3. Náo động trong dinh Trấn-Thủ (1)
NHỜ mưu mô khéo sắp đặt, công cuộc đánh tráo đã diễn ra rất êm ái và mau lẹ.
Nóng ruột đi tìm cha, hai Hoàng tử sẵn sàng tuân theo mọi điều chỉ bảo của Văn Khuê, Thế Hùng và ngoan ngoãn trao đổi y phục sạch sẽ sang trọng của mình với y phục nâu sòng lam lũ của hai đứa bỏ nghèo nàn.
Chỉ một lát sau cái hầm bí mật của phe đảng Trịnh Tùng đã âm thầm đổi khách. Hai Hoàng tử đi theo Thế Hùng và Vương Bột đến một nơi trú ẩn kín đáo tạm thời, tại một vùng hẻo lánh xa xôi, để lại Văn Khuê với hai đứa con của họ Vương, giữa một khung cảnh ghê sợ và hoàn toàn lạ mắt.
Thời khắc nối tiếp nhau tuần tự trôi qua.
Trong khi chàng lực sĩ đang cố an ủi, dỗ dành hai đứa trẻ vừa đua nhau khóc vang lên cùng một lượt trong hầm tối, thì phía trên thình lình có tiếng động rộn rịp của nhiều bước chân đi.
Biết chắc đó là binh sĩ trong dinh Trấn thủ đang kéo đến nơi, Văn Khuê không cần dùng thang, tức tốc phóng mình lên khỏi miệng hầm, và tất tả chạy đi đón chúng.
Việc xảy ra thật quả đúng như chàng chờ đợi.
Một chiếc kiệu phủ kín sau một bức màn dầy tiến sâu vào trong tửu quán đã bắt đầu hạ xuống giữa đám quân nhân đi kèm theo hộ tống. Người đi trước là một viên vệ úy trạc bốn mươi tuổi, hình vóc dong dỏng cao, diện mạo và điệu bộ rất hách dịch.
Chợt thấy chồng lực sĩ đang gọn gàng trong bộ nhung phục binh sĩ địa phương, hắn tưởng lầm là một lính canh, bèn hất hàm hỏi:
- Ta vâng lịnh quan Trấn thủ đem kiệu đón hai vị Hoàng tử vào an trí trong dinh. Vậy viên đội trưởng chỉ huy sự canh gác ở đây đâu rồi?
Văn Khuê giả vờ khép nép đáp:
- Thưa vệ úy, ông ta vừa mới bước ra ngoài, cách đây độ vài phút.
Viên vệ úy bỉu môi tỏ ra dư hiểu tật xấu của người bạn đồng đội:
- Hứ! Y lại đi kiếm thêm rượu đế để nhậu chứ gì. Canh gác mà dám bỏ bê phận sự như thế ắt không khỏi bị ngồi tù rục xác.
Đoạn hắn dõng dạc nối lời:
- Thôi được, bây giờ không có y, anh hãy xuống hầm dẫn hai Hoàng tử lên đây, không nên để chậm trễ vì quan Trấn thủ ra lịnh phải thi hành gấp. Anh thông thuộc đường lối chớ?
- Vâng!
Chàng lực sĩ vừa đáp vừa hấp tấp chạy trở vào, nhảy xuống hầm đưa hai đứa bé của Vương Bột lên và giao chúng cho viên vệ úy.
Trong bóng tối, tên này không cần chú ý đến những đứa trẻ thơ tội nghiệp, lúng túng và ngượng nghịu trong bộ quần áo mới xúng xính đang khóc sướt mướt.
Hắn truyền cho toán binh thuộc hạ ẵm hai cậu bỏ lên kiệu rồi hạ lịnh ra đi.
Văn Khuê ngỏ ý muốn theo luôn về dinh và được viên vệ úy chấp nhận.
Thế là tối hôm ấy, chàng lực sĩ lọt vào dinh Trần thủ Nghệ An một cách rất dễ dàng.
Mới vào cuối giờ Dậu, viên Trấn thủ Nghệ An Trịnh tam Miêu đã sửa soạn đi nghĩ sớm sau một ngày khó nhọc vừa trải qua.
Khó nhọc vì hôm ấy, bao nhiêu biến cố quan trọng đã dồn dập xảy ra ngay trên khu vực thuộc quyền ông cai trị. Nào là Hoàng đế Lê Anh Tôn và Đặng Ngự sử bị hạ sát, treo xác trong vườn mía, nào là đoàn kỵ binh của Thái phó Nguyễn hữu Liên bị đánh tan và tướng Trương Bảo bỏ mạng trong cuộc giao phong. Sau vụ cướp tù xa cực kỳ táo bạo ấy, viên Trấn thủ đã tức tốc gởi viện binh đến nơi rồi hợp với đám tàn quân của Hữu Liên lùng khắp chốn nhưng không tìm ra dấu vết của thủ phạm.
Tối đến, trở về dinh, ông cũng chưa yên thân. Ông còn phải chờ tiếp xúc với tên dọ thám mà ông đã gởi đi dò xét ở Phủ Diễn và các vùng kế cận.
Ngoài ra theo lịnh của vị Thái phó họ Nguyễn, ông còn phải cho dời 2 vị Hoàng tử vào an trí tại trong dinh mình để việc giam giữ cho được vững chắc hơn.
Khi chiếc kiệu chở hai Hoàng tử vào đến nơi, ông chỉ giơ tay sẽ khoát tấm màn lên, liếc nhìn qua một lượt rồi truyền lịnh đem hai tù nhơn bé tí hon ấy vào nhốt trong một căn nhà tối tăm chật hẹp ở phía sau dinh. Đoạn ông uể oải bước vào buồng riêng ngả mình xuống bên cạnh một bàn đèn á phiện, đặt trên một sập gụ bóng loáng kê sát vách.
Trong phòng, một mỹ nhơn đang chờ sẵn bên cạnh bữa tiệc của ả phù dung, mỹ nhơn là một trong những hầu thiếp xinh đẹp của viên Trấn thủ và đã được ông nịch ái hơn hết, nhờ có tài đàn rất hay và nhất là nhờ ở tại tiệm á phiện khéo léo của nàng.
Thật vậy, việc tiêm thuốc và hầu thuốc cho Trịnh tam Miêu là cả một nghệ thuật mà nàng đã tỏ ra vô cùng điêu luyện. Và chính vì lẽ đó mà viên Trấn thủ rất hài lòng khi được thưởng thức những điếu do chính tay nàng làm ra.
Cho nên, ngay từ khi chân đặt vào phòng này, thoạt tìm thấy trở lại ánh lửa chập chờn của ngọn đèn dầu phộng và gương mặt hoa của nàng ái thiếp, bao nhiêu nỗi nhọc nhằn, mệt mỏi của ông đều tiêu tan hết.
Cô vợ bé đon đả tiếp đón ông bằng một nụ cười tình tứ rồi nũng nịu hỏi:
- Tối nay sao quan lớn về trễ thế?
Tam Miêu vươn vai đáp, sau một cái ngáp dài:
- Ôi cho! Bận việc quá! Và toàn là những việc tầy trời khiến ta phải tốn công, nhọc trí, ròng rã gần suốt ngày, mà mãi đến bây giờ cũng chưa yên nữa.
Nàng hầu thiếp hơi ngạc nhiên. Vừa nghiêng mình xuống bên cạnh bàn đèn nằm đối diện với chồng để làm thuốc, nàng vừa tò mò hỏi:
- Tại sao quan lớn bảo đến bây giờ mà cũng chưa yên? Vì lẽ gì vậy?
Viên Trấn thủ cau mày, giải thích:
- Có gì đâu! Bao nhiêu việc khó khăn trọng đại đều giải quyết xong, chỉ còn trường hợp của thằng Vương Bột.
Quái lạ thật! Cái thằng khốn kiếp nầy được phái đi tới vườn mía thám thính từ hồi chiều đến giờ này, gần khuya rồi mà cũng chưa thấy dẫn xác về để báo cáo.
Người thiếu phụ phỏng đoán:
- Hay là hắn đã ngộ nạn rồi chớ gì?
Tam Miêu lắc đầu:
- Ta không tin như thế, vì ta biết Vương Bột vốn lanh lợi và khôn ngoan lắm. Nếu có kẻ to gan lén vào vườn mía cướp tử thi của nhà vua chăng nữa, thì hắn cũng không dại gì mà đương đầu can thiệp.Hắn có đủ thì giờ phi ngựa về đây báo tin cho ta hay hầu đối phó chứ!
Nàng hầu thiếp lại tiếp:
- Nói đến chuyện thây ma, em mới sực nhớ ra. Quan lớn nhỉ, em không hiểu vì sao xác chết của vua Anh Tôn và của lão thần nào đó lại không được đem đi tẩm liệm mà cứ phải treo tòn ten mãi mãi trên cành cây?
- Đó là do lịnh của chúa Trịnh - viên Trấn thủ đáp - Ngài muốn trừng phạt tên hôn quân và lão già phản nghịch một cách cho thật xứng đáng. Những thây ma ấy rồi đây sẽ làm mồi cho diều, quạ, ruồi lằn.
Dứt lời, ông đưa tay tiếp lấy ống điếu do vợ trao cho, đoạn kê miệng vào một đầu mà kéo một hơi dài ro ro rất nhịp nhàng...
Thình lình nửa chừng ông buông rơi ống điếu, vùng ngồi dậy, rú lên một tiếng kêu khủng khiếp.
Cô vợ bé của ông cũng rú theo.
Một luỡi dao bén dài hai tấc, từ trên nóc nhà ném xuống, cắm phập vào giữa bàn đèn! Phía chuôi dao, có cột một mảnh giấy trắng với vài dòng chữ vắn tắt...
Mặt xanh như tàu lá, Trịnh tam Miêu vùng ngồi dậy và từ trên sập gụ, nhảy choàng xuống đất, nép mình vào sau tấm cửa phòng, há họng tri hô lên inh ỏi:
- Quân bây đâu! Có thích khách núp trên mái nhà, hãy vây bắt nó mau lên!
Tiếng la của viên Trấn thủ làm cho mấy chục gia nhân trong dinh hốt hoảng. Bỏ dở công việc đang làm chúng rần rộ túa hết ra ngoài để tìm kiếm kẻ ám sát bí mật đã to gan lẻn vào nơi ‘‘cấm địa’’.
Đồng thời, tin nầy làm chấn động khắp các trại quân lính phía sau. Chỉ trong nháy mắt hàng trăm quân sĩ đã ào ào kéo ra sân để tiếp xúc với các gia nhân, truy tầm hung thủ.
Tiếng chân giậm thình thịch, tiếng người hò hét nổi lên từ tứ phía, khiến viên Trấn thủ bắt đầu đỡ sợ và hơi vững dạ. Bây giờ ông mới dám xô cửa, bước ra ngoài, để chứng kiến cuộc vây bắt sôi nổi của kẻ thuộc hạ mình.
Xung quanh dinh, vô số bó đuốc nối tiếp nhau bừng cháy kết thành một vòng lửa đỏ, sáng rực trời, soi tỏ rõ khắp mọi nơi.
Dưới ánh đuốc, bao nhiêu cái đầu đều chăm chú hướng về phía nóc nhà, cố xoi bói lục lọi qua đêm tối, để khám phá cho ra một bóng người bí mật.
Nhưng không ai thấy gì hết.
Giữa sự huyên náo hỗn độn, có tiếng đề nghị:
- Chúng ta hãy bắc thang leo lên mái nhà tìm kiếm thử xem! Có lẽ ‘‘hắn’’ đang ẩn núp trên ấy.
Tức thì nhiều người hưởng ứng tán thành rối rít:
- Phải đó! Đem thang lại đây mau lên!
Chỉ trong khoảnh khắc, non một chục cái thang tre cao nghệu đã được dựng lên áp vào vách. Nhiều binh sĩ, với võ khi giắt sẵn bên lưng, hăng hái giành nhau nườm nượp leo lên, quyết truy nã cho kỳ được tên thích khách.
Song lạ thay, cuộc lùng xét sôi nổi, rộn rịp ấy không đem lại kết quả mà người ta chờ đợi. Trên mái nhà trừ đám sĩ tốt dự cuộc vây bắt ra, tuyệt nhiên không có lấy một bóng người.
Tất cả đều kinh ngạc tự hỏi: ‘‘Ô hay! Thế kẻ mưu toan ám sát quan Trấn thủ đã biến đi đàng nào rồi mà không một ai nhận thấy và hay biết. Phải chăng ‘‘hắn’’ có thuật tàng hình nên mới lọt qua khỏi bao nhiêu cặp mắt của người hiện diện.’’
Người kinh dị hơn hết là Trịnh tam Miêu không thể tìm ra được lời giải đáp cho việc kỳ lạ và hoàn toàn bí mật trên đây. Ông khiếp sợ đến tái mặt lại. Cái ý nghĩ về một hiểm họa vô hình phảng phất đâu đây, làm cho ông nôn nao bồn chồn, run lẩy bẩy như một chiếc lá trước cơn giông tố.
Thất vọng, và khó chịu, viên Trấn thủ ra lịnh cho thuộc hạ ngưng mọi cuộc tìm kiếm rồi xây lại bảo một viên vệ úy hộ tống mình trở vào phòng.
Tại đây, ông mới sực nhớ lại lưỡi dao ghê gớm lúc nãy, suýt nữa đã kết liễu tánh mạng của ông.
Con dao ấy kể cả cán lẫn lưỡi dài chừng hai tấc, vẫn còn cắm phập giữa bàn đèn á phiện. Ở đàng cán dao, cột tòn ten một mảnh giấy trắng nhỏ kèm theo, trên có ghi rõ vài dòng chữ nguệch ngoạc đang còn tươi nét mực.
Tò mò, viên Trấn thủ đưa tay nhổ ngọn dao lên, đoạn giơ mảnh giấy nho ra đọc.
‘‘Trịnh tam Miêu!
‘‘Ta kỳ hẹn cho nhà người trước giớ Tý đem thi hài Hoàng đế Lê Anh Tôn và Đặng Ngự Sử khâm nlệm và chôn cất cho tử tế. Nếu bất tuân thì sanh mạng của nhà ngươi sẽ bị tiêu diệt dưới lưỡi dao này.’’
Ký tên HIỆP SĨ ÁO ĐEN.
Mồ hôi hột toát ra đầy trán, Tam Miêu buông rơi mảnh giấy và con dao xuống trên sập gụ. Những lời vắn tắt mà ông vừa đọc, làm cho ông đã rối trí lại càng thêm băn khoăn và rối trí thêm.
Tác giả bức thơ với cái tên ‘‘Hiệp sĩ áo đen’’ kỳ lạ là ai? Tại sao người ấy lại buộc ông phải lập tức cho chôn cất tử thi nhà vua và vị lão quan họ Đặng, nghĩa là đòi hỏi nơi ông một việc hết sức khó khăn, không thể nào thi hành nổi? Người ta dư biết rằng, là phe đảng của Chúa Trịnh, viên Trấn thủ tất nhiên phải luôn luôn hành động theo ý muốn và chỉ thị của Trịnh Tùng.
Ấy vậy mà lần này, ông bị tác giả bức thư trên kia ra lịnh cho ông phải làm ngược trở lại. Đó quả thật là một điều hết sức cam go. Giữa hai đàng sự nguy hiểm đều tương tự như nhau vì đều đưa tới cái chết cả. Nhưng mặc dầu sợ, ông phải lựa chọn sau một hồi phân vân, lưởng lự;
Ông không thể phản bội chúa Trịnh, bởi ông biết chắc chắn rằng làm thế, ông sẽ bị trừng phạt một cách tàn khốc gớm ghê. Còn với chàng ‘‘Hiêp sĩ áo đen’’, ông chưa có bằng cớ gì để tin rằng lời hăm dọa trong lá thơ kia có thể biến thành sự thật.
Rốt cuộc, sau khi cân nhắc kỹ, ông không muốn bận tâm tới mảnh giấy và con dao nói trên nữa. Trước khi cho phép viên vệ úy Iui ra, viên Trấn Thủ dặn dò hắn phải truyền cho binh sĩ canh phòng cẩn mật khắp bốn bề và tại các ngõ ra vào.
Đoạn ông đóng chặt cửa lại ngã mình trên mâm đèn, hồi hộp đợi chờ cho hết giờ Hợi qua giờ Tý.
Trong khói thuốc nha phiến nồng ngát bao trùm lấy khắp gian phòng, bên cạnh bàn tay búp măng, ngà ngọc dịu dàng giỡn múa trước ánh đèn dầu phộng, viên Trấn thủ quên tất cả sự lo âu, ghê gớm vừa rồi đã dày vò ông, đã làm cho thần kinh ông căng thẳng!
Dưới sự mơn trớn của ả phù dung, mối hăm dọa của nguy cơ dần dần nhạt mờ đi trong tâm trí. Trịnh tam Miêu lần hồi thiêm thiếp bên cạnh khay đèn sau khi đã hút liên tiếp luôn mười mấy điếu.
* * *
Thì giờ trôi qua mau trên giấc mơ êm ái của tên tham quan ô lại. Thình lình cặp mắt đang lim dim của ông vụt mở ra. Có tiếng la thất thanh vang lên bên ngoài rồi liền đó, như một luồng gió mạnh, một tên lính vạm vỡ xô cửa, tất tả chạy vào phòng cấp bảo:
- Bẩm quan lớn! Có thích khách nhảy lên nóc nhà. Chính tiểu tốt vừa trông thấy rõ ràng.
Viên Trấn thủ run như cày sấy, vội vàng ngồi nhỏm dậy. Nàng ái thiếp của ông cũng thế. Cả hai thất sắc, đồng một lượt nhìn lên trần nhà. Họ chưa kịp nhận thấy gì, thì ‘‘độp’’ mội cái, một lưỡi dao nữa không rõ từ đâu bay đến, lại cấm phập ngay giữa bàn đèn á phiện.
Trịnh tam Miêu rú lên khủng khiếp và đưa hai tay ôm lấy cổ. Người vợ bé của ông ta hét lớn hơn, mặt tái như gà bị cắt tiết, và tri hô inh ỏi...
Lúc ấy gia nhơn và binh sĩ, đã nối đuôi nhau, đổ xô vào đầy nghẹt trong phòng của viên Trấn thủ.
Họ xúm lại đở Trịnh tam Miêu ngồi thẳng dậy trên sập gụ. Được kẻ thuộc hạ đông đảo bao quanh lấy mình, viên quan bây giờ mới hoàn hồn. Tuy nhiên mặt ông vẫn xanh méc, hơi thở ông vẫn hổn hển và mồ hôi ông toát ra như tắm.
Trong khi ấy, thì các nữ tỳ trong dinh cũng lo săn sóc nàng ái thiếp của ông vì quá kinh sợ nên gần như bất tỉnh, và vực nàng sang gian buồng kế cận.
Viên vệ úy đã được giao phó trọng trách bảo vệ tánh mạng của Trịnh tam Miêu, lăng xăng chạy ra chạy vô, hăng hái hoạt động hơn hết thảy: Một mặt y lo điều khiển cuộc săn sóc cho hai vợ chồng vị Trấn thủ, một mặt là chỉ huy cuộc vây bắt thủ phạm đang tiến hành ráo riết ở bên ngoài.
Nhưng lần nầy cũng như lần trước, cuộc vây bắt sôi nổi không đem lại kết quả mà người ta mong mỏi. Tin ấy vừa đưa vào phòng thì một niềm thất vọng nặng nề tràn ngập lòng viên vệ úy và Trịnh tam Miêu. Đồng thời với nỗi thất vọng, một sự kinh khủng vô biên, bắt đầu len lỏi vào trong trí óc của những người hiện diện, sự kinh khủng đối với một nguy cơ ghè gớm mà không ai biết là do đâu ra, từ đâu đến.
Bức màn bí mật hoàn toàn bao quanh lưỡi dao và bức thơ hăm dọa kèm theo là một bài toán đố bí hiểm đã làm cho người ta nghẹt thở.
Lần nầy nữa, không thể nào tìm ra thủ phạm, mọi người lại đành quay trở về với lưỡi dao thứ nhì đang còn cắm phập chính giữa bàn đèn. Cũng vẫn loại dao ấy, cũng vẫn mội mảnh giấy cột nơi chuôi dao!
Viên Trấn thủ sực nhớ ra lúc nầy đã sang giờ Tý tức là giờ đã kỳ hẹn trong thơ trước.
Kv hạn ấy đã không tuân theo, liệu ông có thoát khỏi sự trừng phạt đã báo trước hay không?
Trịnh tam Miêu run sợ, đưa mắt ra lịnh cho viên vệ úy thay thế mình để quan sát con dao thứ hai và đọc bức thơ, vì ông không còn đủ can đảm để sờ mó đến thứ võ khí mà ông tin chắc rằng sẽ kết liễu tánh mạng mình một cách dễ dàng.
Sau khi xem xét qua lưỡi dao mới, viên vệ úy trao mảnh giấy cho vị Trấn thủ đọc. Cũng vài dòng vắn tắt và nguệch ngoạc mà nét mực còn tươi, cũng tên ký giống hệt như trước chứng tỏ rằng tác giả hai vụ này chỉ là một người:
‘‘Trịnh Tam Miêu!
‘‘Giờ Tỳ đã qua và nhà ngươi đã tự ý lựa chọn lấy cái chết. Tuy nhiên vì lòng nhơn đạo ta chưa nỡ xử tử nhà ngươi vội. Ta gia ơn cho nhà ngươi thêm thời hạn nửa giờ nữa để suy nghĩ kỹ và định đoạt. Sau đó công lý của Trời và loài người sẽ làm phận sự. Lúc ấy nhà ngươi có hối tiếc cũng trễ rồi.
HIỆP SĨ ÁO ĐEN
Viên tham quan không còn hồn vía nào nữa. Mảnh giấy nầy là một bản án tàn khốc sắp thi hành. Ông chỉ còn nửa giờ nữa để mà sống, để mà chờ cái chết đến với ông từng phút, từng giây...
Mà phen này, thì đã hiển nhiên rõ rệt lắm rồi. Ông sẽ không tài nào thoát khói lưỡi dao bí mật kia, lưỡi dao do một bàn tay vô hình sai khiến.
Trong khoảnh khắc cõi hư vô tối tăm u ám của thế giới bên kia lờ mờ thoáng hiện ra, làm cho ông kính sợ đến rỡn tóc gáy. Bản năng tự vệ lôi ông trở về với lòng ham sống, dầu là sống thêm vài ngày cho đến lúc sẽ rơi đầu dưới hình phạt của chúa Trịnh Tùng. Rốt cuộc, lòng luyến tiếc cuộc đời vinh thân phì gia, thuốc phiện, hầu non, rượu ngọt v.v...đã toàn thắng trong sự phân vân xấu xé đã diễn ra dưới sọ dừa của vị tham quan.
Thế là Trịnh tam Miêu truyền cho viên vệ úy phái quân lính tức tốc tới vườn mía giữa đêm khuya lo việc khâm liệm và mai táng thi hài vua Lê Anh Tôn và Đặng Ngự Sử.
* * *
Mặc dầu bạn đọc đã có thể đoán lấy mà tìm hiểu, nhưng thiết tưởng cũng nên nói rõ ra đây tất cả chi tiết về vụ bàn tay vô hình đã hai lần gieo khủng khiếp trong dinh viên Trấn thủ.
Con người bí mật kia là ai? Và người ấy đã hành động tài tình khôn khéo cách nào mà khiến cho thầy trò Trịnh tam Miêu, từ chủ tướng đến sĩ tốt đều sửng sốt và kinh hồn táng đởm.
Xin thưa: Đó không ai khác hơn là Bùi văn Khuê; trá hình làm binh sĩ địa phương đi theo hộ tống hai Hoàng tử giả, để lọt vào đây như trên kia chúng tôi đã nói.
Từ trước, Bùi văn Khuê đã dự định bắt buộc viên Trấn thủ Nghệ An phải đem chôn cất tử tế thi hài của nhà Vua và Đặng Ngự Sử mà chúng đã có giả tâm đem bêu thây trong vườn mía. Muốn đạt mục đích ấy, chàng lực sĩ phải dùng đến thủ đoạn hăm dọa và cảnh cáo.
Sau khi lọt vào dinh nầy, Văn Khuê để ý dò xét từ các ngõ giao thông qua các căn phòng của Tam Miêu cho chí các cách thức nghi lễ quen dùng.
Thế rồi, đợi cho đêm gần khuya chàng mới chuẩn bị ra tay. Điều may mắn hơn hết là trong dinh Trấn thủ, quân lính rất đông đảo lại thường hay đổi phiên nhau luôn, nên sự hiện diện của một người lạ mặt như chàng ít ai bận tâm lưu ý đến.
Yên trí rằng chàng chỉ là một bạn đồng đội, một vài người trong số họ sẵn sàng cắt nghĩa cho chàng nghe tất cả những điều mà chàng tò mò tìm hiểu. Nhờ đó chàng biết rằng cứ tối đến là Tam Miêu luôn luôn có mặt trong căn phòng giữa của hắn tại trung dinh, nơi đây, hắn sẽ yên tĩnh bên cạnh bàn đèn thuốc phiện.
Thấy xung quanh mình, lính tráng đã bắt đầu lăn ra ngủ, tiếng ngáy khò khò vang lên từ khắp xa gần, Văn Khuê rón rén đứng lên, rút ra hai mảnh giấy mà chàng đã đem sẵn theo mình rồi từ từ bước lại phía một cái kệ nhỏ kê gần lối cửa ra vào của trại lính, trên đó có một nghiên mực và một cây bút lông của ai vừa mới viết xong, nhưng chưa kip dẹp đi.
Chàng lực sĩ cả mừng, chụp lấy cây bút, chấm mực, rồi húy hoáy vạch lên trên khi mảnh giấy những dòng chữ vắn tắt đoạn chàng rút trong túi ra một ngọn liễu diệp phi đao, buộc trong mình hai tờ giấy vào chuỗi dao bằng một sợi dây, rồi lẳng lặng xô cửa bước ra khỏi trại.
Dưới ánh đèn dầu, hiu hắt lờ mờ, toàn thể đám binh sĩ nằm
xếp từng hàng dài đã ngủ say như chết. Không một ai còn thức và chú ý đến cử chỉ lén lút bí mật của chàng.
Văn Khuê lách mình ra ngoài, chàng cả mừng nhận thấy bóng đêm dầy đặc ở đây rất thuận tiện cho cuộc hành động sắp tới của mình. Tuy nhiên chàng vẫn cẩn thận nhìn khắp bốn bề để đề phòng có người theo dõi.
Khi biết chắc trừ phi mình ra, không còn một người thứ hai nào khác, lẩn quẩn đâu đây, chàng hiệp sĩ nương theo các bóng cây rậm rạp, lần mò vòng ra phía sau nhà bếp là nơi mà mái ngói thấp hơn hết.
Tại đây chàng nhún chân nhẫy phóc lên mái nhà rồi nhẹ nhàng, chậm rãi đi ngược trở lên. gia tâm tìm kiếm căn phòng ở trung dinh, nơi viên Trấn thủ Trịnh tam Miêu đang an nghỉ.
Cuộc tìm kiếm này không kéo dài lâu. Vì liền đó, trước mặt chàng, phảng phẩt hơi khói thuốc phiện xông lên nồng ngát. Văn Khuê vội bước nhanh lại chỗ đang phát ra những tiếng ro ro, đều đặn. Chàng nằm sấp xuống, áp mình dính liền vào mái nhà như một con thằn lằn trong điệu bò rình mồi và đưa tay khẽ đẩy một miếng ngói, liếc mắt nhìn xuống.
Một cảnh tượng âm cúng và sang trọng hiện ra dưới mắt chàng khiến chàng mím môi, cau mày lại.
Đây rồi, Trịnh tam Miêu nằm ngửa mình trên sập gụ, đôi mắt lim dim mơ màng, sau khi đã say sưa với điếu thuốc phiện mà nàng ái thiếp xinh đẹp vừa hiến dâng cho hắn.
Chàng lực sĩ nghiến răng bảo thầm:
- Chà! Hạnh phúc nhỉ? Bây giờ ta cho mi hoảng vía một phen chơi.
Tức thì tay trái chàng nhẹ nhàng rút ra 1 miếng ngói trong khi tay mặt nhàng lanh lẹ phóng qua lỗ trống, ngọn phi đao có kèm sẵn bức thơ.
Kế đó, chàng đặt miếng ngói lại y chỗ cũ. Khi tiếng rú bắt đầu cất lên từ trong gian phòng của viên Trấn thủ, thì Văn Khuê đã từ trên nóc nhà quăng mình sang một nhánh cây cao rậm rạp cách đấy chừng vài thước. Chàng chưa kịp tuột xuống thì từ trong dinh, bọn gia nhơn, nghe tiếng cầu cứu của chủ, đã rần rộ xô nhau, túa ra ngoài. Rồi tới phiên binh lính trong trại, vừa vùng tỉnh giấc, cũng mắt nhắm mắt mở, loạng choạng ùa ra theo.
Thấy chúng chạy ngang, chàng liền êm ái buông mình nhảy xuống rồi nhập bọn ngay với chúng. Trong khi hỗn loạn, vả lại chàng cũng mặc võ phục giống hệt như các binh sĩ khác, nên không ai chú ý đến chàng. Đó là chưa kể chàng cũng chạy lăng xăng, cũng la lối hò hét như để dự vào cuộc vây bắt và truy tầm thủ phạm.
Vai tuồng tài tình khôn khéo mà chàng vừa đóng đã giúp chàng diễn xong êm thắm màn thứ nhứt. Bây giờ chàng lại phải lo chuẩn bị màn thứ nhì sẽ khởi diễn vào khoảng bắt đầu giờ Tý tức là kỳ hạn ấn định rõ trong lá thư cảnh cáo đã gởi cho viên Trấn thủ Nghệ An.
Lẽ tự nhiên, Bùi văn Khuê không thể tái diễn một lần nữa hành động vừa rồi của mình, vì hiện thời, binh sĩ trong dinh Trấn thủ đã đề phòng cẩn thận. Viên vệ úy được giao phó trọng trách bảo vệ tánh mạng của Trịnh tam Miêu đã cắt đặt lối hai chục tên lính, thường trực canh gác khắp bốn mặt và mắt luôn luôn hướng lên mái nhà để xem chừng động tịnh.
Trước tình thế ấy, chàng buộc lòng phải tìm một mưu kế khác.
Giờ Tý đã đến mà Văn Khuê vẫn chưa nghĩ ra được phương pháp gì ổn thỏa để gởi luôn lưỡi dao và bức thơ cảnh cáo thứ hai đã viết sẵn của chàng.
Thình lình, một tia sáng vụt xuyên qua óc người lực sĩ.
Văn Khuê cương quyết và lẳng lặng bước ra khỏi trại rồi thong thả tiến lới gần một binh sĩ đứng canh ở phía trước thềm toan gợi chuyện.
Thấy chàng lực sĩ, tên lính hơi ngạc nhiên khẽ hỏi:
- Ô hay! Bác nầy sao không ở trong trại mà ngủ cho khỏe xác, lại ra đây làm gì thế?
Văn Khuê cũng đáp lại rất nhỏ, vừa đủ cho kẻ đối thoại nghe:
- Tôi nằm thao thức mãi không nhắm mắt được, nên định ra đây hiệp lực với các bác để truy bắt thủ phạm. Vừa nói chàng vừa dáo dác nhìn lên nóc dinh như cố tìm kiếm một bóng dáng bí mật nào đang ẩn nấp ở đó.
Tên lính nhìn chàng một cách thương hại và bảo:
- Bác vừa mởi nhập ngũ hay sao mà trông khờ khạo thế? Có ai cần đến bác giúp đâu? Không phải phiên canh, cũng không phải phận sự mình thì hãy trở vào trại mà nghỉ đi. Nếu lẩn quẩn ở đây rủi viên vệ úy trông thấy, ắt là sẽ bị trừng phạt nặng.
Văn Khuê giả vờ như không chú ý đến lời khuyên của tên lính. Chàng vẫn ngước mắt lên trời đăm đăm nhìn qua bóng tối dầy đặc, mịt mù. Đột nhiên chàng reo lên như vừa phát giác được một sự gì kỳ lạ:
- Kìa kìa! Thích khách đây rồi, hãy vây bắt lấy nó.
Miệng vừa la, tay chàng vừa chỉ rối rít lên phía mái nhà
như chính mình đang thấy rõ ràng.
Tiếng kêu của chàng làm cho mấy chục tên lính canh hoảng hốt tưởng thật, ùn ùn đua nhau chạy quanh tìm kiếm, cả viên vệ úy chỉ huy đám lính cũng mắc mưu, nhảy tót ra ngoài sân, chăm chú đưa mắt nhìn lên...
Trong khi ấy, thừa lúc hỗn độn, Văn Khuê đâm đầu chạy thẳng một mạch vào dinh và lọt vô phòng của viên Trấn thủ như một luồng gió.
Và như trên kia đã nói, gã binh sĩ vạm vỡ đã thình lình đột nhập vào buồng riêng của Trịnh tam Miêu chính là Bùi văn Khuê vậy.
Như chúng ta đã thấy với dáng điệu hấp tấp và sợ hãi, lúc ấy, Văn Khuê vừa lớn tiếng cấp bảo, vừa giả vờ giơ tay chỉ chỏ lên mái nhà khiến hai vợ chồng viên Trấn thủ trúng kế, ngẩn nhìn theo. Nhơn cơ hội ấy, chàng lực sĩ lẹ làng rút dao ra phóng lên mặt mâm đèn á phiện.
Cử chỉ ấy, thoáng diễn ra, trong khoảnh khắc của một lằn chớp, nên không ai nhận thấy. Giữa sự kinh hoảng, viên tham quan cứ đinh ninh rằng cũng như lần trước, võ khí bí mật nầy đã từ trên cao gieo xuống,
Thế rồi, trong không khí hỗn loạn bao trùm lấy dinh Trấn thủ, mọi người, kể từ Tam Miêu cho đến người lính chót, mải khủng khiếp và kinh dị trước một hiện tượng kỳ bí mà họ không sao hiểu nổi, nên không còn dư thì giờ để chú ý tới gã binh sĩ lạ mặt là Bùi văn Khuê.
Cho tới khi chắc chắn rằng kẻ bộ hạ của Trịnh Tùng vì sợ chết, rốt cuộc phải làm theo ý muốn của mình, chàng lực sĩ lẻn ra khỏi dinh, cũng chẳng ai hay biết...
Nhiệm vụ đã hoàn thành xong, chỉ một lát sau, Văn Khuê đã có mặt tại một túp lều tranh ở vùng ngoại ô Nghệ An, nơi hẹn hò giữa chàng và Lê thế Hùng cùng Vương Bột.
Chàng lực sĩ kể lại cho hai họ Lê, Vương nghe rõ đầu đuôi công tác của mình, rồi kết luận:
- Bây giờ chúng ta phải rời khỏi tỉnh này, để tránh sự truy nã của kẻ thù. Và đi lần sang khu vực của Chúa Mạc. Tại đó ta sẽ tùy cơ liệu định. Nếu Chúa Mạc quả tình biết trọng dụng kẻ hiền tài, thì anh em ta cũng không ngần ngại gì mà không hiệp tác để dựa vào binh lực hùng mạnh của người mà đánh ngã chúa Trịnh, hầu diệt một đại họa cho nước, cho dân và luôn thể báo phục mối thù không đội chung trời.
Thế Hùng và Vương Bột đều gật đầu tỏ ý tán thành, chợt thấy vị công tử đang liếc nhìn họ Vương một cách ái ngại, Văn Khuê hiểu ý, hướng về Vương Bột tiếp lời:
- Về trường hợp của hai cháu, xin Vương huynh cứ an tâm. Trước đây, tôi đã hứa sẽ lo cho số phận của các cháu được an toàn, và tôi quyết giữ trọn lời hứa ấy. Đây các bạn hãy nghe, tôi đã sắp đặt mưu kế để giải thoát các cháu một cách rất êm ái như vầy.
Dứt lời, chàng kề sát tai Thế Hùng và Vương Bột mà thì thầm rất khẽ.
Cả hai chăm chủ nghe và cả mừng, khen lấy khen để không ngớt miệng:
- Hay lắm! Hay lắm! Bùi đại ca quả là một bực cao kiến phi thường, mới nghĩ ra được một diệu kế như thế.
★
Trịnh Tam Miêu trằn trọc mãi không sao chợp mắt được. Ông ta trải qua một đêm trăng với bao nỗi lo sợ, hồi hộp, băn khoăn chưa từng có trong đời ông.
Sau khi sai quân đi chôn cát thí hài của nhà vua và của Đặng Ngự sử xong, viên Trấn thủ tự thấy hối hận vô cùng.
Đây là lần thứ nhứt mà ông dám nghịch lại mạng lịnh của chúa Trịnh. Ông biết chẳng sớm thì muộn, ông cũng không thoát khỏi bị rơi đầu, bị kết tội là phản bội, là đã công khai đương đầu với triều đình. Danh từ ‘‘triều đình’’ nầy, nói cho đúng ra, chỉ là một bức binh phong để che đậy cái uy quyền ghê gớm độc tài của Trịnh Tùng.
Cũng may là sau vụ cướp tù xa táo bạo gần Phủ Diễn, đoàn kỵ binh bị đánh tan, võ sĩ Trương Báo bị giết, Thái phó Nguyễn Hữu Liên hoảng sợ, cùng một nhóm tàn quân cấm đầu chạy thẳng một mạch về Tây đô. Nhờ vậy, hiện giờ, tội trạng của Trịnh Tam Miêu chưa bị ai hay được, trừ ra vài kẻ thuộc hạ trung tín của ông ta. Tuy nhiên, viên Trấn thủ cũng dư hiểu rằng chỉ trong vài ngày thế nào vụ nầy cũng đổ bể vì ban dọ thám của Trịnh Tùng đều có tai mắt khắp nơi.
Cái ý nghĩ những cực hình, những trừng phạt gắt gao của thượng cấp sắp đến với ông, làm cho ông kinh hãi đến cực độ. Bất giác, viên Trấn thủ đem lòng oán hận kẻ khuất mặt là Đặng Ngự sử, đã dẫn đường chỉ lối cho hoàng đế Anh Tôn ra lánh nạn ở đây, để giao tai họa cho ôngn trên vùng đất do ông cai trị.
Trời gần sáng mà Trịnh tam Miêu vẫn chưa kiếm được cách giải quyết gì khác hơn, mới mẻ hơn, để cố gắng cứu vãn một phần nào tình thế khủng hoảng này.
Tiếng gà gáy kế tiếp nhau rộn rã nổi lên từ các vùng quanh báo hiệu bình minh sắp đến. Đầu nặng, mắt hoa, tâm hồn dã dượi, mặt mũi bơ phờ, viên Trấn thủ cố gắng ngồi dậy trên sập gụ.
Thình lình, từ phía ngoài, viên vệ úy Trịnh Cảnh (có phận sự bảo vệ tánh mạng của Tam Miêu như trên đã nói) tất tả đẩy cửa bước vô, nghiêng mình kính cẩn:
- Bẩm đại nhơn! Có vợ Vương Bột xin vào yết kiến đại nhơn để tường trình việc quan hệ.
Viên Trấn thủ hơi giựt mình, cau mày khó chịu:
- Ô hay! Thế Vương Bột ở đâu nhỉ? Có lẽ hắn bị bắt cóc hay mất tích rồi chăng? Thôi, cứ cho vợ hắn vào đây!
Viên vệ úy tuân lịnh lui ra và một lát sau trở vào với một thiếu phụ quê mùa, ăn mặc nâu sồng, lam lũ.
Trịnh tam Miêu chưa kịp hỏi, thiếu phụ đã oà ra khóc:
- Bẩm lạy quan lớn, nhà tôi đi mất từ trưa hôm qua đến nay, không thấy về, có lẽ đã ngộ nạn hay bị giết rồi. Xin quan lớn sai người đi tìm kiếm giải cứu giùm cho nhà con. Con rất đội ơn quan lớn vạn bội.
Viên Trấn thủ nghiêm sắc mặt:
- Chị đừng rối rít, hoảng hốt lên như thế? Chồng chị đi làm công vụ nặng nhọc về nhà chậm trễ là việc rất thường. Vả chăng nếu có xảy ra sự gì nguy hiểm cho chồng chị, thì đã có bổn chức lo liệu, không cần chị phải đến đây nhắc nhở.
Giọng quở trách của Trịnh tam Miêu cũng không làm bớt được nổi đau khổ của vợ Vương Bột.
Qua nước mắt lã chã dầm dìa, thiếu phụ vẫn mếu máo nức nở:
- Trăm lạy quan lớn, ngàn lạy quan lớn, xin quan lớn soi xét cho con nhờ. Vì nếu chỉ có thế thì con đâu dám đường đột xin phép đến đây làm nhọc lòng quan lớn, Bẩm qụan lớn, số là vừa rồi một tai họa nữa đã xảy tới cho gia đình con. Có một người đàn ông vạm vỡ mặc đồ đen đeo mặt nạ, đang đêm dẫn chồng con về nhà. Chính mắt con trông thấy rõ ràng hai tay chồng con bị trói chặt miệng bị nhét đầy giẻ.
Viên Trấn thủ rụng rời, vì chợt nhớ đến người hiệp sĩ áo đen đã ký tên trong bức mật thơ, bèn ngắt ngang lời thiếu phụ:
- Chị nói thế nào? Người đàn ông ấy đeo mặt nạ, bận đồ đen à?
Thiếu phụ gật đầu tiếp:
- Bẩm quan lớn, chính thế. Thoạt trông qua, con thoáng hiểu rằng hắn buộc chồng con đưa hắn về đây, chắc sắp có chuyện gì tai biến xảy ra. Mà quả thật vậy. Hắn lăm lăm cầm nơi tay một con dao lo bản sáng ngời hăm doạ chồng con và cả nhà không ai được la, rồi, ôi chao ôi! Hắn bắt luôn hai đứa bé còn thơ dại dẫn đi một lượt với chồng con và biệt tích,
Trịnh tam Miêu sửng sốt:
- Nhưng tại sao người ấy lại bắt hai đứa con của chị? Để làm gì chứ?
- Bẩm quan lớn! Con cũng ngơ ngác không hiểu, Nhưng trước khi ra đi, hắn có để lại cho con một mảnh giấy.
Dứt lời, thiếu phụ rút trong túi áo ra một mảnh giấy và run run cầm dâng lên.
Một tên lính lệ đứng hầu gần đó, tiếp lấy bức thơ, trao lại cho viên Trấn thủ.
Mảnh giấy chứa vài dòng chữ vắn tắt như sau nầy:
‘‘Chúng ta tạm mượn đỡ hai đứa con của chị trong một thời gian để đánh tráo lấy hai Hoàng tử. Chị cứ yên tâm. Rồi đây mẹ con chị sẽ trở lại đoàn tụ như cũ.
‘‘HIỆP SĨ ÁO ĐEN’’
Vừa đọc qua, mồ hôi của viên Trấn thủ toát ra như tắm. Đó không phải là vì cái tên ‘‘ Hiệp sĩ áo đen’’ đã nhắc lại cho ông những giây phút khủng khiếp nhứt trong đời mình, mà là vì một phát giác cực kỳ nghiêm trọng. Thì ra bây giờ ông mới biết hai đứa bé hiện ông đang giam cầm trong dinh không phải là hai Hoàng tử mà chính là con đẻ của vợ chồng Vương Bột.
Bàn tay run run của Tam Miêu buông rơi mảnh giấy từ lủc nào mà ông cũng không hay biết. Lại thêm một tai họa ghê gớm nữa rơi xuống đầu ông.
Chúa Trịnh Tùng và Thái phó Nguyễn hữu Liên sẽ căm giận đến bực nào, nếu họ biết được tin ông đã để cho hai đứa con trai của vua Lê Anh Tôn trốn thoát?
Viên Trấn thủ tái mặt, thét gọi kẻ tả hữu:
- Quân bây đâu! Hãy xuống dẫn hai đứa bé bị giam lên đây cho ta!
Hai tên lính dạ rân và lập tức rời khỏi hàng ngũ. Một lát sau, chúng trở lên với hai phạm nhơn bé tí hon.
Mới thoạt trông thấy con mình, vợ Vương Bột oà ra khóc nức nở, vì quá sung sướng và cảm động. Hai đứa bé tiều tụy và ngơ ngác vì vừa trải qua một đêm kinh hoàng, cùng mừng rỡ nhìn ra mẹ chúng, nên cất tiếng gọi rối rít:
- Má ơi! Chúng con đây má ơi! Má cứu chúng con với!
Trịnh Tam Miêu điếng người, sững sờ như một kẻ mất hồn. Quả đúng rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Hai đứa nhỏ này thô kịch từ diện mạo cho đến cử chỉ, chính là con của vợ chồng họ Vuơng. Còn hai Hoàng từ đã bị tráo đổi trước khi ông sai quân đến đón tại Phù Diễn.
Viên Trấn thủ hầm hầm gọi viên vệ úy đã được giao phó phận sự trên đây, đoạn chỉ vào hai đứa bé mà thét:
- Thế nầy là nghĩa gì? Bổn chức truyền cho nhà ngươi bắt hai Hoàng tử về đây, tại sao nhà ngươi lại nhè đi rước hai đứa con của Vương Bột? Mắt nhà ngươi đui à? Quân gian đã đem tráo các tù nhơn từ hồi nào mà nhà ngươi không biết?
Viên vệ úy sợ hãi, áp úng:
- Kính... bẩm đại nhơn... Tiểu tướng xin cúi đầu chịu tội. Tiểu tướng đã sơ ý không xem xét kỹ nên mới mắc mưu của kẻ địch. Vả chăng xưa nay tiểu tướng chưa hề được biết mặt các vị Hoàng tử nên không thể nhận diện được. Vậy mong đại nhơn rộng lượng dung thứ cho tiểu tướng được nhờ.
Trịnh tam Miêu rất lấy làm khó nghĩ. Câu trả lời của viên vệ úy xét ra vẫn có lý, vì khi mới đem các tiểu phạm nhơn về dinh nầy chính ông cũng đã lầm.
Cũng như viên vệ úy, trước đây ông chưa hề được thấy rõ mặt mũi hai con của vua Lê Anh Tôn, thì biết làm thế nào để phân biệt rõ là chơn hay giả.
Tuy nhiên, để biểu dương oai quyền của mình đối với kẻ thuộc hạ, ông đấm tay lên bàn thình thịch và quát mắng không ngớt mỉệng:
- Đồ mù! Đồ khốn kiếp! Mi giết ta rồi! Ta kỳ cho mi nội ngày hôm nay phải tìm ra hai Hoàng tử đem về đây lập tức.
Viên vệ úy khúm núm:
- Dám bẩm đại nhơn! Tiểu tướng xin tuân lịnh, quyết nỗ lực bắt quân gian để chuộc tội, và đồng thời báo thù cho các bạn đồng đội đã bị giết một cách thảm thương.
Tam Miêu ngạc nhiên ngắt lời:
- Nhà ngươi bảo ai bị giết?
Viên tướng đáp:
- Bẩm đại nhơn, tảng sáng hôm nay, tiểu tướng vừa được tin rằng viên đội Trần Mộc và hai binh sĩ có phận sự canh gác hai Hoàng tử tại tửu quán ở Phủ Diễn đã bị hạ sát một cách tàn khốc và giấu thi thể trong một phòng tối, khít bên cạnh hầm giam. Do đó, tiểu tướng mới biết rằng phe địch đã đánh tráo các Hoàng tử trước khi tiểu tướng đến nơi. và tên lính lạ mặt đã đem hai đứa bé giao lại cho tiểu tướng bỏ lên kiệu đưa về đây chỉ là một kẻ gian trá hình...
Vị Trấn thủ há hốc mồm, giương cặp mắt tròn xoe, trước
những phát giác mới mẻ này của viên vệ úy. Ông còn đang sửng sốt, thì hắn lại tiếp:
- Thưa đại nhân, còn một điều này rất quan trọng mà tiểu tướng xin phúc bẩm gấp để đại nhân rõ. Ấy là tên lính lạ mặt nói trên đã lén đi theo tiểu tướng để hộ tống chiếc kiệu về đây. Như vậy nó đã lọt vào trong dinh này, và tiểu tướng chắc rằng chính hắn là kẻ đã hai lần ném phi đao hăm dọa đại nhân và ký tên ‘‘Hiệp sĩ áo đen’’ trong mảnh giấy.
Trịnh tam Miêu rụng rời, kinh dị. Ông ngửa mặt lên trần nhà thốt ra mấy tiếng chán nản và tuyệt vọng:
- Trời hỡi trời! Thế mà nhà ngươi đợi mãi tới bây giờ mới nói ra thì còn gl là tánh mạng của ta!
Dứt lời, ông xây lại dõng dạc hạ lịnh:
- Hãy đóng chặt cổng dinh lại và truyền cho hết thảy binh sĩ và giai nhân hầu hạ trong dinh ra sắp hàng đủ mặt để bổn chức đích thân kiểm điểm từng người một.
Trong khi chờ đợi thi hành mạng lịnh gắt gao nầy, viên Trấn thủ giao trả hai đứa nhỏ lại cho vợ Vương Bột dẫn về nhà.
Thế là một phen nữa Trịnh tam Miêu trúng kế của Bùi văn Khuê.