Thế Hùng đá ngã lúc nãy cũng lồm cồm đứng dậy, tuốt gươm ra khói vỏ, nhảy sổ đến chém đầu Bùi Văn Khuê để giải cứu cho bạn.
Chàng lực sĩ cau mày lùi lại phía sau một bước, và đứng ngang hàng với Thế Hùng. Chàng trỏ thẳng mũi kiếm vào mặt địch thủ, dằn mạnh từng tiếng mà thét rằng:
- Hởi lũ lang sói kia, hãy ngừng tay mà nghe ta nói đã. Chúng ta với các người vốn vô can, không thù oán, nhưng tên ranh con Trịnh Tráng, ỷ thế cậy quyền gây ra sự xung đột đẫm máu nầy. Biết rằng các ngươi chỉ là một bọn tay sai, vô trách nhiệm, nên từ nãy đến giờ chúng ta không nỡ giết. Vì chúng ta những kẻ có lương tâm, nhơn đạo chớ không phải khát máu người như cha con họ Trịnh tàn bạo kia đâu. Vậy các ngươi nên biết nghe lời nói phải trái mà lui ra, đừng buộc anh em chúng ta phải mang tiếng nhúng tay vào một cuộc sát sanh mà chúng ta không hề muốn.
Hai viên tướng Tạ bảo Sơn, Hà song Thạch và nhứt là các binh sĩ hơi phân vân do dự trước câu thuyết phục hùng hồn của chàng lực sĩ. Sự thật không phải chúng do dự vì biết nghe ‘‘lời nói hợp lý’’ mà chính là vì chúng vừa được ‘‘nếm’’ thử, hoặc được chứng kiến tài nghệ và sức mạnh phi thường của hai gã lái buôn.
Trong khi ấy, bị xúc phạm và bị thống mạ, Trịnh Tráng mặt tái ngắt, giận run lên, quát vang truyền lệnh:
- Phải hạ thủ hai tên cướp ấy cho ta. Đừng để cho chúng trốn thoát. Mau lên! Phía dưới đã có quân triều đình kéo đến tiếp ứng và vây chặt cả rồi.
Qua cửa sổ, Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng liếc mắt nhìn xuống đất. Quả đúng như lời Trịnh Tráng, binh sĩ triều đinh có tới hằng mấy trăm người, đang tấp nập giàn ra trước cửa Hoàng hạc Lâu và chận hết lối ra vào.
Nghe tin có quân cứu viện, không đợi thúc giục tới hai lần, Tạ bảo Sơn lướt tới, lưỡi gươm quyết tử chiến với Văn Khuê. Đồng thời, Hà song Thạch, sau khi mất võ khí, đã tiếp lấy một cây dao do một tên lính trao cho, cũng chồm tới tấn công chàng lực sĩ.
Với một cái liếc mắt ra hiệu, cuộc phản công giữa hai chú ‘‘lái buôn giả’’ đã được cắt đặt rõ rệt: Bùi văn Khuê phải đương đầu một lượt với hai viên võ tướng của Trịnh Tráng, còn Lê thế Hùng thì phải đối phó với đám vệ sĩ, quân lính và phải đánh thủng vòng vây để mở một lối ra.
Chàng lực sĩ kết thúc phân sự của mình một cách cực kỳ nhanh chóng. Không đầy hai phút giao phong, họ Bùi chém Hà song Thạch dứt phăng cánh tay bên hữu và đâm Tạ bảo Sơn một kiếm xuyên từ trước ngực ra đến sau lưng. Hai viên tướng của Trịnh Tráng kế tiếp nhau rú lên hai tiếng kêu khủng khiếp, rồi ngã vật xuống trên vũng máu.
Riêng phần mình. Lê thế Hùng thi hành phận sự rất có phương pháp.Thấy bọn vệ sĩ hè nhau tràn tới chàng xách luôn hai cái ghế đẩu mà chàng cùng Văn Khuê vừa ngồi thẳng tay ném mạnh vào đám đông, khiến chúng phải dang ra. Hết ghế, đến chén, dĩa. bình rượu, lọ bông v…v... nối tiếp nhau bay vùn vụt lên đầu lên mặt, vào mình bọn lính hầu cận của Trịnh Tráng như mưa bão, gây thương tích, máu me đầm đìa khiến chúng không dám xáp đến gần. Sau cùng, chàng xách hổng chiếc bàn bằng gỗ rất nặng và rất dày lên, dùng nó làm chiếc mộc để hộ thân rồi lao mình tới trước, vung kiếm tấn công tới tấp để phá vòng vây.
Sau lưng chàng, Bùi văn Khuê vừa được rảnh tay, cũng nổ lực tả xung hữu đột, để vạch một con đường máu hầu đưa họ thoát ra khỏi lầu Hoàng hạc.
Trong nháy mắt, tửu điếm danh tiếng nhứt của Tây đô vụt biến thành một bãi chiến trường mà cảnh máu chảy thịt rơi chồng chất trên bao nhiêu tan tành, đổ nát.
Được mục kích tận mắt cái chết thê thảm của viên dõng tướng họ Tạ, và trước nguy cơ thình lình kề sát bên mình, Trịnh Tráng kinh hoảng cắm đầu, lùi một mạch xuống thang lầu, sai người tức tốc phi ngựa về Phủ Chúa cấp báo với cha là Trịnh Tùng và yêu cầu phải thêm binh tiếp viện.
Nhưng, như chúng ta đã thấy, trước khi tên này đến tại cửa Bình an Vương, các quân sĩ triều đình ở các vùng quanh đã tự động tấp nập kéo tới để hiệp lực với đám vệ binh của vị Thế tử, hầu vây bắt hai gã lái buôn ngỗ ngược và vô cùng lợi hại.
Trên lầu, cuộc chiến đấu càng lúc càng trở nên khốc liệt. Bùi văn Khuê và Lê Thế Hùng trổ hết thần oai, tiếp tục đánh bạt đối phương và gieo chết chốc khắp quanh mình.
Bọn vệ sĩ của Trịnh Tráng, ban đầu còn hăng, bây giờ đến khiếp vía dang ra, và dầu dầu thụt lùi về phía cầu thang, mong tìm đường trốn, tránh.
Hai chàng hiệp sĩ mừng lắm, cố đánh tới để mở một lối thoát thân.
Hai lưỡi kiếm lấp lánh vung đến đâu, là những địch thủ chậm trễ hay vướng chân đua nhau ngã gục ra ở đó.
Chỉ trong khoảnh khắc, Văn Khuê và Thế Hùng đã làm chủ được tình thế trên lầu nầy, vì hầu hết đám quân lính hiện diện đều bị dồn, bị hất xuống từng dưới.
Hai tráng sĩ ra dấu cho nhau, toan phóng mình rượt theo xuống nhưng bỗng cả hai đồng cau mày ngừng lại. Ngoài kia, trên đường cái và gần phía cửa, có tiếng vó ngựa rộn rịp, tiếng hò hét xôn xao huyên náo lạ thường.
Văn Khuê và Thế Hùng lo lắng nhìn ra, họ thấy vô số ngọn đèn lồng, sáng rực như sao sa. Dưới ánh đèn ấy hằng ngàn Kiêu binh của Trịnh Tùng điệp điệp trùng trùng, ồ ạt tràn vào Hoàng hạc Lâu như thác chảy.
Bùi lực sĩ lẩm bẩm:
- Nguy rồi, anh em ta khó lòng thoát khỏi bằng ngõ này! Nên tìm lối khác là hơn.
Ý nghĩ ấy cũng là ý nghĩ của họ Lê.‘‘Tìm lối khác’’, phải, nhưng lối nào bằng cách nào? cả hai, giữa cuộc giao phong mê mải, chưa có thì giờ để giải đáp câu hỏi ấy.
Hiện tại họ chỉ biết đành tùy cơ ứng biến và đương đầu với những làn sóng của đối phương đang cuồn cuộn từ dưới dâng lên.
Thật vậy. gạt ra hai bên đám binh thối lui vừa bị Văn Khuê và Thế Hùng đánh bại, toán thứ nhứt của đoàn Kiêu binh đổ xô vào cửa tửu lầu như một trận phong ba.
Viên tướng đi đầu mặt đen như lọ chảo, râu quai nón xồm xoàm, thân hình to béo vạm vỡ, hai tay cầm hai cây chùy đồng to tướng, xăm xăm nhắm hướng thang lầu tiến tới. Đó là Kim Ngô tướng quân Thái Ngột, người vừa được Trịnh Tùng cất nhắc lên địa vị thống lãnh đội cảm tử quân thay thế cho Trương Báo bị tử nạn tại Nghệ an.
Thái Ngột có sức mạnh phi thường. So về võ nghệ, hắn có phần lấn át cả Trương Báo, song chỉ vì tánh tình nóng nảy, và thô lỗ nên trước đây, ít được chúa Trịnh tin dùng.
Chính lúc còn sanh tiền, hai anh em Trương Báo và Trương Hổ đều phải kiêng nể họ Thái và nhứt là khiếp sợ trước cặp chùy đồng của hắn. Vì cặp chùy lợi hại ấy, trong một cuộc thí võ hồi năm trước đã vô tình đánh vỡ đầu một địch thủ, nát ngấu như tương. Tuy nhiên trong cuộc thí võ ấy do sự thiên vị của ban giám khảo hoàn toàn hành động theo ý muốn của chúa Trịnh, chức quan quân tức là võ trạng rốt cuộc lọt vào tay Trương Báo, khiến Thái Ngột hết sức bất bình.
Vừa đây, nhờ hai anh em họ Trương kế tiếp nhau bỏ mạng nên ngôi sao bấy lâu lu mờ của Ngột bỗng bừng sáng trở lại. Hắn được Trịnh Tùng giao phó cho những trọng trách quan trọng về công cuộc bảo vệ an ninh trong phủ và được phải đi can thiệp những vụ khẩn yếu hay nguy cấp.
Như vậy tối hôm ấy, sau khi có tin của Trịnh Tráng phi báo về, Thái Ngột được lịnh của Bình an Vương tức tốc dẫn vài bộ tướng và đoàn Kiêu binh rần rộ kéo đến Lầu Hoàng Hạc.
Theo lời chỉ dẫn của những người đứng trước cửa và ở nhà dưới Thái-Ngột xách cặp song chùy hăm hở nhảy phóc lên thang lầu. Sau lưng hắn là ba viên tùy tướng và đoàn Kiêu binh.
Vượt được chừng năm sáu chục nấc thang, họ Thái ngước mắt nhìn lên. Bỗng nhiên, y sửng sốt dừng chân lại.
Y vừa nhận ra được người đứng trên lầu là ai.
Thái Ngột buột miệng reo lên như người bất ngờ mới phát giác một chuyện tân kỳ:
- Ồ kia! Lê Thế Hùng!
Rồi hắn quay lại hô to:
- Bớ quân sĩ! Tên lái buôn nầy chính là Lê Thế Hùng, thằng con trai của gian thần Lê Cập Đệ cải dạng. Nó chính là tên phiến loạn mà triều đình đang gia tâm truy nã. Hãy bắt lấy hắn cho kỳ được, và bắt luôn cả tên nghịch tặc đồng lõa với hắn nữa.
Trên lầu, thấy mình đã bị nhận diện, bị bại lộ hình tích, Thế Hùng biến sắc, cảm thấy cuộc phiêu lưu mạo hiểm của mình sắp đến đoạn kết thúc rồi.
Đứng bên cạnh bạn, Bùi Văn Khuê cũng không giấu nổi sự hồi hộp, lo lắng. Chàng hỏi nhỏ Thế Hùng:
- Viên tướng nầy là ai thế? Hắn biết mặt hiền đệ à?
Vị công tử đáp:
- Vâng, trước đây tiểu đệ đã từng gặp gỡ hắn vài lần. Hắn là Thái Ngột một tay bộ hạ lợi hại nhứt của Trịnh Tùng hiện thời. Phen này phải đối đầu với hắn và bại lộ cơ mưu, tình cảnh của chúng ta đã khó khăn lại trở nên nguy kịch thêm.
Để nâng đỡ tinh thần không được vững vàng của bạn, chàng lực sĩ tỏ ra vẻ hăng hái và quả quyết lạ thường. Giọng rắn rỏi và nghiêm nghị, chàng nói:
- Dầu sao đã có tôi, hiền đệ chớ nên thất vọng, và bi quan vội. Chúng ta cứ rán cầm cự được lúc nào hay lúc ấy. Tôi đã có kế thoát khỏi vòng vây rồi.
Thế Hùng chưa kịp hỏi bạn đó là kể gì thì Thái Ngột đã phóng mình tới trước chàng.
Đồng thời, cặp chùy đồng của hắn vung lên và cùng một loạt gieo xuống đỉnh đầu chàng với sức nặng ngàn cân khủng khiếp.
Lẹ làng, vị công tử nhảy trái sang một bên rồi, quay gươm lại chém ngược xuống bả vai bên hữu của hắn. Nhanh như cắt, Thái Ngột, sau khi đánh hụt và hơi mất thăng bằng, đã gượng lại kịp, thu cặp song chùy về, và hất mạnh một chiếc qua phía mặt, đón lấy lưỡi kiếm của Thế Hùng.
Một tiếng ‘‘keng’’ chát chúa nổi lên do sự chạm giữa đồng và thép, Lê thế Hùng cảm thấy cánh tay mình hơi tê buốt dưới trọng lượng khác thường của võ khí đối phương. Mũi kiếm thép chang e dè chờ đợi một miếng đòn thứ nhì, đang hứa hẹn ác liệt và gớm ghê hơn nữa.
Thái độ thận trọng và cử chỉ tự vệ của chàng thanh niên làm cho Thái Ngột càng thêm phấn khởi. Vênh váo và tự đắc hắn tưởng chừng sắp nắm chắc phần thắng trong lay, sau một cuộc thi oai sơ sài đã làm cho địch thủ kinh tâm nể mặt. Hai cặp chùy đồng, hắn lại chồm tới, điệu bộ hung hăng như quyết ‘‘ăn tươi nuốt sống’’ cho được kẻ thù.
Hành động phách lối của Thái Ngột đã làm cho Bùi văn Khuê rất ‘‘ngứa mắt’’ khó chịu. Tuy nhiên nãy giờ chàng bận chận đón lũ Kiêu binh đang khởi sự tràn lên lầu, sau lưng chủ tướng của chúng.
Công việc sau này chàng lực sĩ rất êm ái nhẹ nhàng không khác nào như một chàng khổng lồ đùa giỡn với lũ trẻ thơ. Một tốp đầu tiên vừa nhô lên, liền bị chàng phóng chân đá lăn nhào xuống, khiến đứa nầy té chõng lên đứa kia, kêu la inh ỏi. Thấy không nguy hiểm gì lắm đến tánh mạug, tốp thứ hai tức thì hè nhau sấn tới. Để cho chúng khiếp đảm, họ Bùi buộc lòng giơ gươm vẹt ngang, hớt đứt luôn một vài thủ cấp.
Máu đào phun ra tung toé giữa những tiếng rú thất thanh. Như những trái dừa khô chín rụng, một số đầu lâu rơi xuống dưới những tiếng ‘‘thịch’’ nặng nề.
Tuy đối phó với lũ Kiêu binh, nhưng Văn Khuê cũng đủ thì giờ để theo dõi cuộc giao phong bắt đầu khởi diễn giữa Thái Ngột và bạn mình. Nhơn đó chàng đã có dịp nhận định qua tài nghệ viên tướng ‘‘số một’’ của Trịnh Tùng cùng sự bối rối vào hơi nao núng của bạn.
Muốn giải quyết tình thế mau lẹ, chàng thấy phải thay đổi vai tuồng với Thế Hùng, vì mỗi giây phút qua vòng vây bên ngoài, xung quanh Hoàng hạc lâu, càng chặt chẽ thêm và càng hãm hai người vào một cảnh bế tắc mỗi lúc mỗi thêm nghiêm trọng. Trong Tây đô bấy giờ náo động lên như một chảo dầu đang sôi sùng sục. Từ phố nầy qua phố khác những tiếng hô ‘‘ bắt giặc’’ vang dậy, chạy dài khắp các nẻo đường...
Văn Khuê lớn tiếng bảoThế Hùng:
- Hiền đệ nên thay thế ta trị bọn chuột lắc này, còn thằng khốn kiếp kia, hãy để cho ta.
Đề nghị nầy, nếu được vị công tử tiếp đón một cách khoan khoái, thì đó cũng là một sự khiêu khích nặng nề đối với Thái Ngột. Vừa rồi, liếc thấy chàng lực sĩ đánh lui và chém chết đám Kiêu binh dưới quyền điều khiển của mình, họ Thái căm giận vô cùng, song vì bận giao chiến với Thế Hùng, nên chưa rảnh tay để can thiệp. Thái Ngột nghĩ bụng rằng một lát nữa, sau khi hạ thủ xong họ Lê, hắn sẽ quay sang giết luôn Văn Khuê một cách dễ dàng. Ấy thế mà, bây giờ đang so tài dang dở với Thế Hùng, hắn bỗng bị Văn Khuê gọi mình là ‘‘thẳng khốn kiếp’’.
Thật vậy lời mà chàng lực sĩ họ Bùi vừa thốt ra trên đây là một lời thống mạ khiến hắn tức đến lộn ruột. Thái Ngột gầm lên như một con hổ dữ, thình lình bỏ Thế Hùng, múa tít cặp song chùy, xông tới đánh nhầu với Văn Khuê.
Thấy cuộc thay đổi vai tuồng đã thực hiện mau lẹ theo ý muốn của mình, họ Bùi cả mừng, giao việc phòng thủ thang lầu lại cho bạn, đoạn vận dụng hết sức bình sanh, quyết đối địch với viên thượng tướng của Trịnh Tùng.
Một trận thư hùng quyết liệt và ngoạn mục khởi sự nhóm lên trên lầu tửu điếm, khiến cho bao nhiêu người hiện diện đều phải ngừng tay, nín thở, bao nhiêu cặp mắt ngơ ngác đều phải chăm chú nhìn theo.
Có thể bảo đây là một cuộc va chạm giữa hai sức mạnh phi thường mà thiên hạ chưa từng bao giờ chứng kiến. Cặp chùy đồng của Thái Ngột bay vù vù trên đầu, trên vai Bùi văn Khuê trong khi lưỡi kiếm của chàng lực sĩ vi vút vạch những lằn chớp lấp lánh trước mặt và quanh mình đối thủ.
Giữa những tiếng võ khí đụng nhau chan chát, làm bật ra những tia lửa kinh hồn, hai họ Thái, Bùi lăn xả vào quyết tử chiến với nhau, khi qua khi lại, lúc tới lúc lui, lanh lợi thoăn thoắt như hai cái bóng.
Cuộc hỗn chiến ác liệt giữa Thái Ngột và Bùi văn Khuê kéo dài mãi, hết hiệp này sang hiệp khác, mà vẫn chưa phân thắng bại. Cả hai đương hồi sung sức, càng đánh càng hăng quyết nỗ lực thi thố hết tài nghệ của mình, và xử dụng tất cả những miếng đòn hiểm độc để mong hạ thủ đối phương.
Trận giao tranh, như trên đã nói, đang diễn ra sôi nổi trên từng thứ nhứt của lầu Hoàng hạc, có thể vì với một cuộc thi võ đài ngoạn mục và ghê rợn vào bực nhứt. Vì từ phía dưới lầu, hằng vạn quân của triều đình, trong số có xen lẫn một phần
dân chúng hiếu kỳ, đều dường như quên lãng cả phận sự của họ và biến thành những khán giả chăm chỉ và say mê.
Thật vậy, hằng vạn cái đầu ngước lên không biết mỏi, hằng vạn cặp mắt đăm đăm theo dõi cuộc so tài giữa hai địch thủ xứng đáng, cuộc so tài mà họ mới được mục kích lần đầu tiên trong đời mình. Hùm xám Tây đô đương đầu với sư tử Nghệ An.
Mười hiệp kế tiếp nhau vùn vụt trôi qua. Hiệp thứ mười một khởi diễn liền bằng những vố tấn công ồ ạt như bão táp của Thái Ngột. Cặp chùy đồng trong tay viên mãnh tướng của Trịnh Tùng đảo lộn, reo vù vù trong không khí, và nhiều lượt va chạm một cách tuyệt vọng vào lưỡi gươm thép kiên cố của Bùi văn Khuê.
Thấy mình đã trổ hết bao thế lợi hại mà đối thủ vẫn không hề nao núng, Thái Ngột rất lấy làm bực tức và căm giận vô cùng. Tuy nhiên trong thâm tâm, hắn không khỏi ngạc nhiên và thầm thán phục tài nghệ của Bùi văn Khuê. Song vốn tánh nóng nảy và tự phụ, hắn không dằn nổi sự phẫn nộ khi nhận thấy các thế công của mình liên tiếp bị phá vỡ một cách thảm thương.
Một lần nữa, trước cặp song chùy bị đánh bật trở về làm cho hắn suýt nguy khốn đến tánh mạng, Thái Ngột điên tiết, hầm hầm thét lên một tiếng như xé không gian rồi lại lăn xả vào kẻ địch.
Nếu tánh nóng nảy là một nhược điểm có hại cho đấu pháp của họ Thái thì ngược lại, sự bình tĩnh đã giúp cho Văn Khuê chiến đấu một cách sáng suốt và vững vàng. Vả chăng, ngoài sức mạnh mà chàng có thừa để đối phó với sức mạnh của viên tướng của Trịnh Tùng, chàng lực sĩ vô địch của đất Nghệ An, về phương diện bản lãnh và tài nặng, có phấn lấn át hơn đối thủ.
Vốn là một tay kiếm thuật xuất chúng, lỗi lạc và nhứt là có óc khoa học, nên ngót mười hiệp vừa qua, thay vì tận lực biểu diễn hết những chỗ tuyệt diệu tinh túy của mình để cả thắng, Văn Khuê chỉ giao chiến cầm chừng và gia tầm dò xét, nghiên cứu những sở trường và sở đoản của đối phương. Sau khi nhận ra vài chỗ hơ hỏng sơ sót nơi tánh tình và trong đấu pháp của Thái Ngột, bây giờ chàng mới sẽ phóng ra loạt đòn tấn công quyết liệt.
Hiệp thứ mười một vừa chấm dứt, thì hiệp thứ mười hai bắt đầu bằng sự quật khởi đột ngột của con sư tử Nghệ An. Vừa né mình tránh khỏi đựợc một ngọn chùy, Bùi văn Khuê tức thì chồm tới lẹ như chớp, chém mạnh xuống bả vai mặt của địch thủ một lát kiếm nặng nề. Một mảnh chiến bào bị hớt bất ngờ với một mảnh thịt rớm máu, tung ra trong không khí.
Thái Ngột gầm lên như một con hổ dữ bị thương. Đồng thời, dưới lầu, những tiếng xì xào chạy dài trên muôn cửa miệng của vô số binh sĩ đang hồi hộp đóng vai tuồng khán giả.
Vùng vằn hăm hở, không đếm xỉa đến dòng máu từ vai tuôn linh láng xuống cánh tay, xuống ngực và bụng, viên dõng tướng của Trịnh Tùng lại lao mình tới giơ cao cạp chùy đồng, giáng thật mạnh xuống đầu lực sĩ.
Đấu pháp đã hỗn loạn của hắn, vì sự hung hăng phẫn uất gần như điên cuồng nầy, lại càng trở nên hỗn loạn thêm.
Thừa cơ hội ấy, Văn Khuê áp dụng một thế võ hiểm ác và táo bạo. Không thèm trành né như trước nữa, lần này chàng nhảy xổ tới áp sát vào mình của Thái Ngột trong khi cặp song chùy mới kịp sa xuống nửa chừng.
Vì chàng lực sĩ tiến đến quá gần, nên hai quả chùy đồng rơi quá xa và đánh hụt mục tiêu khiến họ Thái mất thăng bằng, luống cuống suýt ngã chúi về phía trước. Lanh như cắt, Bùi văn Khuê gạt phang hai cánh tay cầm võ khí của đối phương trong khi đầu chàng cúi xuống, húc mạnh vào chính giữa mặt của Thái Ngột.
Bị tấn công bất ngờ, viên dõng tướng của Trịnh Tùng hộc máu mũi, lảo đảo té ngửa ra đàng sau, thì tiếp luôn đó, một lưỡi kiếm vụt gieo xuống, cắt đứt lìa cánh tay tả của hắn văng xuống đất.
Những tiếng hét khủng khiếp vang lên từ đám người đang xôn xao, lố nhố dưới lầu.
Trên lầu, Thái Ngột ngã trên vũng máu; mặt kinh tởm và đầy sát khí đang cố sức vùng vẫy để lồm cồm ngồi dậy. Hắn vẫn không chịu thua mặc dầu vừa cụt mất một cánh tay.
Không khí trong lầu Hoàng hạc bây giờ dấy lên như một cơn bão loạn. Biết rằng đám binh sĩ đứng lố nhố dưới đất tất thế nào cũng sắp liều chết tràn lên lầu để cứu Thái Ngột vừa bị đánh ngã, Bùi văn Khuê quyết hành động gấp.
Chàng nhảy phóc đến, một chân đạp lên ngọn chùy đồng duy nhất còn nắm trong tay của địch thủ khiến họ Thái không tài nào dở cái võ khí ấy lên được. Giữa lúc đó, mũi kiếm của chàng thọc vào cổ của kẻ thù.
Những tiếng rên rỉ cuối cùng hắt ra từ đôi môi đã tái nhợt của viên dũng tướng, Thái Ngột loạng choạng té ngửa ra và tắt thở giữa vũng máu đào...