4. Nguyễn hữu Liên dâng mật kế (1)
THEO đề nghị của Thái phó Nguyễn hữu Liên chúa Trịnh bèn truyền cho một trinh sát viên phải tức tốc phi ngựa thẳng tới huyện Thùy Nguvên tìm gặp nhóm ưu binh có phận sự đi rước Hòang tử Duy Đàm để dặn dò phải thay đổi giờ khắc khởi hành và đi ngả đường khác mà về Tây đô.
Viên thám tử vừa cúi đầu tuân lịnh bước ra khỏi phòng thì Trịnh Tùng quay lại bảo Nguyễn Thái phó:
- Sự tiên liệu của chúng ta rất là quan trọng và cần kíp, song chúng ta cũng không nên bác bỏ các giả thuyết này là: hai tên phiến loạn kia đang bị truy nã ráo riết, có lẽ không dám nghĩ tới việc bắt cóc Hoàng tử mà lo tẩu thoát về hướng Nghệ An. Vậy đồng thời ta nên phái một đoàn quân tinh nhuệ ra chận đón chúng ngay trên con đường nối liền thủ đô và xứ Nghệ.
Nguyễn hữu Liên trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Bẩm Thiên tếu, lời Thiên tuế vừa phán rất là chí lý. Chính ty chức cũng đã nghĩ tới một vài giả thuyết tương tợ như thế. Nhưng theo ngụ ý của ty chức thì, thay vì chạy trốn trở về Nghệ An tức thì đi xuống phía Nam, Lê thế Hùng và Bùi văn Khuê có lẽ sẽ chạy lên phía Bắc.
Chúa Trịnh cau mày, ngạc nhiên hỏi:
- Quan Thái phó bảo thế nào? Chúng sẽ tẩu thoát về hướng Bắc tức là về hướng Thăng Long à? Và để làm gì?
Vị đại thần lễ phép gật đầu và chậm rãi xác nhận:
- Vâng! Chính thế. hai tên phản tặc ấy đang định tới Thăng long đầu hàng họ Mạc, hầu mượn binh lực của Mạc mậu Hiệp để trả mối thù không đội chung trời. Đó là mối hậu họa không nhỏ cho chúng ta về sau vậy.
Sự phát giác nầy làm cho Trịnh Tùng khẽ giật mình và lo ngại. Ông không ngờ rằng hai chàng tráng sĩ lẻ loi cô độc kia lại có thể phá hoại kế hoạch của mình gieo cho mình biết bao nhiêu buồn phiền bực bội, mất ăn mất ngủ, và hơn nữa suýt làm oai quyền hống hách của một bực chúa tể như ông phải lung lay.
Bây giờ đây hai kẻ ấy lại có thể lọt sang bên hàng ngũ đối phương để tăng thêm vây cánh, nanh vuốt cho phe địch. Không nói đến hậu quả tai hại mà một sự hiệp tác như thế sẽ đem lại về sau. Chỉ nội lòng đố kỵ của ông đối với chúng, đối với Chúa Mạc cũng làm cho ông phải căm tức, phải ngấm ngầm đau đớn.
Với giọng quả quyết, ông đưa ra một giải pháp mà ông cho là gọn nhứt để đối phó:
- Trong trường hợp hai tên phiến loạn ấy chạy về Thăng Long thì chúng ta cứ phái thêm một đội quân nữa tiến lên phương Bắc để phục kích chận đường...
Nhưng Nguyễn hữu Liên dường như không tán thành biện pháp trên đây. Viên Thái phó bày rõ quan điểm của mình:
- Bẩm thiên tuế, theo thiên kiến của ty chức thi cả một đạo binh chưa chắc đã làm gì nổi hai tên giặc ấy huống hồ chỉ một đoàn quân. Như vậy, đối với chúng ta không nên dùng võ lực mà chỉ dùng mưu trí. Ty chức xin Thiên tuế hạ lịnh cho vài trinh sát viên đắc lực, khả tinh thông võ nghệ, khẩn cấp ra bờ sông Cẩm chực sẵn, rồi theo đúng kế như vậy mà thi hành.
Dứt lời, vị đại thần bước gần đến chúa Trịnh, ghé tai thì thầm những gì không ai nghe rõ, chỉ thấy nhà độc tài luôn luôn gục gặt đầu tỏ vẻ đồng ý.
Liền đó, Nguyễn hữu Liên trở lại giọng nói bình thường như trước để cắt nghĩa thêm về đề nghị của mình:
- Bẩm Thiên tuế, ty chức tin rằng với kế mọn nầy, chúng ta sẽ có nhiều may mắn thành công. Vả chăng Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng chắc chắn sẽ vượt qua sông Cẩm, vì đó là con đường ngắn nhứt từ đây đưa thẳng tới Thăng Long.
Mưu mẹo của vị Thái phó những lời ông ta vừa thốt ra chỉ trong chốc lát đã xua đuổi được cái không khí khó thở vừa đè nặng lên trên phủ Chúa. Vẻ tức giận, cau có thình lình biến mất trên nét mặt của họ Trịnh, và nhường chỗ cho sự tin tưởng hài lòng.
Trịnh Tùng chọn hai viên tướng xuất sắc nhứt trong ban dọ thám của mình và hoàn toàn đặt dưới quyền sai khiến của Nguyễn hữu Liên để thực hành mật kế.
Bỗng nhiên giữa lúc ấy, có tin báo thái tử Trịnh Tráng đã kéo quân về và xin ra mắt.
Chúa Trịnh sốt sắng và mừng rỡ truyền cho vào. Câu hỏi đầu tiên của ông là về sức khỏe của con và về kết quả cuộc truy nã đang diễn ra ráo riết giữa Tây đô.
Trịnh Tráng. mặt mày phờ phạc, quần áo xác xơ, không phải là vì đã giao phong, xáp chiến với ai, mà chỉ vỉ bị lôi cuổn mấy phen vào giữa đảm ba quân ồ ạt và hỗn loạn.
Tuy vậy, vốn là một kẻ kiêu căng hợm hĩnh, Trịnh Tráng không ngần ngại thuật toàn những chuyện dối trá, bịa đặt để tự khoe mình là một đấng anh hùng, dám oanh liệt xông pha trong vòng gươm đao, tên đạn.
Tin là thật, Trịnh Tùng khoan khoái khen lấy khen để con không ngớt miệng:
- Hay lắm! Con ta quả là một trang hào kiệt đáng làm gương cho tướng sĩ noi theo, nhưng nầy con, rốt cuộc quân ta có thộp đầu được hai tên phản nghịch ấy không?
- Dạ không! Trịnh Tráng đáp - hai tên giặc ấy đã mất tích một cách kỳ lạ. Chính con dẫn binh lính đi truy nã khắp nơi lục soát khắp mọi nhà nhưng tuyệt nhiên không gặp.
Nhưng vừa rồi, trước lúc trở về đây con chỉ gặp tại một đường hẻm nọ, một cái xác nằm vắt ngang trên cành cây.
Hai tiếng xác chết khiến cho Chúa Trịnh, vị Thái phó và mọi người đều lóng tai chăm chú nghe, đoán chắc rằng có lẽ là thi hài của một trong hai thủ phạm.
Nóng nảy muốn biết,Trịnh Tùng hỏi dồn:
- Xác chết của ai thế con?
Liếc nhìn về phía Nguyễn hữu Liên, Trịnh Tráng trả lời:
- Đó là xác chết của công tử Nguyễn Bạch, người bạn can đảm và thân mến của con.
Vị Thái phó rụng rời trước tin sét đánh ấy. Mặt tái ngắt, ông té xỉu trong tay của các viên võ tướng đứng xung quanh...
Không còn cảnh gì mỉa mai trào lộng cho bằng cảnh hai chàng tráng sĩ tự do ung dung đi giữa Tây đô trong khi toàn thể binh sĩ của triều đình, điệp điệp trùng trùng đang ráo riết bủa vây khắp nơi để quyết truy nã họ cho kỳ được.
Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng không bị ai nhìn mặt, mặc dầu đã nhiều phen, hai chàng lẫn lộn chen lấn giữa đám quân thù. Ấy là nhờ hai bộ võ phục ưu binh đang khoác trên mình đã hoàn toàn biến hẳn cả hai thành ra những quân nhơn không còn phân biệt được trong một biển người mênh mông bát ngát.
Văn Khuê cười thầm, ghé tai bảo khẽ bạn:
- Giá anh em chúng ta cứ đi dạo thế nầy suốt đêm cho tới sáng chắc chắn cũng không hề bị ai phát giác.
Nhưng vị công tử dường như không tán thành sự đùa cợt không nhằm chỗ đó. Chàng nghiêm nghị bảo nhỏ họ Bùi:
- Thưa đại ca, tiểu đệ thiết tưởng bây giờ chẳng phải là lúc pha trò nữa. Chúng ta nên lo tìm cách sớm thoát khỏi Tây đô, và điều cần yếu trước nhứt là phải có hai con ngựa.
Chàng lực sĩ mỉm cười:
- Việc ấy không khó. Ta cứ lựa xem trong số ngựa của binh sĩ Trịnh Tùng, con nào vừa mắt hơn hết thì chiếm lấy, rồi ra roi phóng nước đại là xong.
Họ Lê can:
- Không nên như thế, phải cẩn thận đừng gây náo động khiến chúng lại chú ý tới mình.
Văn Khuê vẫn cười kéo tay bạn tiếp tục bước tới:
- Hiền đệ chớ ngại, cứ bắt chước làm theo ta, rồi mọi việc đâu đó sẽ yên ổn.
Họ đi ngang trước một tiệm buôn lớn đang bị bọn ưu binh vây kín và lục soát. Từ trong tiệm những tiếng quát tháo dọa nạt ầm ỹ vẳng ra ngoài, xen lẫn với tiếng la hét của gia nhân đang bị khảo.
Hai chàng tráng sĩ, lẽ cố nhiên không lưu tâm đến các cuộc lục soát và tra khảo như thế, lúc ấy đang diễn ra tại nhiều nơi khắp thủ đô. Họ chỉ để ý tới mấy con ngựa đang bị cột vào một thân cây trước tiệm, thỉnh thoảng lại thay phiên nhau hí lên một hơi dài. Đó là ngựa của các viên đội trưởng hay vệ úy của ưu binh đang chỉ huy cuộc khám xét bên trong.
Văn Khuê và Thế Hùng bước lại gần.Trong bóng tối họ thấy một tên lính đứng cạnh gốc cây có lẽ có phận sự canh giữ ngựa. Chàng lực sĩ thì thầm ra lịnh:
- Hiền đệ hãy sẵn sàng. Chúng ta khởi sự ra tay.
Dứt lời, chàng mạnh bạo tiến tới, thản nhiên tháo mở dây cương, rồi nhảy tót lên lưng một còn ngựa cao lớn nhứt. Vị công tử cũng bắt chước làm theo, cả hai giả vờ như không lưu ý đến tên lính đứng gác đang trố mắt ngạc nhiên nhìn họ.
Thoạt đầu, tên nầy toan dằng lại sợi dây cương và toan cất tiếng phản đối, nhưng chợt nhìn thấy bộ nhung phục võ tướng ưu binh của Văn Khuê hắn hơi giật mình. Tuy nhiên, hắn cũng ấp úng và lễ phép tìm cách ngăn cản:
- Xin lỗi tướng quân, có lẽ tướng quân đã trông lầm! Đây là ngựa của Trương vệ úy và con kia (vừa nói vừa chỉ vào con vật mà Thế Hùng đang cỡi) là của Hoàng đội trưởng.
Thay vì quắc mắt, nổi cơn thịnh nộ như một kẻ bề trên hống hách, cậy thế, ỷ quyền Bùi văn Khuê chỉ nghiêm nghị và lạnh lùng bảo:
- Không! Ta không lầm. Vì cần gấp để truy đuổi một kẻ lạ mặt đang chạy về hướng Bắc nên sẵn gặp đây, ta mượn tạm hai con ngựa nầy trong chốc lát rồi đem về trả ngay. Nhà ngươi nhớ thưa lại với Trương vệ úy như thế.
Thái độ nhã nhặn, giọng nói ôn tồn của chàng lực sĩ càng làm cho tên lính tin lời và kính nể chàng hơn. Vả chăng hắn nghĩ rằng, nếu ở vào địa vị hắn, viên vệ úy chủ tướng của hắn cũng không thể làm khác hơn và rốt cuộc cũng không tránh khỏi phải tuân lịnh một bực võ quan cao cấp.
Tuy thế, tên lính vẫn không giấu gếm nỗi bất bình đối với Lê thế Hùng vì họ Lê chỉ khoác một bộ nhung phục của một binh sĩ thường như hắn.
Hắn nghĩ rằng, với tư cách của một anh lính quèn, Thế Hùng không có quyền được tự tiện leo lên ngựa của một viên đội trưởng. Vì thế, hắn vội nhảy tới nắm lấy vạt áo của chàng thanh niên mà ghì lại.
Nóng lòng vì đã mất quá nhiều thì giờ, chàng công tử bất giác hầm hầm nổi giận. Chẳng nói chẳng rằng, chàng ngoái đầu lại, giơ tuy chộp lấy ngực tên lính xách hổng lên và đặt ngang bên lưng ngựa, trước mặt mình.
Cách giải quyết mau lẹ này khiến cho Bùi văn Khuê nhìn bạn bật cười. Đoạn hai chàng hiệp sĩ ra roi, thúc ngựa phi nước đại...
Bị bắt cóc thình lình, tên lính toan vùng vẫy tri hô cầu cứu, nhưng không kịp.Miệng nó vừa há ra thì một quả đấm của họ Lê liền gieo xuống làm gãy luôn hai hàm răng máu tuôn lai láng. Đau đớn quá, tên lính bất tỉnh nằm thiêm thiếp
Trong sương khuya gió lạnh, hai con ngựa vùn vụt phóng đi song song như hai mũi tên bay.
Như sực nhớ ra một điều quan trọng. Thế Hùng đột nhiên hỏi bạn:
- À, còn việc giải thoát cho đệ tam Thái tử Duy Đàm có lẽ đại ca quên rồi chăng?
Họ Bùi lắc đầu:
- Không! Ta không quên, song ta đã xét kỹ rằng dầu có giải thoát cho hoàng tử Duy Đàm chăng nữa, ta cũng không thể phá hoại được kế hoạch của Chúa Trịnh. Vì trong khi vắng mặt chúng ta, Trịnh Tùng vẫn có thể tìm những nhân vật trong vòng hoàng thân quốc thích của nhà Lê mà đặt lên ngôi báu để làm bức bình phong che đậy cho những thủ đoạn tàn bạo, độc tài của hắn. Vậy, bây gìờ tốt hơn là ta nên dẹp qua việc ấy sang một bên để lo đạt tới mục đích mà chúng ta đã vạch: ra Bắc hà để phò giúp chúa Mạc, hầu sau này mượn binh lực của người để trả mối thù bất cộng đái thiên.
Thế Hùng trầm ngâm không đáp. Hai con ngựa vồ nuốt khoảng đường thiên lý dài thăm thẳm, chẳng bao lâu đã đưa hai tráng sĩ đến bờ sông Cẩm.
Dưới vòm trời, bàng bạc sao thưa, dòng sông Cẩm giăng ra mênh mông, đen ngòm, như chứa đầy bí mật.
Bùi văn Khuê và Lê Thế Hùng gò cương, dừng ngựa khi đến trước bờ sông. Trong sương khuya, cảnh vật hiện ra trước mặt họ như phủ một vẻ ma quái âm u, rùng rợn.
Công việc thứ nhứt của chàng công tử là xách tên lính ưu binh còn nằm bất tỉnh trong tay mình ném mạnh xuống sông.
Sau một tiếng ‘‘bõm’’ rõ rệt giữa cảnh vắng lặng, mặt nước tung toé và xao động trong giây lát rồi im hẳn. Đáy sông sâu, như một cái mồ, đã lặng lẽ đón lấy gã binh sĩ xấu số của Trịnh Tùng đang ngủ yên giấc ngàn thu.
Thấy cử chỉ dọ dẫm vừa rồi của mình, tuyệt nhiên không gây ra một phản động lực gì, họ Lê xây lại hỏi bạn:
- Chắc chắn là ở bờ sông này, không có lấy một bóng người vì nếu có, thì tiếng động vừa rồi của cái xác chết ném xuống nước, cũng đủ làm cho họ phải giựt mình và chú ý. Không có người, không thấy một chiếc thuyền nhỏ nào đậu gần đây, thì lát nữa chúng ta sẽ làm sao để sang sông nhỉ?
Chàng lực sĩ không đáp câu hỏi của bạn. Lầm lì, chàng nhảy thót xuống ngựa, rồi đi lần xuống chỗ thấp nhứt của bờ sông. Lê Thế Hùng cũng làm theo.
Cả hai trầm ngâm, hết nhìn phía tả lại day qua nhìn phía hữu, bốn mắt cố tìm kiếm bới móc nhưng vẫn không thấy gì qua bóng đêm mập mờ và qua đám sương mù dày đặc.
Để cố đánh tan nỗi thất vọng mà chàng đoán chừng đang nhóm lên trong óc bạn, Lê Thế Hùng bảo:
- Trước đây. tôi vẫn thường đi qua vùng nầy, và tôi nhớ, có thấy nhiều nhà chài lưới ở gần sát bên sông, vậy mà tại sao hôm nay lại vắng ngắt như thế nầy. Hay có lẽ các nhà ấy đã dời đi và tự tập ở đàng kia chăng? Chúng ta hãy bước lại đó xem thử. Nếu gặp họ chúng ta sẽ nhờ họ chèo thuyền đưa chúng ta qua bên kia bờ một chuyến.
Dứt lời chàng kéo tay họ Bùi dắt đi. Cả hai cùng dắt ngựa chậm rãi tiến theo ven bờ sông. Bên tai họ gió lạnh thổi vi vu, thỉnh thoảng lại rít lên trong các khóm cây xào xạc, như những lời rên rỉ, nức nở của oan hồn.
Sương mù vẫn mênh mông, dày đặc xung quanh họ. Vượt qua chừng hơn năm mươi thước rồi, mà họ vẫn chẳng thấy gì hơn, giữa lúc sự chán nản bắt đầu xâm chiếm tâm trí họ thì
Thình lình chàng lực sĩ reo lên:
- Kìa! Hiền đệ trông kìa! Hình như có một con thuyền đang lướt đến!
Vừa nói, họ Bùi giơ tay chỉ về phía trước mặt. Thế Hùng nhìn theo. Chàng nhận thấy hình dáng lờ mờ của một chiếc thuyền tam bản lớn với hai bóng người ngồi, kẻ trước mũi kẻ sau lái, đang từ từ đến gần và ghé sát vào bờ.
Cả mừng, Văn Khuê vội chạy lại cất tiếng hỏi:
- Nầy hai bác, hai bác có thể chở giúp anh em chúng tôi sang sông ngay bây giờ được không?
Người ngồi đàng mũì - mà hai chàng lực sĩ không thể thấy rõ vì trời tối và vì sương mù càng dầy, bắt đầu đứng lên trước, vừa phụ lực với người kia để sắp lại tấm lưới, vừa đáp bằng một giọng uể oải
- Hai ông lầm rồi, chúng tôi không phải lái đò, chúng tôi là dân chài lưới mà!
Lời từ chối của gã này không làm cho họ Bùi thối chí, chàng năn nỉ:
- Đành vậy, nhưng hai bác cũng có thể gắng giúp đỡ cho kẻ lỡ đường như anh em chúng tôi, mà chở giùm một bận qua sông chớ! Đối với công khó ấy, chúng tôi sẽ xin hậu tạ.
Gã kia vẫn lắc đầu:
- Chịu thôi! Chúng tôi đi đánh cá từ xa về đây đã mệt nhọc lắm rồi, cần phải nghỉ ngơi chốc lát để sáng sớm tinh sương phân phát cá cho người nhà đem ra chợ bán. Xin hai ông kiếm thuyền khác vậy.
Vốn tánh nóng nảy, chàng lực sĩ đắt đầu bực mình, nhưng cố đè nén cơn giận.
Chàng nghĩ thầm rằng dùng võ lực lúc này không lợi mà có một cách là hết sức khẩn khoản hắn và hứa hẹn thưởng công cho hắn một số bạc quan trọng để thử xem sao.
Với giọng ngọt ngào, chàng tiếp:
- Này bác, bán một buổi cá chả được bao nhiêu tiền đâu! Bác cứ chở chúng tôi sang sông tôi sẽ tặng bác năm chục lượng bạc.
Đề nghị trên đây của Văn Khuê dường như vẫn không được gã dân chài kia tiếp đón một cách sốt sắng, nồng nhiệt lắm. Đó là điều khiến Lê Thế Hùng rất chú ý và ngạc nhiên. Vì một người ngư phủ nào khác ắt không thể hững hờ được trước một số tiền lớn lao như thế, số tiền mà vị tất họ có thể kiếm nổi trót tháng làm việc lao lực nhọc nhằn?
Vả chăng ngay từ ban đầu khi gặp gỡ chiếc thuyền lạ này, họ Lê đã nhận thấy một vài dấu hiệu khả nghi: Hai người ở trên thuyền, tự xưng là dân chài lưới, nhưng cử chỉ của họ có vẻ vụng về, chậm chạp, không thông thạo một chút nào. Ấy là chưa kể, dưới ánh sáng le lói của một ngọn đèn đỏ treo sau lái, chàng thấy da họ không ngăm ngăm đen như tất cả bao nhiêu người chuyên về nghề hạ bạc. Hơn nữa tại sao một thuyền đánh cá lại ghé vào đây, vào một bờ sông vắng ngắt, tuyệt nhiên không có lấy một nếp nhà nào của chài lưới?
Lê thế Hùng lặng yên tiếp tục quan sát để chờ xem những mối ngờ vực nói trên có được xác nhận thêm nữa chăng?
Trong khi đó thì sau một giây lát suy nghĩ, gã kia nhận lời chở hai tráng sĩ sang sông.
Hắn truyền cho người phụ của mình đứng đằng sau lái thâu gọn các dụng cụ và số cá câu được lại một nơi để dư chỗ rước hai vị khách và hai con ngựa xuống thuyền.
Văn Khuê hớn hở và tin cậy thúc giục bạn:
- Hiền đệ hãy xuống trước đi, rồi đến lượt ta.
Họ Lê gật đầu, nhưng ghé tai bảo nhỏ chàng lực sĩ:
- Đại ca hãy coi chừng cẩn thận.
Dứt lời, kéo theo con ngựa, chàng đặt chân xuống chiếc thuyền đang khởi sự chồng chành dữ dội như muốn lật.
Thuyền từ từ tách bến ra khơi, như một bóng ma lướt đi trên sóng nước.
Gió lộng thổi và hơi sương khuya bắt đầu thấm lạnh, khiến hai tráng sĩ phải xốc lại ngay ngắn chiếc áo đang khoác trên mình để che kín cổ và ngực.
Văn Khuê kéo Thế Hùng cùng ngồi xuống với mình và bảo:
- Thuyền lắc lư, dao mạnh quá. Hiền đệ nên tạm ngồi xuống đây mà nghỉ cho đỡ mệt, sau một đêm...
Chàng toan nói ‘‘sau một đêm chiến đấu mạo hiểm’’ nhưng biết mình suýt lỡ lời, sợ hai gã lái đò kia nghe được, nên chàng vụt ngừng lại.
Vừa ngồi xuống xong, Thế Hùng rỉ tai bảo thầm bạn:
- Tiểu đệ xem hai tên ngư phủ này có vẻ khả nghi quá.
Họ Bùi ngạc nhiên, hỏi khẽ lại:
- Khả nghi à? Khả nghi ở chỗ nào?
Vị công tử đem những điều mà chàng đã nhận xét thì thầm kể hết cho bạn rõ. Sau hết chàng tiếp:
- Vả chăng, hiện giờ tiểu đệ thấy lòng nôn nao bứt rứt dường như tiên cảm có một sự gì bất trắc sắp xảy ra. Để rồi coi, trực giác của tiểu đệ không lầm đâu đại ca ạ.
Giọng nói quả quyết của họ Lê làm cho chàng lực sĩ lo ngại Chàng liếc nhìn về phía hai gã lái đò và mặc dầu đêm tối không giúp cho chàng phân biệt rõ diện mạo chúng, Văn Khuê cũng bắt chợt thấy chúng đang chụm đầu lại to nhỏ với nhau. Dường như chúng cũng rất chú ý đến cuộc trao đổi ý kiến kín đáo vừa rồi giữa hai chàng tráng sĩ.
Bình tĩnh, họ Bùi bảo nhỏ bạn:
- Hiền đệ xét đoán rất hữu lý. Tuy nhiên ta cứ chờ thử coi chúng định giở trò gì rồi sẽ ra tay cũng chẳng muộn,
Vị công từ tỏ vẽ không tán thành thái độ khinh xuất ấy:
- Không nên, chúng ta cần phải ra tay trước, kẻo đến lúc
nước tới chân thì không kịp.
Thật vậy, chàng vừa dứt lời thì cả hai tráng sĩ đều giựt mình kinh ngạc. Sau một tiếng ‘‘vút’’ như hơi gió, từ phía sau lái, chỗ hai gã ngư phủ đang đứng, một vật gì vừa tung lên và rơi ập xuống trên mình Văn Khuê và vị công tử.
Trong một cử chỉ tự vệ, hai họ Lê, Bùi không ai bảo ai, đều đứng phắt dậy và đều đặt tay mình lên chuôi kiếm.
Thì ra nhờ có xúc giác họ mới biết đây là tấm lưới mà hai gã lái đò kia đã dùng để chụp lên mình họ, nhưng có điều nó không phải là lưới câu thường vì sợi nó rất to và rất chắc.
Đồng thờỉ, một chuỗi cười ghê gợn cất lên giữa một vùng sóng nước bao la và tiếp theo là một giọng nói oang oang như lệnh vỡ
- Hai tên phản tặc kia, phen nầy chúng bây lọt vào lưới của Bình an Vương rồi. Hãy chuẩn bị mà chịu chết.
Khi Văn Khuê biết mình trúng kế phe nghịch và hối hận vì đã không nghe lời đề nghị của Thế Hùng thì sự đã trễ rồi. Trước đây, chàng không ngờ rằng bọn tay sai của Trịnh Tùng lại có thể nghĩ ra một mưu kế lợi hại và lạ kỳ như thế.
Thay vì đánh úp, tấn công sau lưng chàng một cách bất ngờ - những toan tính mà chúng biết chắc rằng sẽ thất bại - bọn bộ hạ của Chúa Trịnh đã xử dụng một tấm lưới đặc hiệt và hơn nửa đã đóng vai tuồng của kẻ chài lưới một cách khôn khéo và rất công phu.
Tấm lưới ấy quả là lợi hại thật, vì liền sau khi chụp lên mình hai chàng tráng sĩ, nó ngăn cấm tất cả mọi phản động lực của nạn nhơn.
Thế Hùng và Văn Khuê cố hết sức vùng vẫy dử dội, tay hất, chân đạp liên miên nhưng vô ích. Toàn thân họ rốt cuộc vẫn chịu lúng túng trong lưới vướng víu, khó chịu đang bó chặt hai người lại với nhau.
Giữa cơn bối rối ấy một tia sáng vụt xuyên qua khối óc của vị công tử. Chàng bảo nhỏ bạn:
- Đại ca hãy rút gươm ra.
Nhưng chàng chưa nói dứt câu thì tấm lưới đã bỗng giựt nhanh, vật cả hai gã nhào xuống ván thuyền.
Ngay cầm hai ngọn đao mà hai chàng tráng sĩ nhận thấy lưỡi thép lấp lánh trong bóng tối.
Một trong hai đứa quát to một cách đắc thắng:
- Hai thằng giặc kia! Đừng hòng thoát thân vô ích. Nầy hãy mở mắt ra xem ta hóa kiếp lũ bây.
Đoạn, cả hai giơ cao võ khí lên, nhắm Văn Khuê và Thế Hùng đang lăn tròn, lính quýnh trong lưới mà đâm xuống.
Trong giây khắc quyết định ấy, vị công tử bất lực, chỉ còn đành nhắm mắt lại mà chờ chết, nhưng chàng lực sĩ nằm kế cận vẫn chưa thất vọng. Choàng cánh tay ôm chặt lấy bạn, chàng chuyển hết thần lực thét to lên một tiếng như sấm, rồi lanh như cắt vùng lăn mình sang một bên để tránh mũi đao của địch thủ.
Không ngờ tiếng thét đó khiến hai con ngựa kinh hoảng, phóng mình nhảy chồm tới phía hai tên dọ thám của Trịnh Tùng.
Do sự bất ngờ ấy, hai lưỡi dao sát nhân, thay vì đâm trúng mục tiêu, lại phóng nhầm hai con ngựa đang chòm tới.
Bị thương thình lình, hai con vật lồng lộn, cất tiếng hí dữ dội và lăn nhào lên mình hai tay dọ thám của Trịnh Tùng, xô chúng ngã vật xuống và khiến cho chiếc thuyền lắc lư, đảo mạnh gần muốn lật.
Thừa cơ hội ấy, Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng thoát khỏi tai nạn đầu tiên, nhưng vì đã dùng sức quá nhiều và theo đà của chiếc thuyền đang nghiêng hẳn về một bên cả hai xây một vòng rồi rơi ùm xuống nước.
- Nguy rồi đại ca ôi!
Vị công tử một tay ôm chặt lấy bạn, một tay sờ soạng, miệng thốt ra câu nói tuyệt vọng và ngắn ngủi trên đây. Đồng thời nước sông tràn vào mồm, vào mũi khiến chàng gần ngộp thở. Hai mắt chàng nhắm nghiền lại- không thấy gì nữa cả.
Tuy nhiên, tình thế chưa đến nỗi quá nguy ngập, như họ Lê đang lo ngại. Vì cạnh chàng, Văn Khuê khẽ reo lên một cách đắc thắng:
- Không sao đâu hiền đệ. Tôi đã nắm được thanh gươm
rồi!
Thật vậy, sau một hồi mò mẫm tìm kiếm khó khăn dưới tấm lưới bó chặt lấy mình, chàng lực sĩ đã đặt tay trở lại lên trên chuôi thanh kiếm mà chàng vẫn đeo sẵn bên hông.
Họ Bùi rút gươm ra khỏi vỏ, và lựa chỗ thuận tiện, chàng bắt đầu rạch đứt một đoạn giây lưới chằng chịt vừa với tầm tay mình.
Trong nháy mắt, từ trên xuống dưới, lưới đứt tung ra một khoảng dài to tướng và trả lại tự do cho hai chàng tráng sĩ đã bị nó giam hãm trước đây.
Cả mừng Văn Khuê kéo bạn, lách mình lọt ra ngoài. Một lần nữa, họ lại thoát hiểm nhưng còn cần phải ráo riết đề phòng, vì chắc chắn địch thủ vẫn chưa chịu buông tha họ.
Vốn là những tay bơi lội khá, họ rất yên tâm, nhứt là bây giờ thân mình họ không còn bị kềm hãm và tay chân họ được thong thả hoạt động.
Công việc thứ nhứt của hai chàng tráng sĩ là rủ nhau lội ra cách chỗ nầy chừng mười thước để tránh một sự chạm trán bất thần với kẻ thù...
Họ lặn hụp một cách rất nhanh và lặng lẽ, cố không gây tiếng động khả nghi, có thể làm cho đối phương chú ý.
Nhưng ‘‘đối phương’’ lúc ấy ở đâu? Hai tên dọ thám của Trịnh Tùng cải trang làm ngư phủ, vừa rồi đã đâm hụt hai chàng, hiện thời ra sao? Chúng đang ở trên thuyền hay đã lội xuống nước tiếp tục mở cuộc truy nã?
Để biết rõ những điều này. Văn Khuê và Thế Hùng nhẹ
nhàng trồi lên khỏi mặt sông để quan sát dưới ánh sao thưa càng mập mờ và hư ảo hơn qua lớp sương khuya. Họ đã thấy gì?
Chiếc thuyền đánh cá trống trơn, vô chủ, đang bồng bềnh, trôi dạt theo ngọn thủy triều lần về hướng mà hai chàng đang đứng. Cạnh đấy chừng vài thước hai con ngựa và hai bóng người đang vẫy vùng trên mặt sông, ném bọt nước tung tóe ra khắp bốn bề.
Hai bóng người ấy chính là hai gã lái đò giả hiệu, trinh sát viên của Trịnh Tùng. Số là vừa rồi, sau khi giết hụt hai chàng hiệp sĩ, và vô tình đâm trúng nhầm hai con ngựa đang chồm tới, chúng bị hai con vật này đè lên mình và dẫy đạp dữ dội. Trong lúc bối rối, chúng bèn nhảy xuống nước. Tức thì, hai con vật cũng nhảy theo, gây ra trên mặt sóng một cuộc xáo động, sôi nổi.
Dưới sông, hai tên dọ thám mới chợt nhớ đến hai anh em Văn Khuê và Thế Hùng trước đây đã bị chúng cuốn vào trong tấm lưới. Nhưng không thấy hai tráng sĩ ở trên thuyền nữa, chúng cả kinh bổ ra tìm kiếm khắp nơi, không đếm xỉa tới hai con ngựa bị thương đang lặn hụp giữa dòng.
Chính lúc ấy là lúc hai họ Bùi, Lê đang nổi lên để quan sát tình hình, như trên kia đã nói.
Sau vài giây suy nghĩ, chàng lực sĩ quyết định:
- Chúng ta không nên ở mãi dưới nước vì trong trường hợp này, giao phong với quân giặc là một điều thất lợi. Vả chăng con sông nầy rộng lớn, chúng ta sẽ đuối sức nếu phải ra tài bơi lội để vượt qua.
Chi bằng anh em ta cứ trở lại chiếm lấy chiếc thuyền của giặc. Nếu chúng tấn công, chúng ta sẽ liệu cách đối phó.
Nhân tiện chúng ta sẽ cứu luôn con ngựa đã gíup cho cuộc thoát thân.
Thế Hùng gục gật đầu khen:
- Đại ca dự liệu rất chí lý.
Hai chàng tráng sĩ không phải khó nhọc lắm vì chiếc thuyền không chủ đang xuôi dòng, từ từ trôi về phía hộ.
Văn Khuê và Thế Hùng êm ái, đưa tay tiếp đón nắm lấy mạn thuyền nhẹ nhàng leo lên, mắt không rời hai tên dọ thám của Trịnh Tùng đang vẫy vùng, lục lạo một cách thất vọng hết chỗ nầy sang chỗ nọ.
Bỗng nhiên, một trong hai đứa này dừng lại. Hắn vừa khám phá ra sự hiện diện của hai chàng tráng sĩ trên chiếc thuyền. Mừng rỡ, hắn reo lên:
- Chúng nó đây rồi!
Dứt lời, hắn quăng mình về phía chiếc thuyền. Tên đồng nghiệp của hắn cũng lội theo.
Một hai, rồi ba cái sải tay nữa... chúng đã xáp đến gần. Cả hai đứa rút ra hai con dao to bản, sáng ngời...
Bùi văn Khuê, ghé tai bảo nhỏ Thế Hùng:
- Vừa rồi, chúng ta bị mắc mưu, nhưng bây giờ sắp đến phiên chúng nạp mạng. Tuy nhiên muốn hạ thủ chắc chắn bọn nầy, chúng ta nên áp dụng một kế mọn. Đó là giả vờ đuối sức nằm vật ra trên thuyền. Như thế hai tên ấy mới dám mon men đến gần, và sẽ rơi vào tầm tay của chúng ta.
Ý kiến trên đây được vị công tử tán thành. Tảng lờ như không chú ý đến hai gã dọ thám của chúa Trịnh đang xăm xăm bơi tới, hai chàng tráng sĩ tỏ ra uể oải mệt nhọc, cũng ngả lưng xuống chiếc thuyền đang lắc lư xáo động.
Trong cơn hăng hái, hai tên thuộc hạ của Trịnh Tùng đã quên phứt rằng chúng sắp phải đối phó với hai bậc anh hùng cái thế trước đây mấy giờ đã từng giết hại biết bao binh tướng của triều đình và làm rung động kinh thành. Bây giờ sắp đến gần thuyền, chúng sực nhớ lại và không khỏi giựt mình thon thót.
Nhưng, mặc dầu biết trước kết quả khốc hại của cuộc chạm trán sắp xảy ra, cả hai đứa cũng không dám nửa chừng lui bước vì chúng đã trót lỡ nhận những mạng lịnh khắc nghiệt của chúa Trịnh trước lúc lên đường: ‘‘Một là thành công, hai là chết!’’.
Trong khoảnh khắc, không hẹn mà nên, hai tên dọ thám lặng nhìn nhau bối rối, chúng nghĩ thầm: ‘‘Phen này chỉ có cách liều chết, không còn phương pháp nào khác nữa’’. Thế rồi cùng một lượt, chúng nhô đầu lên rất cao khỏi mặt nước, để quan sát một lần chót trước khi quyết định.
Một tia hy vọng bỗng lóe ra trong óc chúng, hai tên thuộc hạ của chúa Trịuh vừa chợt thấy Văn Khuê và Thế Hùng nằm sóng sượt trên thuyền gần như mê man, bất tỉnh, sau một cuộc vẫy vùng gian khổ dưới sông đã làm cho hai chàng kiệt sức.
Cả mừng, một tên dọ thám bảo tên kia:
- May quá, chúng ta nên thừa lúc này cấp tốc tấn công thì nắm chắc ngay phần thắng.
Dứt lời, không sợ sệt do dự nữa, chúng ngậm ngang lưỡi dao nơi miệng, đưa hai tay bíu lấy mạn thuyền, và cất mình nhanh nhẹn nhảy lên.
Thấy hai tráng sĩ vẫn nằm yên không cử động, chúng yên trí rằng sự dự đoán của chúng là hoàn toàn đúng. Hơi vững bụng, hai đứa rón rén bước lại bên cạnh Văn Khuê và Thế Hùng, giơ cao hai lưỡi dao, toan chém bổ xuống.
Nhưng, hai tiếng rú thất thanh bỗng cất lên, tiếp theo hai tiếng ‘‘huỵch’’ nặng nề, Hai tên tay sai của Trịnh Tùng chưa kịp thi hành thủ đoạn đã bị hai cái đá bất ngờ vụt quất ngang mình như sét đánh, ném chúng lộn nhào xuống ván thuyền như hai thân cây bị đốn.
Đồng thời, hai họ Bùi, Lê đã vùng trở dậy và lẹ như cắt, nhảy chồm lên ngồi trên mình chúng, tước khí giới của chúng liệng xuống sông.
Rút kiếm ra chỉ thẳng vào một tên, chàng lực sĩ quát hỏi:
- Lũ khốn kiếp nầy... Có phải chúng bây vâng lịnh của Trịnh Tùng và Nguyễn hữu Liên tới sông nầy để lập mưu ám hại chúng ta phải không? Hãy khai ngay, nếu chúng bây muốn lúc chết mà còn giữ vẹn thân thể.
Gã dọ thám chắp tay van lạy không ngớt và xin thú thật:
- Bẩm tráng sĩ, chúng tôi chính là tay sai của Chúa Trịnh và đã tuân lịnh thượng cấp để làm cái công việc cực kỳ gian nan, nguy hiểm nầy: Tôi là Chưởng vệ Trương Giản còn anh kia là Vệ úy Lê song Vân. Thái phó Nguyễn Hữu Liên đã bầy mưu buộc chúng tôi cải trang làm dân lái đò và xử dụng tấm lưới đặc biệt để bắt nhị vị tráng sĩ. Nhưng lòng trời bao giờ cũng tựa người ngay, nên kế hoạch trên đây không thành tựu.
Câu nói nịnh bợ sau đây khiến Bùi Văn Khuê bật cười mai mỉa:
- Ha, ha, chờ cho đến lúc nầy ngươi mới biết đến ‘‘lòng trời’‘, ‘‘ai ngay ai gian ‘’ thì đã muộn. Sự thật sở dĩ chúng bây thất bại cũng chỉ vì lũ chủ tớ chúng bây chỉ là một bọn bất tài, vì kém thông mình. Hơn nữa cũng chỉ vì thằng Trịnh Tùng và bè lũ chúng bây đã đi ngược ý nguyện thiêng liêng của dân, đã công nhiên dày xẻo lên dân chúng tiếp lục gây mãi những hành vi phản dân, những sự đàn áp, bạo ngược, táng tận lương tâm, nên tự nhiên anh em chúng ta phải buộc lòng vì dân, đứng lên chống lại, để một sớm đạp đổ cường quyền, cởi gỡ cái ách tham tàn của phường độc tài đại gian đại ác,
Ngừng lại, nhìn sang phía Thế Hùng, chàng lực sĩ lại cất lên một chuỗi cười sằng sặc và tiếp:
- Hiền đệ ngẩm mà xem! Nếu thày trò lũ mầy mà biết ‘‘có trời’’ ‘‘có dân’’, biết nghĩ đến đồng bào. thì chúng ta đã tránh được ba nỗi gian truân khó nhọc, và hai tên chó chết này cũng không đến nỗi rước lấy cái hậu quả thảm khốc như ngày nay.
Dứt lời, chàng dí mũi gươm vào cổ tên dọ thám. Bên cạnh, Thế Hùng cũng làm theo. Hai tia máu vọt lên. Hai tiếng thét ngắn ngủi. Thế là rồi đời hai lay sai của chúa Trịnh.
Công lý của loài người đã làm nhiệm vụ trong khi đêm u ám, dòng sông Cẩm đen ngòm vẫn lạnh lùng trôi...
Loại xong địch thủ, hai chàng tráng sĩ cảm thấy lòng nhẹ nhàng khoan khoái vì vừa thoát khỏi hiểm nghèo. Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng lo vớt hai con ngựa từ dưới nước lên rồi tiếp tục cho thuyền vượt qua sông Cẩm.
Trong sương khuya, chiếc thuyền từ từ lướt đi giữa một khung cảnh lung linh mờ ảo nửa hư nửa thật. Tiếng mái chèo đều đều vỗ sóng là những tiếng động duy nhất vang lên trong không khí tĩnh mịch đang bao trùm suốt một giải sông bát ngát bao la.
Nhìn chàng lực sĩ ngồi đầu mũi, trổ tài chèo, vị công từ không khỏi ngạc nhiên và thán phục bạn. Thì ra, bất luận về môn gì, họ Bùi cũng tỏ ra mình là một tay thông thạo, quả xứng đáng với danh nghĩa và tư cách của một trang hiệp sĩ giang hồ.
Hơn một giờ sau thuyền đáp vào bờ. Văn Khuê và Thế Hùng dắt ngựa bước lên trên cạn. Đồng thời họ thận trọng dò xét, nghe ngóng khắp tứ bề nhưng không nhận ra sự gì khác lạ.
Cũng như bên kia sông, bên nầy bờ đìu hiu và vắng vẻ lạ lùng. Xa xa, thấp thoáng hình dáng mơ hồ của vài túp lều tranh, ý chừng là của dân chài lưới đang say sưa trong giấc ngủ.
Hai tráng sĩ nhảy lên lưng ngựa, tìm lối ra quan lộ, rồi ra roi quất mạnh, nhắm hướng bắc mà thẳng tiến.
Giờ Hợi sang giờ Tý, rồi giờ Sửu. Vó câu dồn dập, hai con vật thi nhau vồ nuốt con đường thiên lý cứ kéo dài ra thăm thẳm, như vô tận. Để tránh mọi sự lưu ý của kẻ lạ mặt, hai họ Bùi - Lê chỉ cúi gầm đầu phóng đi mà không trao đổi với nhau một lời nào.
Khi hai người vượt qua những cánh đồng ruộng thênh thang vắng lặng, thấy con ngựa của Thế Hùng hơi chậm bước,
Văn Khuê ghì cương lại cho hai bên cùng tiến song song với nhau. Chàng xây qua hỏi bạn:
- Thế nào, chỗ vết thương của hiền đệ bây giờ ra sao? Hiền đệ có cảm thấy trong mình mệt nhọc gì chăng?
Sự ân cần săn sóc của bạn khiến vị công tử rất cảm động. Chàng lắc đầu gắng gượng tươi cười đáp:
- Không! Cám ơn đại ca, tiểu đệ vẫn khoẻ khoắn như thường, duy bụng có hơi đói.
Lê thế Hùng đã nói dối ít nhiều. Sự thật, hiện thời chàng đang đói lả vì từ sau khi bị thương tại Tây đô đến giờ’, chàng chưa có lấy một hột cơm vào bụng.
Sực nhớ ra điều nầy, Văn Khuê vùng kêu lên:
- Chết nỗi! Ta quên phứt rằng hiền đệ chưa ăn uống gì trọn sáu bảy tiếng đồng hồ vừa qua, sau khi bị trúng tên mất máu khá nhiều và mới rồi lại còn phải trải qua một phen gian lao trên sóng nước. Thôi! Bây giờ ta hãy tạm ghé vào một nhà thường dân nào gần đây để hỏi mua một vài thức ăn để lót lòng.
Vị công tử gật đầu đồng ý, nhưng hơi dè dặt:
- Đại ca nên cẩn thận, vì chúng ta đã lãnh nhiều bài học lắm rồi.
- Cái đó đã đành - chàng lực sĩ đáp - Anh em ta luôn luôn đề phòng và tùy cơ ứng biến.
Từ đó trở đi, trên con lộ dài dằng dặc đưa thẳng tới Thăng Long, qua sương đêm và bóng tối, bốn con mắt bắt đầu chia nhau xoi bói lục lọi hai bên vệ đường.
Nhưng tuyệt nhiên họ không tìm thấy một nóc nhà thường dân nào cả. Văn Khuê và Thế Hùng hơi thất vọng và lấy làm lạ.
Họ lấy làm lạ cũng phải, vì không ai ngờ rằng một vùng đồng quê như thế nầy lại có thể biến thành một khu vực hoang vu tẻ lạnh.
Số là từ ngày biến cuộc bùng nổ giữa hai phe Trịnh, Mạc, tất cả những địa hạt nằm kế cận các ngả giao thông giữa Tây đô và Thăng Long đều đắm chìm trong cảnh đao binh. Nhà cháy, người chết, gia súc bị chiếm đoạt. Ngoài họa khói lửa ra còn nạn cướp bóc hoành hành do ly loạn gây nên, buộc lương dân phải bỏ phế mảnh vườn, thửa ruộng thân yêu, lìa khỏi nơi cắt rún chôn nhau, tìm đường tị nạn.
Bởi lẽ ấy, tối hôm nay, hai chàng tráng sĩ đã thất công trong công việc đi tìm kiếm một cái mái nhà ấm nho nhỏ, khiêm tốn của người dân quê.
Vị công tử nản chí vì quá mỏi mệt và quá đói trong khi họ Bùi cũng khởi sự nhận thấy mình đang bị một cơn khát dữ dội dày vò.
Đột nhiên hai mắt chàng sáng rực lên. Văn Khuê ra dấu cho bạn và thình lình kềm ngựa lại. Chàng vừa thoáng thấy ở phía bên tả, cách đó chừng vài chục thước, ánh sáng yếu ớt của một ngọn đèn đang le lối, chập chờn, xa xa trong đêm tối.
Chỉ về hướng ấy, chàng lực sĩ reo lên:
- Chúng ta gặp rồi, kìa kìa hiền đệ hãy xem!
Cả mừng, Thế Hùng vươn cao mình trên lưng ngựa để nhìn thật kỹ. Khi biết chắc đó là một ánh đèn không thể lầm lẫn được, hai chàng tráng sĩ thúc ngựa tiến đến gần.
Họ không mất thì giờ lắm để tìm một lối đi chật hẹp, quanh co, đưa họ tới chỗ có ánh sáng nói trên.
Nhưng hai con ngựa vừa dừng gót, hai họ Lê, Bùi không khỏi ngạc nhiên và nhận thấy mình đã đóan sai. Đây không phải là một nếp nhà tranh của nông dân như nãy giờ họ vẫn yên trí, mà là một ngôi chùa cổ, khá rộng rãi, với cái bề ngoài hoang phế, cỏ mọc rêu phong, nhô lên sau một hàng rào tre thấp, cằn cỗi và xơ xác.
Vị công tử ngờ vực, lẩm bẩm:
- Lạ nhỉ? Tại sao lại có thể có một ngôi chùa cổ đứng trơ trơ, cô độc giữa một vùng mênh mông, vắng ngắt như sa mạc? Hay lại là một sự bí ẩn gì nữa đây?
Thấy bạn hay hoài nghi, Văn Khuê gạt đi:
- Bí ẩn hay không bí ẩn, cái đó rồi chúng ta sẽ liệu sau. Chỉ biết bây giờ chúng ta đang bị bao tử dày vò, thúc giục Vậy, anh em ta cứ vào. Biết đâu, sẽ gặp kẻ tu hành từ bi, bác ái, sẵn sàng tiếp đãi chúng ta nồng hậu.
Dứt lời, chàng nhảy xuống ngựa, Thế Hùng cũng làm theo. Cả hai ung dung bước thẳng tới trước cửa chùa, gõ mạnh...
Hai người lắng tai nghe ngóng. Có tiếng nói thì thầm bên trong và tiếng guốc kéo lê trên sàn đất mỗi lúc mỗi gần. Một lát sau, cửa chùa từ từ hé mở.
Một chú tiểu hiện ra. Chợt thấy hai chàng tráng sĩ, chú giương to đôi mắt ngơ ngác nhìn lo lắng, rồi vội chắp hai tay đưa lên trước ngực:
- Mô phật! Kính chào nhị vị, quý khách. Chẳng hay đêm hôm khuya khoắt, nhị vị đến đây có điều gì dạy bảo nhà chùa?
Câu nói khôn ngoan, văn vẽ trên đây khiến Thế Hùng rất chú ý đến chú tiểu. Chàng càng chú ý hơn khi nhận thấy nét mặt lanh lợi, già dặn của kẻ tu hành và nhứt là cái khăn nâu sồng che phủ đầu chú một cách rất kín đáo.
Chàng lên tiếng đáp thế cho bạn:
- A-di-đà Phật, anh em chúng tôi là những kẻ lỡ đường, lương thực vừa hết nên đi qua đây đánh bạo xin vào nhờ lượng từ bi của sư cụ.
Chú tiểu cúi đầu khiêm tốn:
- Được quý khách chiếu cố, đó là một điều vạn hạnh cho cửa thiền nầy. Xin quí vị tạm chờ tại đây để tiểu tăng vào bẩm với sư ông.
Dứt lời chú tiểu thoăn thoắt bước đi. Thừa lúc ấy, vị công tử xây lại bảo họ Bùi:
- Chùa này không có sư cụ, mà chỉ có sư ông. Chúng ta hãy đợi xem sư ông ra thế nào? Hay cũng là hạng tu hành khả nghi như chú tiểu nầy.
Văn Khuê không ngăn được sự ngạc nhiên. Chàng vội hỏi:
- Thế nào? Hiền đệ cho rằng gã thanh niên vừa rồi là một chú tiểu giả hiệu à? Lấy gì làm bằng cớ?
- Tiểu đệ chỉ ngờ vực thôi - Thế Hùng đáp - chớ không dám quả quyết. Muốn chắc chắn lát nữa chúng ta cứ lột cái khăn nâu bịt đầu của hắn ta, tức khắc sẽ thấy cái đầu ấy trọc hay không?
Cái ý nghĩ ngộ nghĩnh nầy làm cho chàng lực sĩ suýt bật cười, mặc dầu chàng đang băn khoăn lo ngại.
Nhưng chú tiểu nọ đã trở ra. Vẫn hai tay chắp trước ngực, chú nghiêng mình trịnh trọng:
- Sư ông xin thỉnh nhị vị vào thiền phòng.
Theo gót chú tiểu, hai họ Bùi, Lê bước vào trong chùa.
Dưới ánh ngọn đèn sáp lung linh, cảnh chùa bên trong phô bày ra tất cả sự điêu tàn, thê lương của nó. Tại bốn góc cửa các bức tường vôi bụi bặm và lở lói, vô số tấm lưới nhện to nhỏ đua nhau giăng đầy. Trên tường, các bức tranh vẽ cảnh Thập điện Diêm vương đã chuyển sang màn vàng úa và rách nát tả tơi. Còn tượng Phật, chao ôi! cái thì xiêu vẹo, cái thì bị mọt ăn gần như sụp ngã, trên bàn thờ, trên bệ...
Tất cả sự đổ nát, sự vô trật tự của chốn nầy, phủ dưới một lớp bụi dày của thời gian, chìm trong một bầu không khi ẩm ướt và khó chịu, tố giác rõ ràng đây là một ngôi chùa bỏ hoaug.
Ấy thế mà tại sao giữa khung cảnh nầy lại có kẻ tu hành ăn vận sạch sẽ, gọn gàng, khuya sớm tụng kinh nương nhờ cửa Phật.
Giữa người và cảnh là cả một sự mâu thuẫn cách xa.
Sự mâu thuẫn ấy còn rõ rệt hơn khi Văn Khuê và Thế Hùng khởi đầu được sư ông tiếp kiến.
Xúng xính trong lớp áo cà sa rộng, một nhà sư trạc bốn mươi tuổi, từ trong phương trượng bước ra. Vóc người cao lớn, vạm vỡ nước da hơi ngăm ngăm đen sư ông từ diện mạo cho đến cử chỉ, không có chút vẻ gì là con người đã được thấm nhuần đức độ, bác ái từ bi cả.
Sự nghi kỵ tăng dần trong óc hai chàng tráng sĩ, Văn Khuê và Thế Hùng chưa kịp vái chào, thì hòa thượng đã cất giọng ồ ồ, Cố làm ra dáng niềm nở và ân cần mời mọc:
- A-di-đà Phật, bần tăng rất sung sướng được tỉếp nhị vị quý khách từ xa xôi có lòng chiếu cố đến cảnh chùa cũ kỹ nầy. Xin mời nhị vị vào thiền phòng tạm dùng một bữa cơm chay của nhà chùa khoản đãi,
Tuy ngờ vực, nhưng bụng đói của Thế Hùng và cơn khát của chàng lực sĩ không thể dửng dưng trước sự quyến rũ của một bữa cơm chay đang chờ đợi họ. cả hai liếc mắc dò hỏi ý kiến nhau và cùng khẽ gật đầu.
Đoạn quả quyết, họ bước theo nhà sư, tự nhủ thầm rằng họ sẽ cẩn thận đề phòng và sẽ liệu tùy cơ ứng biến.
Khác hẳn bên ngoài, căn phòng phía trong chùa trông sạch sẽ ngăn nắp hơn, dường như đã được những bàn tay chăm chỉ nào lau chùi dọn dẹp, thu vén khá kỹ lưỡng. Chính giữa phòng, một chiếc chiếu vuông đã trải sẵn. Chú tiểu khệ nệ bưng lên một mâm đồ chay có lẽ vừa hâm nóng xong, khói lên nghi ngút và đặt xuống chiếu.
Nhà sư cười hề hề, đắc ý và vẫn với giọng ồ ề:
- Mô Phật! Xin mời nhị vị quý khách ngồi vào chiếu tạm dùng chút cơm chay cho đỡ đói lòng.
- Xin đa tạ sư ông.
Hai tráng sĩ cùng đáp một lượt và cùng ngồi xuống. Như đã y hẹn từ trước, họ ngấm ngầm phân công để cho việc quan sát được dễ dàng và đắc lực. Lê Thế Hùng có phận sự xem xét kỹ từ chén cơm, các món ăn trước khi gắp và đem lên miệng, trong khi đó Bùi văn Khuê giữ nhiệm vụ liếc nhìn khắp quanh mình để dò xét và ngừa bất trắc.
- Xin nhị vị cứ tự tiện.
Nhà sư thốt ra mấy tiếng trên … rồi rút lui ra khỏi phòng, để lại chú tiểu, dựa lưng vào vách, khép nép đứng hầu và chờ sai bảo.
Thoạt đầu, hai họ Lê, Bùi đều hơi yên dạ. Họ ăn uống rất ngon lành.
Chàng lực sĩ vừa đưa chén nước lạnh lên miệng nửa chừng toan uống thì thốt nhiên chàng bổ nhoài sang một bên.
Trên mặt chén nước chàng vừa thoáng thấy bóng một lưỡi dao sáng chói vụt chém xuống đầu mình.
Đó là lưỡi dao chú tiểu đang tấn công chàng trong lúc xuất kỳ bất ý.
Theo đà lưỡi dao vừa chém hụt, chú tiểu ngã chúi về phía trước, chưa kịp đứng dậy thì đã bị Thế Hùng, lẹ như chớp, nhảy chờm sang và đè lên trên mình hắn. Một bàn tay của vị công tử kẹp chặt lấy tay cầm võ khí của địch thủ mà vặn ngược lại.
Chú tiểu đau quá, hét lên một tiếng thất thanh và buông rơi lưỡi dao.
Lúc bấy giờ, Văn Khuê vùng đứng phắt lên, vẻ mặt đầy nộ khí. Nhìn kẻ vừa ám sát hụt mình một cách bất ngờ, chàng lực sĩ không giấu nổi sự căm tức đang sôi sùng sục như lửa cháy. Chỉ suýt nữa, nếu chàng không lanh mắt, tánh mạng chàng đã không khỏi lâm nguy.
Hầm hầm, Văn Khuê thộp lấy đầu chú tiểu đang vùng vẫy một cách tuyệt vọng trong tay họ Lê. Cử động quá mạnh ấy không dè làm cho vành khăn bịt đầu của kẻ địch tụt xuống rơi lòng thòng và lạ thay! để lộ ra một cái sọ dừa đầy tóc đen láy của thường dân.
Dưới đôi mắt ngạc nhiên, chàng lực sĩ nhìn hắn chòng chọc và quát lớn:
- Quân khốn kiếp, té ra chúng bây dám giả mạo kẻ tu hành để giở thủ đoạn sát nhơn tàn ác. Tên sư ông trá hình vừa rồi hẳn cũng là một đồng lõa của mầy phải không? Hắn đâu rồi! Bảo hắn phải lập tức tới đây mà nạp mình nếu không anh em ta sẽ phá tan sào huyệt của chúng bay nghe chưa?
Không chờ cho chú tiểu giả hiệu kia trả lời, họ Bùi nóng nẩy nhảy xô về phía cửa phòng toan đi lùng bắt sư ông. Nhưng cánh cửa lúc ấy đã đóng chặt, cả giận, chàng lực sĩ định co chân đạp mạnh cửa vỡ toang thì thình lình, một chuỗi cười lanh lảnh ghê rợn nổi lên, khiến chàng ngừng lại.
Chuỗi cười nầy phát ra từ trên đầu bức tượng cao, ngăn cách căn phòng mà hai tráng sĩ đang đứng với một gian buồng kế cận Văn Khuê và Thế Hùng nhận được ngay giọng rất quen của nhà sư đã mời họ vào đây.
Sau chuỗi cười gay gắt ấy là những lời hăm dọa mà họ mới được nghe lần thứ nhứt:
- Hà hà! Hai tên phản nghịch đang bị triều đình truy nã kia ơi! Chúng bây đừng hòng thoát thân ra khỏi phòng nầy vô ích. Chúng bay đã lọt lưới của Bình an Vương rồi.
Ba tiếng Bình an Vương và sự phát giác trên đây khiến hai chàng tráng sĩ giựt mình. Thì ra quả đúng như lời dự đoán của vị công tử, ngôi chùa này chính là một cạm bẫy ghê gớm của Trịnh Tùng và Nguyễn hữu Liên.
Không ai bảo ai, hai họ Lê -Bùi đồng ngước mắt nhìn lên.Họ thấy rõ ràng khuôn mặt hiểm ác của nhà sư và nụ cười ranh mảnh thoáng qua trên môi thâm nhợt.
Giọng nói mai mỉa đều đều của kẻ giả mạo tu hành lại tiếp:
- Này hai tên cướp kia, sau khi mời chúng bay ăn uống no nê, bây giờ tao lại cho chúng bay xuống yên nghĩ dưới... hầm sâu cho khoẻ xác nhé!
Hắn vừa dứt lời, trong khi Thế Hùng và Văn Khuê chưa kịp phản động thu lại, thì hai chàng tráng sĩ bỗng cảm thấy, dưới chân mình, mặt đất chuyển động và sụp xuống. Chỉ trong khoảnh khắc cả hai bị ném xuống hầm.
Việc trên đây diễn ra rất nhanh khiến hai họ Lê - Bùi không đủ thì giờ để nhận định nguyên do tai nạn vừa xảy tới clio mình. Sự thật nơi họ đã đứng và nơi dùng cơm trong phòng nầy không phải là một nền đất như họ lầm tưởng mà chỉ là một tấm ván vuông không lồ phủ khéo léo dưới một lớp đất nên dễ lừa dối thiên hạ.
Tấm ván vuông ấy ăn thông với một cơ quan điều khiển đặt ở phía ngoài. Vì vậy nhà sư chỉ cần nhấn một cái nút nhỏ trên vách bên ngoài, tức thì tấm ván lật xuống một cách đột ngột, hất mạnh những người đứng trên đó xuống dưới hang sâu trước khi lộn trở về vị trí của nó, để lấp kín lại miệng hầm.
Sau cái té bất ngờ từ bảy, tám thước cao, Văn Khuê và Thế Hùng choáng váng đua nhau lồm cồm ngồi dậy.