← Quay lại trang sách

4. Nguyễn hữu Liên dâng mật kế (2)

Trong hầm tối om, họ phải đưa tay sờ soạn để tìm kiếm. Xúc giác cho họ biết, mặt đất ở đây ẩm ướt, lầy nhầy toàn những rêu xanh. Đồng thời, một mùi hôi tanh khó chịu bốc lên đến gần nghẹt thở. Như sực nhớ điều gì, vị công tử cất tiếng hỏi bạn:

- Đại ca có đem theo vật dẫn hỏa đấy chứ?

- Có sẵn đây - chàng lực sĩ đáp.

Nói xong, chàng rút trong mình ra một cây bùi nhùi mà chàng đã cẩn thận đem theo từ Phủ Diễn, và châm lửa đốt.

Ánh lửa loé lên, soi sáng tất cả cảnh ghê rợn của chốn ngục tù nầy. Đây là một cái hang, bốn bề khép chặt bằng những vách đá kiên cố, không hy vọng gì có thể phá vỡ để thoát được.

Nhưng, điều khiến cho họ Bùi lấy làm lạ hơn hết là thấy bạn vẫn kẹp cứng trong cánh tay chú tiểu đã bị chàng thộp óc lúc còn ở trên miệng hầm.

Như hiểu ý bạn, vị công tử nhẹ nhàng buông tay cho chú tiểu rơi xuống đất và bảo:

- Tên khốn nạn nầy may ra có thể giúp ích cho chúng ta, miễn là nó chưa chết.

Chú tiểu chưa chết thật. Nói cho đúng hơn, chú chỉ chết khiếp và suýt chết vì nghẹt hơi trong khi cổ chú bị khép chặt trong bàn tay của Thế Hùng như một gọng kềm. Nằm trên mặt đất, chú tiểu bắt đầu sẽ cựa quậy, từ từ mở mắt ra và sửng sốt nhìn quanh.

Thốt nhiên, hắn rú lên:

- Chết rồi! Rắn độc! Rắn độc sắp bò ra kìa kìa.

Tiếng hét kinh hoàng của chú tiểu khiến Bùi văn Khuê định tâm nhìn lại chỗ mình đứng: Xung quanh vách đá kiên cố đều phủ kín rêu xanh, nhưng phía dưới chân tường, đã nứt nẻ lộ hai khoảnh to như hai chiếc hang sầu thẳm, đen ngòm. Mắt chú tiểu láo liên nhìn về phía hang, kinh sợ.

Họ Bùi chụp tay Thế Hùng kéo ngược ra sau, lưng sát vào tường. Như hiểu ý bạn, vị công tử tay nắm chặt lấy chuôi gươm, sẵn sàng nghênh địch...

Dưới hầm sâu, mùi tanh hôi càng lúc càng nồng nặc. Chú tiểu mặt xanh lét, không còn chút máu, tay chân run bây bẩy, không bò dậy được. Hắn ú ớ gọi:

- Rắn độc... Mãnh xà Hoa... Kìa... Nó... bò ra kìa...

Có tiếng gì như tiếng ống bễ lò rèn, thổi phù phù, nghe thật rợn người. Từ trong một hang đá, một chiếc đầu rắn to lớn vọt ra, rồi cất cao lên khỏi đầu hai chàng dũng sĩ. Cả hai kinh hồn đứng sát vào nhau, hai tay kiếm đưa thẳng ra trước, phòng thân.

Chú tiểu đã ngất lịm đi vì sợ. Riêng Bùi văn Khuê và Thế Hùng đã từng xông pha nhiều trận, từng coi cái chết không ra gì, từng gặp bao nhiêu chuyện kinh tâm táng đởm mà còn thấy kinh hãi trước một con quái vật.

Mãnh xà không biết dài bao nhiêu thước, thân tròn to hơn chiếc khạp da bò lốm đốm điểm hoa láng nhầy, chói óng ánh dưới ánh lửa bập bùng của cây bùi nhùi...

Biết gặp phải một kẻ thù quái dị và vô cùng nguy hiểm, Bùi văn Khuê liền cẩn thận cắm chặt bùi nhùi cháy xuống đất để rảnh tay chống mãnh xà.

Trên kia, rắn độc như vừa ra khỏi cửa hang, chưa quan sát được mọi vật trong hầm. Nó vẫn thở phù phù, đầu lắc lư, đưa qua đưa lại, thân mình vẫn dính chặt trong hang, không đoán được còn bao dài nữa đến khúc đuôi.

Thế Hùng khẽ thúc vào hông bạn:

- Đại huynh phải đề phòng cẩn thận. Con mãnh xà linh nầy rất nguy hiểm.

Họ Bùi không chú ý đến lời bạn. Chàng đang nghĩ cách nên đối phó thế nào cho có hiệu quả, và đồng thời, chỉ trong giây phút, chàng cũng dự liệu tất cả nguy cơ có thể xảy ra.

Thế Hùng lại nghĩ khác, chàng quyết một trận thư hùng với rắn rồi có chết cũng cam tâm.

Chàng nhốm mình định phóng lên phía trước, nhưng họ Bùi đã nắm chặt tay bạn, ngăn lại:

- Hiền đệ đừng nóng lỡ việc, chúng ta không nên dùng sức.

Mãnh xà lúc ấy như bắt đầu thấy rõ những khách lạ trong hang, đúng hơn là những miếng mồi ngon của nó. Miệng nó càng phun hơi độc ghê sợ hơn và nhanh như chớp, chiếc đầu kinh tởm kia phóng mạnh về phía hai chàng.

Bùi văn Khuê và Thế Hùng, vội nhảy vẹt qua, mỗi người mỗi góc hầm. Đầu mãnh xà hụt mồi ngon, xắn vào vách đá đánh ‘‘độp’’ một.tiếng lớn. Bị đau, nó càng hung hãn hơn. Hơi độc từ trong miệng nó tuôn ra mỗi lúc càng nhiều, Thế Hùng cảm thấy choáng váng.

Trong tình thế khẩn cấp nầy hai chàng dũng sĩ cùng nghĩ là phải hành động gấp rút.

Họ Bùi chợt nhớ ra vật gì. Chàng lẹ làng đưa tay vào túi moi ra một cái ống sáo nhỏ, đưa lên môi. Một tiếng kêu lanh lảnh phát ra... Thế Hùng kinh dị vô cùng. Từ lâu, đặt hết tin tưởng vào tài trí của người bạn đã từng cứu chàng thoát chết, tin tưởng ở mỗi hành động của họ Bùi đều đưa đến một kết quả tốt đẹp, nhưng đến việc này thì thật quá điên rồ. Giữa lúc mãnh xà hoa phun hơi độc, tung hoành mãnh liệt để giết hại người, đã không chống trả bằng kiếm báu để tìm đường thoát thân, đằng này họ Bùi lại ngang nhiên trổi sáo…

Nhưng Thế Hùng xiết bao kinh dị. Chàng không ngờ, thực là kỳ lạ. Mãnh xà tự dưng bớt hung hăng và nó quay đầu về phía Bùi văn Khuê, đôi mắt lờ đờ...

Thế Hùng đứng ngẩn ngơ, mồm há hốc trước một trò chơi quái dị. Họ Bùi vẫn ung dung trổi khúc nhạc tiêu hồn: tiếng tiêu càng réo rắt bao nhiêu, mãnh xà càng đờ đẫn bấy nhiêu- Thế Hùng bỗng giật mình. Chàng thấy Bùi văn Khuê giậm chân tức tối, mắt nháy lia như ra dấu bảo chàng mau ra tay hành động.

Thế Hùng chợt hiểu, vội xách kiếm phóng mình tới chém ngang con mảnh xà. Một tiếng phụp rợn người, chiếc đầu rắn độc gục xuống, thân nó quằn quại, giẫy giụa kinh hồn, máu đen xẩm tanh hôi tuông xối xả. Họ Bùi ngưng tiếng sáo, xông vào bồi thêm vào đầu mãnh xà nhiều lát kiếm. Quái vật lần lần bớt giẫy giụa rồi chết hẳn.

Bùi văn Khuê và Thế Hùng đã bình tâm lại. Cả hai, cẩn thận không cho máu thấm vào mình vì không hiểu chất độc mạnh đến độ nào.

Thế Hùng bước đến lay gọi chú tiểu; hắn chết giấc nằm trong một góc hầm nên không chứng kiến được cảnh chiến đấu ghê rợn vừa qua. Vị công tử phải giựt tóc mai hắn mới tỉnh lại. Đằng kia Bùi văn Khuê đã mồi thêm một cây bùi nhùi khác, ánh sáng tỏ hơn. Chú tiểu đã tỉnh hẳn, ngơ ngác nhìn quanh, bỗng hắn rú lên một tiếng thất thanh:

- Mãnh xà... hoa!

Nhưng khi thấy rõ rắn độc đã bị giết, hắn mới hoàn hồn lồm cồm bò dậy, nhìn hai chàng dũng sĩ...

Bùi văn Khuê bước tới nắm cổ hắn:

- Muốn sống chỉ đường cho bọn ta thoát khỏi chốn nầy, bằng không ta sẽ lấy đầu mi như mãnh xà kia...

Chú tiên run bây bẫy:

— Trăm lạy ngài! Tội nghiệp! Đừng giết.đỀ tôi chỉ 16i ra. Ở đây có bai miệng hang ăn luồng ra bờ sông cầm, nhưng mỗi hang đều có một con mãnh xà ản ngữ...

Thế-Hùng chăm chú nhìn hai miệng hang. Con mãnh xà vừa chết nằm bít hễt một miệug hang không lồm sao qua được. Hang bên kia đen ngòm, ghê rợn. Theo lời chú tiểu, thì chắc chắn còn một con rắn độc nằm bên trong. Bùi văn Khuê lại nghĩ khác, chàng cho rằng: chú tiểu này định dọa hai người mắc kẹt nơi đây để chờ bọn đồng đảng tiếp cứu.

Họ Bùi quát lớn:

- Đừng láo! Hãy dẫn đường cho chúng ta đi. Chần chờ ta giết ngươi tức khắc...

Chú tiểu kinh hãi:

- Xin nhị vị đừng nóng giận. Thực tình dưới hầm nầy có đến hai con mãnh xà hoa hung tợn. Nếu ra bây giờ thật khó thoát chết.

Bùi văn Khuê càng nghi ngờ hơn; chàng nhứt định thoát bằng con đường hang rùng rợn đó, nên không nói thêm lời nào, đẩy cổ chú tiểu tiến lên trước, bắt buộc chui vào hang... Cây bùi nhùi vẫn cháy sáng trên tay họ Bùi, Thế Hùng xách kiếm đi sát vào bạn, để phòng bất trắc...

Đường hang khúc khuỷu, khá rộng, mùi tanh hôi nòng nặc như bên kia hầm, chứng tỏ nơi đây là chốn ra vào của loài quái vật. Thỉnh thoảng, hai chàng dũng sĩ lại bước nhắm trên những đống xương khô, trắng đục của bao người xấu số đã chết ở

đây....

Họ Bùi bỗng thấy buồn man mác và càng căm giận bè lũ gián điệp họ Trịnh, đã cố tâm thiết lập nơi nầy để hãm hại người lành. Sự tức giận làm tăng thêm sức mạnh của bàn tay đang đặt trên cổ chú tiểu khiến cho hắn phải la oái lên đau đớn... Thế Hùng kinh lạ nhìn bạn và chừng như hiểu được sự biến chuyển tình cảm trong lòng bạn khi bước qua những đống xương tàn.

Vị công tử lặng lẽ cái đầu. Đoàn người đi mỗi lúc mỗi mau nhưng không kém cẩn thận, vì từ đây ra đến bờ sông Cẩm là cả một đoạn đường dài.

Bỗng chú tiểu đứng hẳn lại la thất thanh:

- Mãnh xà kia kìa!

Bùi văn Khuê và Thế Hùng vừa kịp nhìn thấy một đống gì đen ngòm, Iởm đởm hoa, thì ‘‘ào’’ một tiếng như gió đập vào cửa, một chiếc đầu rắn kinh tởm phóng ngược về phía hai người.

Họ Bùi buông chú tiểu cùng Thế Hùng nhảy vọt ra sau. Mãnh xà mổ ngay vào mình chú tiểu, chú hét một tiếng đau đớn té nhào xuống đất... Như một cuộn dây to lớn, rắn độc luồn mình quấn chặt lấy kẻ bạc mạng. Chú tiểu quằn quại trong vòng dây rắn, cứ mỗi lúc càng siết mạnh hơn: Xương chân tay gẫy kêu răng rắc bắt lạnh mình. Máu miệng y trào ra, mắt trợn trừng. Rắn độc uốn khúc, đưa lần thây chú tiểu xuống phía đuôi và nó bắt đầu nghĩ đến hai miếng mồi còn lại...

Thế Hùng kinh hãi trước sức giết người kinh khủng của mãnh xà và chàng thấy mất tin tưởng vào ống sáo của Bùi văn Khuê.

Chàng thối lui ba bước giữ thế thủ khi con rắn phóng tới giữa lúc họ Bùi đưa ống sáo lên môi. Bản nhạc thần, huyền hoặc lại trổi theo cung bậc bổng trầm như thu hồn rắn độc.

Nhạc điệu của ống sáo có một sức mạnh lạ lùng. Mãnh xà như đờ đẫn đôi mắt hiền lành nhìn Bùi lực sĩ.

Thế Hùng, như một mũi tên, phóng tới, lia ngọn kiếm ngang đầu quái vật. Chiếc đầu kinh tởm lăn long lóc dưới đất, thân mình rắn quật quờ, máu đen sẫm tuôn tràn như dòng suối nhỏ.

Hai chàng tráng sĩ nhẹ nhàng vọt qua mình rắn và dẫn mình vào trong hang sâu. Cây bùi nhùi trên tay Bùi văn Khuê tắt ngầm, bóng tối lại phủ dầy. Hai ngươi đành phải dừng lại, đánh lửa đốt cây khác để soi đường.

Đường đi ngoắt ngoéo nhưng xa thẳm, không biết còn bao xa nữa mới đến bờ sông Cẩm. Nóng nảy vô cùng và muốn thoát khỏi đường hang nầy cho thật mau, nhưng hai dũng sĩ cũng đành phải chịu vì hang đá tối om, thiếu ánh lửa bùi nhùi, họ như kẻ mù đi đêm...

Họ đi âm thầm dưới hang sâu, qua nhiều dặm đường, Bùi văn Khuê phải thay không biết mấy lượt bùi nhùi, mỗi lần như vậy chàng lo lắng hơn lên. Đống bùi nhùi mang theo từ Phủ Diễn đã vơi đi nhiều và sắp hết. Không khéo phải mò mẫm trong bóng tối là một điều hết sức nguy hiểm.

Lê thế Hùng không hiểu rõ nỗi lo lắng của bạn, nhưng chàng không kém nôn nao để ra khỏi đây. trở lại ngôi chùa cổ hoang tàn, sửa trị bọn gián điệp của chúa Trịnh một phen cho bỏ ghét.

Họ Bùi bỗng reo lên một tiếng. Chàng dừng lại, dang tay hít lấy không khí. Mùi tanh hôi ghê tởm của hang Mãnh xà đã loãng mất, nhường chỗ cho không khí trong lành, mát dịu. Gió lành lạnh, xua đuổi hơi nóng bức của hang sâu.

Bùi văn Khuê gọi vang Thế Hùng

- Chúng ta đã thoát nguy rồi hiền đệ, gió lạnh báo hiệu đã gần đến ven sông Cẩm. Hai người sấn tới phía trước, mặc cho ánh lửa bùi nhùi tắt ngấm đi. Cũng may là đường hang đã bắt đầu ngay thẳng chứ không khúc khuỷ như trước nên chỉ trong một loáng hai người đã ra tới cửa hang.

Thế Hùng đứng dừng lại, hình như có gì lành lạnh dưới chân. Chàng kinh ngạc gọi Bùi văn Khuê:

- Đại huynh! Nước ở đâu tràn ngập thế nầy?

Họ Bùi để chân đến mặt nước, từ lúc nãy nhưng chưa vội nói. Chàng đang suy tính một phương kế thoát khỏi miệng hang vì nước sông Cẩm đã ngập mất lối ra.

Đây là một sự nguy hiểm không ngờ trước được, miệng hang ăn luồn xuống dòng sông, muốn ra chỉ có một cách là lặn xuống nước để trồi lên.

Thật là một chuyện may rủi, nếu từ đây ra miệng hầm còn chừng một trăm dặm thì sức người làm sao lặn tới! Bùi văn Khuê lo ngại vô cùng. Chàng quay sang nhìn bạn. Thế Hùng đang cặm cụi đánh đá đốt bùi nhùi. Ánh lửa rọi sáng hang sâu. Hai người cùng thấy rõ trước mặt một vùng nước lặng lờ, trên đầu đá chồm phủ bít bùng.

Thế Hùng kinh hãi:

- Chúng ta bị giam ở đây ư?

Bùi văn Khuê lặng lẽ gật đầu rồi ngồi xuốngi bên bạn.

Một lát sau, chàng đứng lên tuốt bỏ mọi thứ cần thiết, lột áo quần bên ngoài, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi rồi nhảy ùm xuống nước.

Thế Hùng gọi với theo:

- Kìa! Đại ca đi đâu đấy?

Từ dưới nước, Bùi văn Khuê trồi đầu lên nói vọng lại:

- Hiền đệ chờ đó để tôi dò thử đường ra.

Thế Hùng chỉ kịp thấy bọt nước tung tóe lên rồi họ Bùi mất dạng.

Chàng trở lại chỗ ngồi yên lặng.

Thời khắc qua mau, Bùi văn Khuê vẫn biệt tăm dưới nước. Thế Hùng bồn chồn lo ngại vô cùng: không biết họ Bùi đã gặp phải tai nạn gì? Chàng muốn lặn theo tìm bạn để giúp đỡ trong lúc nguy nan nhưng ngại họ Bùi quay về không gặp sẽ lo lắng cho mình nhiều hơn.

Bỗng có tiếng nước khuấy mạnh dưới kia, Thế Hùng vui mừng đứng lên đón bạn. Bùi văn Khuê vừa ra khỏi mặt nước liền nằm sải tay xuống thở dốc. Đây là lần đầu tiên Thế Hùng thấy bạn mệt mỏi như vậy.

Họ Bùi nói:

- Từ đây ra đến sông Cẩm, phải lặn gần một dặm đường. Hang đá hốc hiểm vô cùng... Tôi đã ráng hết sức mới lên được... mặt nước.

Nghỉ mệt một lúc, chàng tiếp:

- Trời trên kia đã hừng sáng, hiền đệ đủ sức lặn qua nổi hay không?

Thế Hùng hơi lo ngại. Chàng nhớ là còn phải đèo thêm tất cả đồ cần thiết, nhưng trong giờ phút nầy không còn cách nào khác hơn. Ở đây rồi cũng chết mòn mỏi mà thôi.

Chàng nói với bạn:

- Cứ liều đi đại ca. Đệ không quen lặn xa, nhưng chắc không đến nỗi nào.

Bùi văn Khuê đứng lên, dồn đồ vật vào bọc, cuộn lại cho chắc rồi nhảy tùm xuống nước. Thế Hùng vội vã nối gót theo bạn.

Trời khuya, nước lạnh như dao cắt ruột, hai người tay ôm bọc, nhoài mình lội đi một lúc, lấy hơi lặn sâu tận đáy hang. Họ lần qua những hốc hiểm lởm chởm đá nhọn, cẩn thận lắm mới khỏi trầy tay, xể mặt.

Hiểu rõ phần nào đường ra, Bùi văn Khuê lội phăng phăng, thỉnh thoảng ngừng lại chờ Thế Hùng đang theo sau, một cách mệt nhọc.

Hai người đi dưới đáy nước thật lâu mới đến cửa hang. Bùi văn Khuê nắm vai Thế Hùng chỉ thẳng lên, ra dấu bảo đã đến dòng sông Cẩm. Bây giờ chỉ cần vọt mình lên là trồi khỏi mặt nước.

Thế Hùng đã đuối sức lắm rồi. Bùi văn Khuê phải dìu bạn ra khỏi cửa hang lấy đà vọt lên. Hai người từ từ trồi khỏi mặt nước. Thế Hùng đã mất hết cảm giác, tứ chi rũ liệt, mắt lờ đờ như sắp lịm đi. Họ Bùi quăng hai bọc đồ vào vai, một tay đỡ lấy mình bạn, một tay đùa nước cố bơi vào bờ.

Sông Cẩm bình lặng trong buổi hừng đông. Gió lao xao qua những hàng cây rũ lá ven bờ, nghe như những tiếng thì thầm

Chỉ có tiếng chim ríu rít trên cành là còn gây được cảnh sống động của thiên nhiên. Bùi văn Khuê đã lôi bạn được vào bờ và đặt Thế Hùng nằm dài trên bãi có. Chàng tưởng chừng như chỉ có mình và bạn giữa cảnh trời rộng sông dài.

Qua những ngày chiến đấu không ngừng luôn luôn phải đương đầu với bọn trinh thám Trịnh Tùng, hết rơi giữa vòng vây trùng trùng điệp điệp quân binh lại bị chụp vào lưới rồi lọt xuống hầm sâu để chống chọi với mãnh xà quái dị, Bùi văn Khuê cũng thấy thấm mệt. Chàng nằm xuống cạnh Thế Hùng và thiếp đi lúc nào không biết.

Thế Hùng chợt tỉnh dậy và cảm thấy ê ẩm khắp thân mình. Chàng nhớ rõ đã cùng bạn trầm mình xuống đáy nước để thoát khỏi hang sâu, sao bây giờ lại nằm đây...? Thế Hùng ngồi nhổm dậy và khi thấy họ Bùi thiêm thiếp giấc nồng bên cạnh, chàng khẽ mỉm cười ; chàng chợt hiểu nhờ bạn cứu thoát một lần nữa giữa lúc ngất lịm đi dưới đáy sông. Vị công tử khẽ nhắc chiếc bọc kê vào đầu cho bạn làm gối và trong lúc tình cảm bộc phát đậm đà, Thế Hùng đã nghĩ rằng không bao giờ chàng làm phật lòng họ Bùi.

Nắng sáng đã trải trên ngọn cây, nội cỏ, xuống mặt sông phẳng lặng, phản chiếu một màu vàng ánh lên bầu trời xanh biếc... Có tiếng gì như tiếng vó ngựa dồn dập trên đường. Thế Hùng kinh hoảng vội lay gọi Bùi văn Khuê. Chàng lực sĩ tỉnh dậy ngay và chụp lấy thanh bảo kiếm, cả hai chạy biến vào bụi rậm cạnh con đường mòn dọc theo dòng sông Cẩm.

Từ xa, hai kỵ sĩ đang cúi mình trên lưng ngựa phi nhanh về phía hai chàng. Chú ý nhìn kỹ, đấy là hai nhà sư mặc áo chẽn màu đà, đầu chít khăn sụp xuống tận ót. Không nói không rằng, Bùi văn Khuê nhảy vọt lên một ngọn cây, cành lá um tùm rồi lần xuống những cành cây vươn ra giữa đường. Vừa kịp hiểu ý bạn, Thế Hùng vội liệng gói đồ vào bụi rậm và sẵn sàng tiếp ứng. Cả hai đều đoán chắc bọn sư hổ mang này cũng là bè lũ trinh thám của Trịnh Tùng.

Đôi ngựa chạy song song trên đường mòn khô trắng. Hai nhà sư không ngờ trước được những gì sắp xảy đến cho mình. Vó ngựa vẫn đều đều qua nơi mai phục của hai chàng tráng sĩ. Như một con diều hâu đớp lấy đàn gà từ trên cành cây cao ngất. Bùi văn Khuê lao mình xuống ôm chầm lấy hai nhà sư rồi lăn luôn xuống đất.

Bị chụp bất thình linh, hai nhà sư nhào lăn xuống đất, đôi ngựa kinh hoàng chồm dậy hí vang lên. Nhưng Thế Hùng đã xuẩt hiện, chụp lấy hai cương ngựa, lôi hai con vật đêm buộc vào trong bụi rậm.

Ngoài kia, họ Bùi đã lẹ làng phóng tới đánh vào cằm một nhà sư một thoi như trời giáng, khiến người ngất lịm đi. Nhưng người kia đã lồm cồm bỏ dậy, rút đoản đao hét vang như sấm:

- Giỏi cho tên cướp đường khốn nạn, mi không biết oai danh của những ‘‘hung thần’’ đây sao mà dám trêu chọc.

Bùi văn Khuê cả cười:

- Những ‘‘hung thần’’ hay những ‘‘con chó săn’’ của Trịnh Tùng. Ha! Ha! Thật là một lũ chuột mượn oai hùm.

Nhà sư giả hiệu nhảy vào huơi đoản đao chém tới. Họ Bùi né sang một bên rồi nhanh nhẹn đá thốc vào bụng gã. Không đỡ nổi miếng đá ác hiểm, tên gián điệp của chúa Trịnh lăn tròn mấy vòng rồi ngã ra bất tỉnh.

Thấy Bùi văn Khuê trừ được hai đối thủ, Lê thế Hùng vội vã dắt ngựa ra và hai người cùng lên yên theo con đường cũ trở lại chùa hoang, nơi sào huyệt của những nhà sư trá hình hiểm độc.

Cảnh vật ban ngày ở hai bên vệ đường càng điêu tàn thảm khóc. Nơi đây, ngày xưa có lẽ là những làng mạc sầm uất, bây giờ còn lại những mảnh vườn hoang, những thềm nhà đổ,những cột kèo cháy xám, hậu quả của họa lửa binh.

Hai vị tráng sĩ không còn thì giờ để nhìn cánh vật. Họ mải miết trên đường đi, mong cho mau đến nơi để trừng trị quân tàn ác đã dùng độc kế, suýt chút nữa làm vong mạng cả hai.

Đến lối rẽ quanh co mà đêm rồi họ đã đi qua, Bùi văn Khuê và Thế Hùng càng cẩn thận hơn. Vừa thoáng thấy nóc chùa hoang, cả hai đều xuống ngựa, đem giấu vào bụi rậm rồi lẳng lặng tiến vào chùa.

Qua những mương vườn khô cạn, hai tráng sĩ đến bên hàng rào tre và nhón gót phóng mình qua nhẹ nhàng như chiếc lá rơi.

Sân chùa vắng vẻ lạ lùng, chỉ nghe tiếng gió rít qua cánh cửa chùa loang lở... Chợt phía trong am tự vang lên một chuỗi cười ghê rợn: tiếng cười lanh lảnh làm cho họ Bùi nhớ đến giọng cười của nhà sư hiểm ác đêm qua đã dùng cơ quan bí mật đưa chàng và Thế Hùng xuống hầm sâu. Bùi văn Khuê cảm thấy tức giận vô cùng ; chàng ra dấu cho Thế Hùng cẩn thận rồi bò lần đến cửa chùa nhìn vào trong.

Gian trước vắng vẻ thê lương, những bàn thờ Phật không đèn nhang, hương khói, đổ nát ngang tàn. Từ gian phòng bên, tiếng cười sặc sụa vẫn vang lên từng chập.

Lại có tiếng la khóc thảm thiết của thiếu nữ. Thế Hùng khẽ thúc vào hông bạn:

- Làm gì có đàn bà giữa nơi hoang phế này?

Bùi văn Khuê lắc đầu không hiểu.

Giọng sư ông giả hiệu hôm qua lại lè nhè:

- Nào cô em hãy lại gần đây... Ta vừa làm xong việc của Bình an Vương giao phó, đưa lũ chúng xuống hầm sâu cho đôi mãnh xà phanh thây thì ta liền nghĩ ngay đến cô em... Chứ ai nửa đêm trường phải đuổi ngựa hằng mấy mươi dặm cho cực thân... Phải không nhị vị hiền đệ?

Bùi văn Khuê, qua khe cửa, khẽ liếc nhìn vào. Trên một sạp gỗ, lên gián điệp của chúa Trịnh đang cùng hai nhà sư trá hình khác chè chén say sưa bên cạnh một cô gái run sợ vì khiếp đảm. Bỗng hắn đặt mạnh chén rượu xuống sạp, rồi nhìn qua cửa sổ, mở ra con đường mòn mà hai tráng sĩ vừa mới đi vào. Bùi văn Khuê và Thế Hùng đều rút kiếm ra chuẩn bị nghinh chiến, cả mấy tên kia cũng lạ lùng về thái độ của bạn...

Nhà sư cất tiếng giận dữ:

- Thế là nghĩa lý gì? Hai thằng khốn nạn sai đi tí việc từ rạng đông đến bây giờ vẫn biệt dạng. Hừ! Lại la cà ở xó nào rồi; về đây rồi hắn biết tay ông...

Hắn chưa kịp nói thêm một lời nào nữa thì từ bên ngoài hai bóng đen đã phi mình đến bên sạp gỗ tiếp theo một chuỗi cười ghê rợn của họ Bùi:

- Hai ông đã về đến đây rồi. Nhà sư ạ! Hà hà...

Cả bọn kinh hoàng trước một việc quá sức đột ngột, nhất là tên gián điệp hiểm ác. Mặt gã tái mét lên vì giận cho cơ mưu bại lộ kế độc bị phá tan tành. Còn bọn kia quá sợ hãi, trố mắt nhìn, chúng tưởng chừng hai họ Bùi, Lê từ một thế giới xa xăm nào mới trở về. Nhưng tiếng hét của gã sư hổ mang làm cho chúng giật mình, chụp lấy vũ khí và vây đánh hai tráng sĩ Bùi, Lê.

Tên gián điệp cất tiếng lè nhè:

- Kìa... lũ oắt con, đã thoát nạn không tìm đường chạy trốn, lại trở lại đây nạp mạng nữa ư?

Thế Hùng không nói thêm một lời nào, hươi kiếm chém sả vào đầu hắn. Tên nầy đưa đoản đao lên. Sau một tiếng kẽng chát chúa, Bùi văn Khuê đã đoán được phần nào tài nghệ của nhà sư. Chàng quát bảo Thế-Hùng:

- Hiền đệ sang đây đùa giỡn với hai gã chó chết kia, còn tên này hãy để cho ta.

Họ Bùi muốn thanh toán gấp bọn trinh thám đội lốt nhà sư ở cảnh chùa hoang vắng này để ra đi cho kịp thì giờ vì chàng lo ngại hai tên trinh thám bị cướp ngựa lúc nẩy, khi tỉnh dậy sẽ cấp báo cho bè lũ Trịnh Tùng và Nguyễn hữu Liên kéo quân đến đây càng rắc rối hơn nữa...

Nhưng thấy bạn vẫn một mực muốn xử tội lên gián điệp, chàng cũng chiều lòng. Chàng áp đảo hai tên kia vô góc phòng và chỉ một loáng. Bùi văn Khuê đã đưa chúng về địa phủ. Đoạn chàng xây qua giúp Thế Hùng.

Nhà sư giả hiệu cũng thuộc vào hàng tinh thông kiếm pháp.

Hơn mười hiệp qua, hắn không nhường tài Thế Hùng. Họ Bùi chú ý thấy hắn tuy giao đấu với Thế Hùng nhưng cặp mắt hắn thỉnh thoảng nhìn lên trần nhà, chỗ một chiếc đèn treo ba ngọn. Chàng nghi ngờ có cơ quan bí mật nào đây vì thấy dường như hắn cố dụ Thế Hùng đến đó.

Vừa nghĩ ra một kế, họ Bùi muốn biết sự xét đoán của mình có đúng hay không, chàng hét to lên:

- Thế Hùng! Mau ra khỏi phòng!

Không rõ chuyện gì, nhưng nghe tiếng la của Bùi văn Khuê, Lê công tử liền bỏ vòng chiến nhãy vọt ra ngoài. Trong kia họ Bùi phi mình lên chém đứt sợi dây treo ngọn đèn rồi nép sát vào tường. Một chuyện hết sức đột ngột xảy ra: từ trên sà nhà một tấm lưới vụt rơi xuống chụp ngay nhà sư giả hiệu quấn chặt lại. Hắn ta hét vang trời, cố sức vùng vẫy và dùng đoản đao rọc lấy tấm lưới.

Họ Bùi cười khanh khách nhảy tới dùng thế cướp lấy đoản đao và lanh như cắt chụp lấy sợi dây treo đèn lúc nẩy, chàng buộc vào tấm lưới, rút tên gián điệp hiểm ác treo lên sà nhà. Hắn hầm hừ la hét, nguyền rủa hai chàng thậm tệ...

Thiếu nữ lúc nãy, quỳ lạy kêu van:

- Xin nhị vị tráng sĩ cứu giùm cho. Nguyên thiếp ở với cha mẹ buôn bán tại huyện bên cạnh, nửa đêm hôm qua bị tên ‘‘hổ mang’’ nầy đến bắt cóc đem về đây...

Họ Bùi nhìn thiếu nữ, thương hại:

- Thôi được, từ giờ phút này cô đã được giải thoát rồi. Cô hãy mau chân rời khỏi nơi đây mà trở về nhà.

- Dạ dạ! cảm đội ơn tráng sĩ... Thiếu nữ lạy tạ, rồi thoát chạy đi một nước.

Bị Ireo lơ lửng trên sà nhà, tên gián điệp gầm thét vang ầm, nguyền rủa chán rồi xoay qua hâm dọa... Bùi văn Khuê không thèm đáp, băng mình ra vườn, ôm củi chất quanh chùa. Thế Hùng hiểu ý nên vội vã tiếp tay cùng bạn. Họ muốn thiêu luôn cảnh chùa hoang tàn này để cho bọn trinh thám của Bình an Vương không còn dùng làm sào huyệt hãm hại người lành được nữa...

Họ Bùi đánh đá đốt vài cây bùi nhùi rồi phóng hỏa đốt chùa. Lửa hồng mạnh ngọn gặp gió thổi lồng lộng chẳng mấy lúc bốc lên cao.

Tên gián điệp hiểm ác giẫy giụa trong đống lửa cháy ngất trời. Hắn đã tự tạo những cơ quan hiểm độc ám hại mọi người thì phải chết vì những sáng kiến mới lạ của hắn. Đó mới đúng với luật quả báo.

Hai tráng sĩ Bùi, Lê vội vàng từ bỏ cảnh chùa, lên ngựa ra roi nhắm hướng Thăng Long trực chỉ...

Đi một đoạn đường dài, quay lại hai người còn thấy ngọn lửa cháy đỏ trời, tiêu diệt một sào huyệt ghê tởm của bè lũ trinh thám Trịnh Tùng, đã từng dùng làm nơi sát hại bao nhiêu công thần của nhà Lê. từ bao lâu nay. Nghĩ đến đây, Lê thế Hùng buồn bã nhìn xuống đất. Chàng nhớ đến cha mình là Thái Quận Công Lê cập Đệ và cậu là Ngự sử Đặng Phương cũng vì trung với vua Lê mà bị bọn gian thần giết hại. Bây giờ cùng bạn lên đường sang Thăng Long, nơi xưng hùng của Chúa Mạc, không biết cuộc đời xoay hướng thế nào? Rồi đây sẽ ra sao? Có còn ngày trở về trả thù họ Trịnh được hay chăng? Trên yên ngựa, giữa đường trường vạn lý, Thế Hùng vẫn miên man với bao nhiêu câu hỏi thầm trong cân não.

Qua những giải đồng không mông quạnh, những làng mạc xơ xác, điêu tàn vì binh lửa đã đi qua, hai tráng sĩ Bùi, Lê đến Thăng Long, đất nhà Mạc, vào một buổi bình mình tươi đẹp.

Thành phố tưng bừng như ngày hội, dân chúng tấp nập như kiến cỏ. Họ hì hục đào cuốc suốt mấy dặm bao quanh cổ thành...

Hàng vạn con người, cuổc xuổng trong tay, móc đất đắp thành lũy. Họ hát ca vang dậy cả một góc trời.

Bùi văn Khuê bảo nhỏ với Thế Hùng:

- Hiền đệ thấy không? Mạc mậu Hiệp quyết phòng thủ Thăng Long đến cùng, đã ra lịnh cho dân chúng đào ba lần hào, đắp ba từng lũy, quân Trịnh Tùng có thiện chiến đến đâu cũng khó mà phá được thành.

Thế Hùng cất tiếng lo ngại:

- Đệ không tin tưởng như đại huynh, họ Mạc có đắp thêm mười từng lũy, đào mười lần hào cũng khó thắng họ Trịnh. Đệ chắc chắn như vậy.

Họ Bùi kinh lạ nhìn bạn:

- Hiền đệ nói như vậy là ý gì?

Thế Hùng chậm rãi đáp:

- Họ Trịnh dùng trí còn họ Mạc dùng sức người thì làm thế nào thắng được. Đại huynh nhớ rõ, từ khi chúng ta qua khỏi Sơn Nam và vào đến Thăng long, có một ai đến tra xét hay cật vấn chúng mình không? Một kinh đô đang chuẩn bị chiến tranh mà thả lỏng cửa thành làm sao thắng được. Hơn nữa Trịnh Tùng còn cả một đội trinh thám vô cùng lợi hại dưới tay. Không biết chừng đâu chúng đã tổ chức những cơ quan bí mật cùng khắp Thăng Long rồi cũng nên... Họ Mạc lo đào hào đắp lũy chỉ là phí công vô ích...

Bùi văn Khuê cho lời bạn là đúng. Thật ra chính chàng cũng chưa nghĩ đến việc đó. Vừa nói chuyện hai người đã vừa tiến vào nội thành lúc nào không hay. Thành Thăng Long đẹp đẽ, đường sá ngay thẳng, rộng thênh thang, hàng phố chưng bày đẹp mắt.

Bụng đã thấy đói, họ Bùi liền rủ bạn vào một tửu quán có lầu để dễ bề quan sát thành phố. Họ đi thẳng lên lầu tìm một nơi gần cửa sổ trông thẳng xuống đường. Một tên hầu bàn bước tới cúi chào thật lễ phép. Sau khi kêu thức ăn, họ Bùi bèn hỏi hắn:

- Kinh thành hôm nào cũng rộn rịp như vậy?

- Dạ thưa không! Chỉ mới tháng trước trở lại đây, Chúa kêu gọi xây lại cổ thành Đại La để phòng quân Trịnh, mới có vẻ tấp nập thế này. Nhị vị tráng sĩ từ xa mới đến đây ư?

Bùi văn Khuê nghiêm trang đáp:

- Vâng! Chúng tôi từ Sơn Nam tới.

- Nếu vậy thì may mắn vô cùng. Nhị vị còn ở chơi lâu chứ? Ồ, thành phố về đêm còn vui vẻ hơn nhiều. Để hai vị dạo thử Thăng Long một đêm cho biết sự náo nhiệt khác thường.

Tánh tình vui vẻ khôn ngoan của tên hầu bàn làm cho hai họ Bùi, Lê vui thích, nhưng Bùi văn Khuê không khỏi ngờ vực trong lòng vì cặp mắt láo liên của hắn trông không có vẻ thật tình. Nhưng chàng cũng cho rằng đấy có lẽ sự xảo quyệt của kẻ buôn bán mà thôi.

Bỗng từ dưới kia đường có tiếng xôn xao, tiếng người la vang, và các cửa tiệm đua nhau đóng cửa rầm rầm. Kinh ngạc, Bùi văn Khuê cùng Thế Hùng đến bên cửa sổ nhìn xuống. Đường phố thoảng chốc trở thành hỗn loạn, người ta chạy ùn ùn đổ ra phía ngoài thành.

Không lý giặc từ trong cung, điện đánh ngược trở ra? Mà quân sĩ đâu không thầy ứng phó? Tiếng kêu khóc của đàn bà, trẻ con chạy đạp lên nhau nghe thảm thiết...

Một lúc sau, đường phố vắng tanh như ngày loạn lạc. Không ai dám hé cửa ra đường. Tên hầu bàn lúc nãy trở lên bảo Bùi văn Khuê và Thế Hùng:

- Nhị vị tráng sĩ an lòng! Không có chi đáng ngại, con Thiên linh Hổ của nha Chúa xổng chuồng chạy ra phố, nên dân chúng hãi hùng đến thế.

Bùi văn Khuê lấy làm lạ:

- Một con hổ dữ xổng chuồng mà tướng sĩ của chúa Mạc không trừ khử được ư? Phải để cho dân chúng kinh hoàng như vậy sao?

Tên hầu bàn khẽ đáp:

- Tráng sĩ đừng lấy làm lạ, ‘‘Thiên linh hổ’’ là một con vật quí nhất của chúa Mạc. Nó xổng chuồng thì tìm cách bắt sống nó lại chứ không được dùng vũ khí. Nó mà mệnh hệ nào thì kẻ trừ khử được nó cũng khó toàn tánh mạng.

Bùi văn Khuê hơi tức trong lòng, chàng hỏi gằn lại:

- Như vậy, chúa Mạc để mặc tình cho con hổ ấy giết hại dân lành ư?

Tên hầu bàn khẽ gật đầu:

- Mỗi lần hổ xổng ra, ít nhất cũng đến mười mạng người làm mồi cho nó.

Bùi văn Khuê nghiến răng đứng dậy:

- Không thể được! Ta phải can thiệp để hạ con cọp dữ ấy!

Chàng chưa dứt lời, từ dưới kia đường phố vang lên một tiếng gằm long trời chuyển đất.

Bùi văn Khuê và Thế Hùng bước tới bên cửa sổ. Dưới kia một cảnh tượng kỳ di hiện ra trước mắt: một con hổ Mun, sắc đen huyền to lớn, bằng một con bò mộng, đuôi dài phết đất, đang hầm hừ nhe nanh dọa một tốp lính tuần lấp ló xa xa.

Họ Bùi đoán chắc đó là con ‘‘Thiên Linh Hổ’’ của chúa Mạc mậu Hiệp. Chúa sơn lâm bước chậm rãi trên đường như người đi dạo phố, chỉ thỉnh thoảng quay lại nhe nanh dọa nạt bọn lính tuần theo sát không buông...

Bùi văn Khuê từ trên lầu cao nhẹ nhàng phóng mình xuống đất giữa sự kinh ngạc của mọi người. Bọn lính tuần hét vang lên:

- Tên kia! Chạy mau, bộ ngươi muốn tự tử ư?

Viên tướng chỉ huy cuộc rượt bắt ‘‘hổ’’ vội rẽ đám lính sang bên để nhìn rõ họ Bùi... Hắn e ngại Bùi văn Khuê dùng đến vũ khí mà ‘‘Thiên linh hổ’’ có chết đi hắn sẽ bị tội lây...

Thế Hùng thấy bạn nhảy xuống, sợ bạn gặp nguy cũng vội vàng phóng mình theo. Chân chàng vừa chấm đất thì đã nghe tiếng họ Bùi quát to:

- Hiền đệ lui ra, có sá gì con hổ đói nầy mà hiền đệ bận tâm cho nhọc xác.

Thế Hùng không biết làm sao đành phải nép mình vào mái phố chờ đợi lúc nguy ngập sẽ vào tiếp tay với bạn.

Bao nhiêu cặp mắt hướng về phía con hổ và họ Bùi. Bao nhiêu trái tim đều hồi hộp lo âu. Từ trên lầu các phố đã thấy đông nghẹt những người chen chúc nơi cửa sổ ra hành lang hoặc leo tận trên nóc lầu để nhìn cuộc tranh hùng kỳ dị giữa người và ác thú.

Hổ đã dừng hẳn lại, tức giận nhìn kẻ điên rồ đang đứng cản đường. Cặp mắt long lanh sáng quắc của nó chiếu thẳng vào miếng mồi ngon tự dưng mang đến nạp.

Bùi văn Khuê thản nhiên nhìn thẳng vào mắt nó. Chàng đang nghĩ đến những thế võ có thể khuất phục Thiên linh Hổ dễ dàng. Hổ kia ý chừng có linh cảm là kẻ địch của mình không phải tay vừa, nên thay vì phóng tới để kết liễu cuộc đời họ Bùi, nó lại thối lui nhiều bước rồi thu mình ngồi xuống,

Bùi văn Khuê cũng ngạc nhiên không ít. Chàng chưa hiểu hổ kia định dở trò gì? Nó không tấn công chắc đang bày ra thế thủ hiểm độc chứ cặp mắt chàng không đủ sức khuất phục nó mau mắn như vậy. Chàng từ từ bước lên chầm chậm. Bất ngờ, hổ vọt ra phía trước, hai chân chụp lên đầu chàng. Lẹ làng, họ Bùi hét lên một tiếng, thụp mình xuống cho qua lần hổ chụp rồi đánh thẳng một quyền vào hông hổ. Sau một tiếng ‘‘phịch’’ nặng nề, hổ lật ngang mình rơi xuống vệ đường.

Bị đau, con vật gầm thét dữ dội. Đôi mắt giết người của nó đỏ ngầu. Nó vẫy đuôi, rồi xông thẳng vào mình Bùi văn Khuê chụp lấy chụp để.

Trước sự hung hăng của hổ, Bùi văn Khuê càng trổ tài né tránh. Chàng cố sức vờn nhau với hổ càng lâu càng hay để cho nó mệt nhừ mới dễ dàng ra tay bắt sống.

Bọn lính tuần và dân chúng đã phục tài chàng tráng sĩ lạ mặt. Họ đã bớt lo cho tính mạng của chàng nhưng cũng không khỏi hồi hộp. Mỗi lần thú dữ tấn công. Họ kinh ngạt vô cùng và không hiểu Bùi văn Khuê đã dùng những thế võ nào để thoát hiểm dễ dàng.

Viên tướng chỉ huy cuộc đuổi bắt Thiên linh Hổ rất vui mừng vì có người trị được hổ nhưng không khỏi lo ngại như hổ. Không khéo chàng tráng sĩ kia lỡ tay, Thiên linh Hổ vong mạng càng nguy khốn hơn.

Hắn e dè cất tiếng bảo họ Bùi:

- Tráng sĩ! Nhẹ tay với kẻo giết chết Thiên linh Hổ thì tai họa vào mình đấy.

Dân chúng đứng xem cười ầm lên trước một việc quá trớ trêu: không sợ người bị hổ giết mà đi lo người giết hổ. Nhưng khi nhớ đến lịnh truyền của Chúa Mạc, ai cũng lo giùm họ Bùi.

Chàng tráng sĩ vẫn quần thảo với hổ từ hiệp nầy sang hiệp khác. Chàng không cố ý tấn công để giết hổ nhưng chàng thấy mình khó tránh lâu được vì hổ kia quá dũng mãnh. Nó cứ chụp thẳng vào mình họ Bùi từng đợt một, không thấy sút sức đi một chút nào.