Chương III Vượt núi băng rừng
Tay chân như máy điện tử ăn khớp với nhau, Văn Bình đạp bàn thắng và xuống số. Khối đen lù lù trước mặt là vách núi bên đường bị sạt. Nạn đá lở xảy ra như cơm bữa trên chặng đường Phun-sô-linh. Nhiều khi trục lộ lưu thông duy nhất giữa Ấn độ và Bhu-tan này bị ngưng đóng cả tuần sau một cơn mưa bão. Mà mưa bão ở đây là hiện tượng cơm bữa…
Mũi xe đâm sầm vào đống đá. Chiếc díp rùng mình, chuyển động châu thân như lên kinh phong rồi khựng lại. Cảng xe gẫy làm đôi, ở vị trí của nó chỉ còn lại những đinh ốc lớn bằng ngón tay. Loại cảng này được chế tạo bằng thép cứng. Tuy vậy xe bị thun rúm như cây đàn phong cầm. Nếu là xe du lịch khác chắc chắn chiếc díp đã biến thành khúc giò, mọi người chẹt cứng bên trong.
Kiếng chắn gió gồm nhiều lớp dán chặt lên nhau nên chỉ rạn nứt chứ không vỡ nát. Hú vía, con ngựa sắt tốp lại kịp thời, không ai bị thương. Ngoại trừ thái tử Bô-kha bạch diện thư sinh sưng vù một góc trán.
Hai ngọn đèn pha sáng quắc tan thành miểng vụn. Quang cảnh đang hiện rõ mồn một bỗng chìm lút trong khoảng tối kinh hoàng. Miệng lẩm bẩm « khổ quá, khổ quá », Mahan nhảy xuống đường. Văn Bình lục hộc xe lấy đèn bấm. Đống đá cao hơn 2 mét. Giá là đá dăm thì công việc khai thông không mất bao lâu. Đằng này nó là đá tảng. Cả một triền núi đổ xuống. Tảng nào tảng nấy lớn bằng chiếc díp, nghĩa là nặng từ một tấn trở lên.
Ngay trong liếc mắt đầu tiên, Văn Bình biết là vô vọng. Những phiến đá khổng lồ ấy chỉ có thể được dẹp quang bằng xe cần câu. Mai sớm may ra mới có quân xa chạy tới chỗ đá lở. Thủ tục hành chính ở Bhu-tan rất …rùa. Nếu vận hên nào đó họ hành động nhậm lẹ thì …tránh vỏ dưa chưa thoát lại gặp vỏ dừa. Người ta sẽ hỏi lý do, hỏi giấy tờ. Người ta sẽ chở cả nhóm về thủ đô Thim-bu điều tra ngành ngọn. Đó là chưa kể tới trường hợp phe địch có thể tung nhân viên rượt bắt.
Ánh đèn bấm chiếu lướt đống đá và gương mặt nhợt nhạt của Mahan. Hắn nói như khóc:
-Chúng mình bị kẹt. Thế là hết.
Văn Bình an ủi bằng một lý luận yếu ớt:
-Còn nước, còn tát, lo gì.
Tuyết Lê lăng xăng lấy dầu nóng thoa bóp vết bầm trên trán lớn bằng trái ổi của Bô-kha. Ông ngồi xếp bằng trên vệ đường, hai tay chắp trước ngực, miệng lâm râm cầu kinh. Hồi gặp ông ở trường mù Tây Đức và trại binh Bắc Cực, Văn Bình thấy mặt ông sáng ngời. Giờ đây, dưới ánh chớp xẹt qua, dung mạo ông lại đượm vẻ đần độn. Đàn ông dẫu là bậc quân vương uy nghi hay là thượng tướng đánh đông dẹp bắc lẫy lừng, hễ bị đàn bà xỏ mũi đều trở nên dần độn. Phải chăng Bô-kha trở nên đần độn vì Zo-lim?
Zo-lim, em gái cùng cha khác mẹ của tướng Khẩu Cầm, là người giữ vai trò khá quan trọng trong điệp vụ Hoa Sen. Nàng luôn luôn cặp kè Bô-kha, mê hoặc và kiểm soát. Văn Bình chưa được gặp nàng. Nàng đẹp hay xấu? Hẳn nàng rất đẹp, thái tử Bô-kha mới bị lôi cuốn để quên hết thực tại phũ phàng trong nước.
Zo-lim hiện ở đâu? Nàng đang làm những gì để giành giật thái tử Bô-kha?
-Chết rồi, anh Z.28. Thế là hết.
Mahan thích dùng từ ngữ đao to búa lớn. Hắn chê cô cháu gái Tuyết Lê ba hoa chích chòe, kỳ thật hắn thường phát ngôn loạn xạ. Sở dĩ Mahan kêu « chết rồi » bằng một giọng thê thảm vì trên quãng đường từ Hang Cọp đến vừa lóe ánh đèn pha.
Ánh đèn pha cực mạnh xuyên thủng màn mưa mù khó thể là xe hơi tư nhân. Nó là quân xa hoặc xe tuần tiễu cảnh sát. Hoặc xe rượt đuổi của địch.
Văn Bình rợn người. Đứng bên, giám đốc trú sứ của ông Hoàng tại Ấn độ, Mahan tiếp tục lâm râm như người mất trí:
-Anh Z.28 ơi, thế là hết. Chúng mình hết thời. Hết hy vọng đến nơi hẹn với phi cơ của đại tá Phờrôn…
*****
Trú sứ CIA tại Tân đề-li, thủ phủ Ấn độ, do đại tá Phờrôn, tức chủ tiệm buôn đồ cổ Ađam tọa lạc ở quảng trường Con-nốt (Connaught Place), ngay giữa chốn nhĩ mục quan chiêm không ai ngờ tới.
Quảng trường Con-nốt là trung tâm của Tân đề-li, tất cả những con đường lớn từ đó tỏa ra. Tất cả các cửa hàng dành cho du khách chen vai thích cánh nhau ở đó. Du khách đến Con-nốt để ngắm nghía không thể không biết rạp chiếu bóng sang trọng Rivôli.
Tiệm đồ cổ của đại tá Phờrôn nằm gần rạp xi-nê này, diện tích không đến nỗi hẹp mặc dầu một mét vuông ở đây đắt như hạt soàn. Mặt tiền được thiết trí đơn sơ, cửa kiếng kín mít, che riềm màu lục. Ngay trên cửa có tấm bảng đồng nhỏ « Ađam, đồ cổ ». Tiệm Ađam không chưng bày bán lẻ, chỉ cung cấp theo còm-măng. Các nhà tỉ phú dư dật quá nhiều đô la không biết làm gì cho hết, Ađam giúp họ mua đồ cổ giá trị. Tiệm Ađam có bao nhiêu khách hàng, thượng vụ lời hay lỗ, điều này chỉ có đại tá Phờrôn và trung ương CIA rõ.
Văn phòng tiếp tân kiêm thư ký được đặt sau cửa. Ngôi nhà –đúng ra, nó là tầng trệt của một bin đinh- được điều hòa khí hậu mát rợi, cô thư ký lại chẳng mát rợi tí nào. Tiệm đồ cổ có khác, người cũng phải mang tính chất xưa cũ. Cô thư ký có tấm thân dài ngoằng, đáng làm đồng chí của ông chủ gày đét như cá mắm Phờrôn. Ông chủ trạc ngũ tuần, cô thư ký chưa đến tuổi gần đất xa trời song khuôn mặt, cách nhìn, và lối nói chuyện lại già hơn bà…chằng mấy bậc.
Có lẽ đây là dụng ý của Phờrôn. Ông thuê nữ thư ký già hãm tài để phòng hờ những ông khách nịnh đầm. Cũng để dễ bề hoạt động.
Cô thứ ký …già ăn lương CIA. Cũng như những người tự nhận là mại bản, phụ tá chuyên viên đồ cổ có mặt gần như thường trực trong phòng kín đáo giữa ngôi nhà. Phòng này do Phờrôn đích thân trông coi xây cất, tường cũ bị phá đổ, bê-tông cốt sắt đúc dầy 30 phân tây, khá đủ để chịu đựng trái siêu bom nổ trên mái. Tường được tô xi-măng trộn một hợp chất đặc biệt có đặc tính ngăn tiếng động. Trên xi-măng là lớp ni-lông hãm thanh. Căn phòng được trổ một cửa nhỏ xíu duy nhất. Đóng lại, bên trong làm ồn ào đến mấy bên ngoài cũng không nghe tiếng.
Căn phòng này được trang bị dụng cụ viễn thông tối tân có một không hai ở Viễn Đông. Ban Hành động Hải ngoại CIA có 5 căn phòng tương tự trên 5 đại châu. Những trung tâm liên lạc bí mật khác thuộc quyền CIA hải ngoại chỉ gồm máy móc thông thường.
Tuy là dụng cụ điện tử viễn thông tối tân, kỳ thật tất cả chỉ nhét đầy một va-li. Nào là máy dịch điện với tốc độ chớp nhoáng. Nào là điện đài thu phát 2 chiều qua hệ thống scrambler chống nghe trộm. Nào là máy liên lạc bằng làn sóng lên thẳng với vệ tinh bay vòng trái đất. Nào là điện thoại siêu tần số đặc biệt, có thể gọi ông Sì-mít, tổng giám đốc CIA trong vòng 15 giây đồng hồ…
Những bộ máy này thường choán một diện tích rộng ba, bốn mét vuông, cân nặng cả tấn. Chúng thường đòi hỏi một số nhân viên đông đảo. Tại căn phòng của đại tá Phờrôn, chúng lại được xếp gọn trên mặt bàn. Chúng chỉ cân nặng vỏn vẹn 40 kí. Chuyên viên cơ khí điệp báo CIA chế tạo được những bộ máy này nhờ kho kinh nghiệm quý báu thu lượm, đúc kết sau nhiều chuyến bay của phi thuyền Apollo lên nguyệt cầu.
Đại tá Phờrôn đang dán mắt vào những mẩu giấy vừa giứt khỏi máy dịch mật điện. Bức điện của Mahan và Văn Bình ở Bhu-tan chứa đựng nội dung như sau:
« Chúng tôi đã mang Bô-kha khỏi Hang Cọp. Hiện chúng tôi đang trên đường từ Hang Cọp về Phun-sô-linh bằng xe díp, chiếc díp từng chở chúng tôi vượt biên giới vào Bhu-tan hồi tối. Đường quá xấu, thời tiết cũng quá xấu khó thể ước định chỗ hẹn chính xác. Xe chúng tôi được trang bị dụng cụ phát tín hiệu, tần số R-3, quý phi cơ có thể tìm ra chúng tôi dọc lộ trình. Dầu sao, chúng tôi cũng không vượt qua làng Chimakôti. Trong trường hợp quý phi cơ đến chậm, chúng tôi sẽ dừng xe trước khi đến Chimakôti 15 cây số. Đề nghị xử dụng loại phi cơ nhẹ, chở 4 hành khách, chưa kể phi hành đoàn, có khả năng lên xuống như trực thăng, có đèn pha cực mạnh để xuyên thấu sa mù… »
Đại tá Phờrôn tợp một ngụm cà phê đen đặc. Từ lúc về đến Tân đề-li, ông chúi mũi vào giấy tờ và máy móc truyền tin, không có phút nào rảnh rỗi thay đồ, rửa mặt, đánh răng, nghĩa làm những việc vệ sinh tối thiểu của người văn minh. Ông chỉ có đủ thời giờ vớ hũ cà phê tinh bột, đổ bừa vào ly, mang ra vòi nước rồi cho muỗng khuấy.
Ông đã thực hiện đúng lời yêu cầu của Văn Bình. Từ một căn cứ bí mật nào đó, một chiếc phi cơ nhẹ chắc vừa cất cánh. Vì yếu tố phân ngăn an ninh, ông không được kiêm nhiệm các hoạt động vận tải. Mỗi đại châu hoặc mỗi vùng rộng lớn như Nam Á, Cận Đông, Nam Mỹ… được Trung ương CIA bố trí một căn cứ kín đáo, gọi là căn cứ vận tải được ngụy trang thành nông trại, đồn điền tọa lạc ở xa thị tứ dân cư đông đúc. Để che mắt chính quyền sở tại, chủ nhân nông trại, đồn điền luôn luôn là công dân địa phương. Tùy mực độ quan trọng của công việc, mỗi căn cứ có một số phương tiện chuyên chở. Nhiệm vụ của căn cứ là cung cấp phương tiện chuyên chở cho điệp viên trên lãnh thổ địch.
Phờrôn chuyển đề nghị của Văn Bình cho căn cứ vận tải, qua trung gian Trung ương CIA. Việc liên lạc từ đầu này đến đầu kia của trái đất trước khi lộn lại, trên một chặng xa mấy chục ngàn cây số được hoàn tất trong vòng mươi phút đồng hồ. Trung ương cho biết kế hoạch gửi phi cơ đến Bhu-tan đã được tiến hành.
Tiến hành ra sao, Phờrôn mít đặc.
Với tư cách giám đốc trú sứ, có nhiều bạn bè giữ chức vụ chỉ huy, ông chỉ biết lờ mờ căn cứ vận tải CIA gần Bhu-tan nhất và có điều kiện tiếp cứu nhanh chóng nhất, tọa lạc trong một khu rừng hoang vu ở Át sam, mật danh là Căn cứ Vận tải 906. Dường như trước kia nó là đồn điền trà. Trong thế chiến hai, nó bị oanh tạc lầm biến thành bình địa. Gia đình chủ nhân và đa số nhân công bị chết vùi dưới đống gạch vụn. Thời gian trôi qua, cỏ dại mọc đầy, nơi có đồn điền um tùm như rừng. CIA bèn chở bộ phận tháo rời đến, cần cù ráp thành phi cơ. Thế rồi căn cứ 906 ra đời. Nhờ căn cứ 906, điệp viên CIA ra vào Tây tạng như đi chợ. Quốc tế Tình báo Sở lao tâm khổ trí mầy mò suốt nhiều năm chưa khám phá ra. Sợ bại lộ, căn cứ 906 được cho nằm ngủ. Điệp vụ Hoa Sen mang một tầm mức đặc biệt nên chắc chắn căn cứ 906 phải tạm thời ra khỏi giấc ngủ.
Phờrôn giứt một tờ giấy khác trên máy dịch: đây là bản báo cáo sơ kết tình hình Kát-man-đu. Đọc xong, ông buột miệng:
-Chết cha!
Ông tự cảm thấy xấu hổ vì sự thô lỗ gần như tục tĩu của mình. Thường ngày, ông rất lịch sự. Ngay cả trong cơn giận dữ, lời tiếng của ông vẫn giữ được sự khiêm cung mềm mỏng. Ông văng tục vì những việc xảy ra bên kia biên giới nhuộm màu đen ảm đạm. Quốc tế Tình báo Sở với sự đồng lõa ngoan ngoãn của tướng Khẩu Cầm đang chiếm ưu thế. Công trình xây dựng gian lao, kiên nhẫn của ông sắp sửa xụp đổ như đụn cát dưới ngọn thủy triều. Bầu trời chỉ sáng sủa trở lại nếu thái tử Bô-kha xuất hiện kịp thời ở Kát-man-đu. Hiện giờ, chiếc díp chở thái tử lăn bánh bơ vơ trên đường về Phun-sô-linh. Bất trắc và nguy nan có thể ló mặt bất cứ lúc nào…
Reng…reng…
Chuông điện thoại của cô thư ký già từ phòng ngoài gọi vào. Phờrôn thở phù phù:
-Tôi đang bù đầu, cô còn phá tôi nữa ư?
Cô thư ký già đáp:
-Thưa ông, có khách.
-Cơm nước tôi chưa được ăn một miếng, công việc ngập đến cổ, phiền cô đợi một lát.
-Ông khách không chịu chờ.
-Nói với ông ta rằng vợ tôi, tôi cũng bắt ngồi chờ nữa là…
-Tội nghiệp, ông ơi…Ông chưa có vợ làm gì có bà nào ngồi chờ. Ông ráng tiếp khách một tí. Ông cai vườn, không phải người lạ.
Đại tá Phờrôn đờ người. Ông cai vườn là nhân viên liên lạc giữa đại sứ quán và trú sứ ở ngoài. Tư thất ông đại sứ là tòa nhà rộng mênh mông, đặt trên một khu đất mênh mông nên sự hiện diện của ông cai vườn rất cần thiết để xén hàng rào, trồng hoa, tưới cây, nhổ cỏ. Ông cai vườn này làm mọi việc của ông cai vườn thực thụ, hàng tháng lãnh lương cai vườn, trong sứ quán ai cũng tưởng ông ta sống bằng nghề cai vườn. Sự thật, ông ta do CIA tuyển chọn, đưa đi học lớp cai vườn trước khi được bổ nhiệm ở hải ngoại. Trú sứ Tân đề-li không do tòa đại sứ trực tiếp điều khiển, mặc dầu bên trong có ban lượm tin thông thường, giám đốc Phờrôn hoạt động biệt lập. Tòa đại sứ chỉ biết Phờrôn điều khiển trú sứ, không biết nội dung công việc. Ông cai vườn chỉ đến gõ cửa tiệm đồ cổ Ađam những khi có điệp vụ tối hệ. Mỗi năm, một hai lần là nhiều nhất.
-Ông cai vườn đến một mình?
-Vâng, một mình. Tôi nói ông rất bận, ông cai vườn đáp là bận không can gì.
Đại tá Phờrôn mở cửa ra phòng ngoài. Ông cai vườn đứng như cây cột giữ nhà, miệng phì phèo ống tẩu. Trông ông ta giống cai vườn ra phết, cánh tay áo, ống tẩu, thậm chí mái tóc đều dính đất, thoang thoảng mùi lá cây, mùi hoa mới nở.
Ông cai vườn nói một hơi:
-Mời ông đi. Xe hơi của tôi đậu sẵn ở ngoài. Ông cố vấn sai tôi đến triệu ông gấp.
Phờrôn sững sờ:
-Chưa bao giờ ông cố vấn mời tôi tới sứ quán. Cũng chưa bao giờ tôi dám nghênh ngang tới đó. Vấn đề bảo mật. Vấn đề an ninh…
-Lệnh trên. Thượng cấp bảo gì, tôi lặp lại ông nghe. Như ông đã rõ, tôi là máy thu băng, ông muốn phàn nàn điều gì, xin lát nữa phàn nàn với xếp lớn.
Ban Nhân viên CIA quả có con mắt tuyển chọn tinh đời, việc nào người nấy đúng răm rắp. Phờrôn đúng trăm phần trăm là ông lái buôn đồ cổ trí thức, giàu có, cử chỉ từ tốn, thận trọng, luồng mắt sáng rực, dư khả năng phân biệt đồ gốm, tranh xưa thật giả khỏi cần quang tuyến X hoặc tia hồng ngoại. Ông cai vườn đúng trăm phần trăm là cai vườn, thân thể vạm vỡ, bụng không mỡ thừa, tay chân dẻo dai, vẻ mặt cố hữu của người quen sống quanh năm giữa cây cỏ, vườn tược, đất trời thênh thang…
Coi chừng…đừng tưởng ông cai vườn có vẻ mặt cục mịch kia nghèo bùa phép. Sơ sơ cũng đệ nhất đẳng nhu đạo đai đen, bắn súng được 7 điểm trên 10, nghĩa là hội đủ điều kiện được kết nạp vào phân ban Hành động.
Đại tá Phờrôn xoa cằm, dáng điệu hơi bối rối:
-Tong rồi hả?
« Tong » trong từ ngữ tiếng lóng nghề nghiệp là công việc bí mật của mình bị bại lộ. Ông cai vườn phác một vòng tròn trong không khí:
-Đàn em đâu dám chơi trèo…
-Khách sáo cái mẹ gì nữa. Trú sứ của tôi bị « tong » chưa?
-Ông anh cho phép, lẽ nào đàn em ngậm miệng. Có lẽ bị « tong ». Ông cố vấn kêu em lên phòng, gắt ngậu sị. Chưa bao giờ ông cố vấn văng tục. Hôm nay ông văng tục tùm lum. Tục đến nỗi mấy cô nường chịu chơi ngồi phòng ngoài phát đỏ mặt. Đàn em liếc nhìn ra xa-lông thì thấy lão Côni.
-Côni, phụ tá hành chính của phó giám đốc phản gián Gu-rum?
-Dạ đúng.
-Chết cha!
Đại tá Phờrôn văng tục lần thứ ba trong ngày. Ông gãi tai, giọng như mếu:
-Lão Côni chỉ vác mặt đến sứ quán 2 năm một lần. Lão xin gặp ông cố vấn y như rằng có chuyện.
-Vâng, chuyện trục xuất. Hai năm trước, lão yêu cầu ông phó tùy viên văn hóa lên phi cơ về tội làm văn hóa không đúng chỗ. Trông lão lù đù, chậm chạp và đần độn mà khi nói, lão hùng hồn ra phết. Lão chưng ra bằng cớ nào là đúng boong bằng cớ nấy. Ông phó tùy viên văn hóa nhà ta bị chụp hình trong lúc tiếp xúc với mật báo viên bản xứ. Lão Côni chẳng nói chẳng rằng, bước vào phòng ông cố vấn mà không thèm an tọa, lão không thèm bông-rua. Lão đứng khơi khơi, chìa ra tấm ảnh, ảnh màu đàng hoàng mới khốn nạn chứ. Thế rồi lão ô-voa.
Ông cố vấn tái mặt hỏi « ông muốn gì? », lão cười khẩy « thưa ngài cố vấn, sáng mai có chuyến máy bay rời Tân đề-li, chúng tôi muốn được hân hạnh tiễn người trong hình màu này lên phi trường… »
Đại tá Phờrôn thở dài. Từ lúc ấy đến khi ra xe ông không thốt thêm tiếng nào. Trong quá khứ, mỗi lần tìm Phờrôn, ông cai vườn đều thuê taxi. Cai vườn, lương ít ỏi, làm gì có xe hơi riêng. Chứ đừng nói là xe Cađilắc sơn đen bóng loáng, gắn máy điều hòa, kiếng xanh, dán giấy thủy ngân che nắng, và che luôn những nhỡn tuyến tò mò của thiên hạ…
Vâng, chiếc xe chờ rước đại tá Phờrôn, chủ tiệm đồ cổ trá hình, thuộc loại siêu Cađilắc lòng máy hơn 8 ngàn phân khối, ngốn xăng không thua động cơ máy bay, với đầy đủ tiện nghi, chủ nhân có thể thưởng thức sâm-banh dầm đá vụn hoặc gọi điện thoại tới mọi nơi trên thế giới. Chiếc Cađilắc này là công xa giành riêng cho ông cố vấn, luôn luôn có tài xế mặc đồng phục thẳng nếp, đội mũ kết nghiêm trang, và vệ sĩ « tủ gương » đi kèm. Phờrôn thấy gã vệ sĩ khổng lồ của ông cố vấn đứng sát cửa xe, phía vỉa hè. Hệt như khi hắn tháp tùng ông cố vấn.
Chủ tiệm đồ cổ Phờrôn trở thành thượng khách của sứ quán! Nguy to, chức giám đốc trú sứ CIA là chức bí mật, không nằm trong dánh sách viên chức ngoại giao được hưởng quyền bất khả xâm phạm. Phờrôn leo vào công xa của ông cố vấn khác nào tự ý chường mặt ra cho Phản gián địa phương…bôi đen.
Phờrôn ngao ngán:
-Chết cha, xe này hả?
Ông cai vườn nhún vai, không đáp. Bản tính của người làm điệp báo chuyên nghiệp là thận trọng và đa nghi, Phờrôn không quên kiểm soát sau lưng. Ông thoáng thấy hai xe máy dầu Honda cỡ 250 phân khối bám sát chiếc Cađilắc. Trời, loại xe hai bánh 250 ác ôn này dư sức cho chiếc siêu Cađilắc ngửi bụi…Tư nhân đào đâu ra tiền để sắm Honda 250. Đích thị nhân viên Phản gián bản xứ…Vả lại, lối phục sức của kẻ cưỡi xe bình bịch này sặc mùi lính kín.
Phờrôn hỏi:
-Phản gián?
Ông cai vườn đáp nhỏ:
-Vâng. Côni có nhã ý sai đàn em hộ tống.
Đại tá Phờrôn nuốt nước bọt, ngồi nép trong góc. Từ đó tới tòa đại sứ, ông nín khe, chẳng buồn nhìn ngang nhìn ngửa. Có lẽ ông đang nghĩ đến một phòng giấy tối tăm và những chồng hồ sơ bám bụi, nơi ông sẽ bị lưu đày trong nhiều tháng, nhiều năm sau khi bị tống xuất khỏi Ấn độ. Tại sao? Tại sao? Một loạt dấu hỏi rắc rối hiện lên trong óc Phờrôn.
Ông cai vườn tiễn Phờrôn đến chân cầu thang rồi rút lui lặng lẽ. Văn phòng ông cố vấn, nhân vật số 2 trong sứ quán, ở tầng trên. Cạnh đó là xa-lông.
Lão Côni không còn ngồi đợi ở xa-lông. Lão có mặt trong văn phòng ông cố vấn. Khi Phờrôn bước vào, không ai đứng dậy. Côni ngồi rung đùi khoan khoái trong cái ghế bành rộng mênh mông còn ông cố vấn ngồi bất động sau bàn, vẻ mặt lầm lì như được tạc đẽo trong khối đá Hy mã.
Ông cố vấn nói:
-Ông đã biết ông Côni, miễn tôi phải giới thiệu. Ông Côni thay mặt cho sở Phản gián. Câu chuyện sắp diễn ra giữa hai ông sẽ rất thành thật. Tôi hy vọng đây là sự hiểu lầm. Một cuộc dàn xếp ổn thỏa, thân hữu là điều tôi tin chắc cả hai chính phủ mong muốn.
Lão Côni hắng giọng, tuôn ra một hơi như đọa bài học thuộc lòng:
-Không phải sự hiểu lầm, chúng tôi đã nắm được bằng chứng rõ rệt. Thưa ông Phờrôn, những bằng chứng rõ rệt này có thể đưa ông vào nhà tù 10 năm, 20 năm không chừng, tùy theo hồ sơ do chúng tôi đệ nạp, và tùy theo sự phán xét của quan tòa. Như ông đã rõ, quan tòa xứ tôi khó tính vô kể. Họ ghét cay ghét đắng những người hành nghề tình báo, do thám. Dầu sao quý quốc và chúng tôi là bạn, có chuyện gì trục trặc thì đóng cửa bảo nhau, ai nỡ cạn tàu ráo máng, phải không ông Phờrôn? Vì vậy, tôi đến thẳng tòa đại sứ, yêu cầu được giáp mặt ông với sự hiện diện của ông cố vấn.
Phờrôn nói như nghiến:
-Ông nắm được bằng chứng, nhưng tôi e chỉ là phỏng đoán. Tôi không chối cãi hoạt động đó chỉ là phỏng đoán. Tôi không chối cãi hoạt động thật của tôi. Tuy nhiên, tôi tự kiểm thảo, tự nhận thấy chưa làm điều gì phương hại đến quý quốc. Xin ông xét lại, Ấn độ là nước không theo phe nào, một khi các đồng nghiệp của tôi trong Quốc tế Tình báo Sở Trung hoa, KGB và GRU sô viết, MI-5 Anh cát lợi được quý quốc cho phép hoạt động, không lẽ…
-Ông nói đúng. Và trên thực tế chúng tôi áp dụng nguyên tắc đối xử đồng đều. Không bên nào trọng, không bên nào khinh. Chúng tôi nhắm mắt làm ngơ cho ông từ nhiều tháng nay. Sự nhân nhượng này vừa chấm dứt vì ông lợi dụng Tân đề-li làm bàn đạp điều khiển chiến dịch khuynh đảo một nước láng giềng thân hữu Nê-pal.
-Nội vụ chứa đựng nhiều uẩn khúc, tôi xin trình bày cặn kẽ. Cách đây 2 hôm, tôi đi Kát-man-đu hoàn toàn vì mục đích thương mãi, có người dạm bán cho tôi một số đồ sứ quý giá.
-Tướng Khẩu Cầm quả quyết ông ghé Kát-man-đu để gặp đại tá Văn Bình.
-Oan cho tôi lắm, ông Côni. Chẳng may tôi đặt chân xuống trường bay Gô-sa nhân dịp Z.28 có mặt.
-Sau đó ông không hề gặp Z.28.
-Hờ…hờ…nói thế không đúng hẳn. Sau đó vì sự tình cờ…
-Nghĩa là ông nhìn nhận sự việc?
-Vâng. Đại tá Z.28 cũng như Kiang Pô cũng như tôi, chúng tôi đều ở trong làng điệp báo quốc tế. Tôi thiển nghĩ dẫu tôi gặp Z.28 và bàn bạc một vài chuyện cũng chẳng có gì quan trọng đối với quý quốc.
-Gặp Z.28 xong, ông trở ra sân bay Gô-sa, lên phi cơ về Tân đề-li?
-Phút chót tôi mắc kẹt.
-Mắc kẹt…Phiền ông giải thích rõ hơn.
-Ông Côni, tôi có cảm tưởng đây là phiên tòa và tôi là bị cáo…
-Kể ra so sánh với phiên tòa, ông là bị cáo rất xác đáng. Vâng, ông đang là bị cáo. Nếu ông bào chữa hùng hồn, nếu thật sự ông vô tội, chúng tôi xin thu hồi biện pháp chế tài đối với ông.
-Ông trục xuất tôi? Ông muốn truy tố tôi ra tòa?
-Việc đó để sau. Giờ đây tôi muốn hỏi ông: ông Phờrôn, tôi đã phối kiểm với các cửa khẩu, họ chỉ thấy ông đi, không thấy ông về. Nói cách khác, ông trở về Ấn bằng đường lối khuất tất. Tôi đã biết hết, ông nên thành thật hơn nữa.
-Ông Côni, tôi được phép ra vào đất Ấn nhiều lần không hạn chế. Ví phỏng tôi quên trình thông hành cho nhân viên cửa khẩu đóng dấu, ông cũng đừng quá nghiệt ngã với tôi.
-Đó là tội nhập cảnh phi pháp.
-Vâng. Xin ông nghĩ tình châm chước…
-Ông rời Kát-man-đu bằng xe hơi?
-Dạ không. Tôi đáp nhờ phi cơ du lịch của người bạn.
-Rồi sao? Phi cơ hạ cánh tại đâu?
-Nửa đường gặp bão…một vùng gần Lôi địa.
-Cám ơn ông Phờrôn, ông bắt đầu thành thật rồi đó. Chúng tôi tìm thấy xác phi cơ ở đồi Cọp. Yêu cầu ông cho biết danh tính người bạn cho ông « quá giang ».
-Vấn đề này có tính cách riêng tư, xin ông miễn cho.
-Rầy rà lắm. Nếu ông giấu tên, bắt buộc tôi phải đặt nhiều nghi vấn, mà nghi vấn nào cũng bất lợi cho ông. Chẳng hạn tôi sẽ ngờ vực ông chở đồ lậu bằng đường hàng không vào Ấn độ. Thiếu gì đồ lậu, thưa ông Phờrôn. Ma túy này. Súng đạn này…
-Ông giết tôi hả? Ông thừa rõ trên phi cơ không có lấy một gram ma túy hoặc một khẩu súng nhỏ.
-Tại ông kém thành thật miễn cưỡng tôi phải ngờ vực. Năm ngoái, một ngoại kiều vào xứ tôi bị bắt, ông còn nhớ bản án của tòa án Tân đề-li chứ?
-Chung thân cấm cố …Ông hù học tôi làm gì, tội nghiệp, ông Côni ơi!
-Ông không muốn tù chung thân cấm cố, vậy ông phải cho chúng tôi biết tên người hành khách.
-Z.28.
-À, đại tá Z.28, ông vua gián điệp hành động. Tôi không nghĩ chuyến đi chung này là sự tình cờ…
-Ông nghĩ sao, tùy hỷ. Tôi chỉ xin ông một sự thông cảm tối thiểu.
-Sau khi hạ cánh, ông và Z.28 về trung tâm Lôi địa. Theo chỗ tôi biết, ông đáp phi cơ thương mãi về Tân đề-li. Về phần Z.28, hiện giờ y ở đâu?
-Điều này tôi xin chịu.
-Chịu, không thể trả lời, hay chịu, hoàn toàn không biết.
-Cả hai.
-Đến đây, vấn đề đã khá minh bạch. Tôi xin đưa ra một số điều kiện. Thứ nhất, trục xuất lặng lẽ không làm rùm beng cho báo chí can thiệp, không tạo phản ứng xấu trong dư luận nước tôi đối với quý quốc. Ông có 12 giờ đồng hồ chuẩn bị, ông được phép mang đi tất cả dụng cụ, máy móc viễn thông được nhập nội trá hình là vật tùy thân. Chúng tôi không lục soát ông ở phi trường. Trú sứ CIA ở đây phải tạm đình hoạt động một thời gian 6 tháng. Sau đó mọi việc được tái tục như cũ, miễn hồ ông đi luôn không quay lại Ấn độ. Thứ hai, trục xuất sau những thông cáo, họp báo tùm lum. Ông bị làm nhục ở phi trường, dụng cụ nghề nghiệp của ông không được mang theo. Dĩ nhiên, cấp trên CIA có cách đưa về nước bằng va-li ngoại giao nhưng chúng tôi sẽ rỉ tai một số ký giả, phanh phui hết trên mặt báo. Thứ ba, truy tố ông ra tòa. Ông sẽ bị kết án về tội nhập cảnh đồ quốc cấm với mục đích phá hoại nền quốc phòng Ấn độ.
Ba điều kiện tôi đề ra, ông hãy chọn một. Điều thứ ba là kết quả của sự bất hợp tác ngoan cố. Nghĩa là nếu ông quyết ù lì, liều mạng chịu sự giận dữ của chúng tôi, sự giận dữ có thể dẫn đến bản án tối đa trong lịch sử tư pháp cận đại Ấn độ. Nếu muốn hưởng điều kiện thứ hai, ông chỉ cần cho chúng tôi biết đường đi nước bước của Z.28. Trong trường hợp ông muốn hưởng điều kiện thứ nhất, ông hãy giúp chúng tôi tìm hiểu nội dung điệp vụ Z.28 tại Nê-pal.
-Tôi không thể phản bội.
-Thưa ông Phờrôn, ông không phải là con người phản bội. Tôi cũng chẳng dại gì đòi hỏi một việc mà tôi biết trước ông không làm. Tôi không yêu cầu ông hoặc thúc giục ông phản bội CIA, hoặc phản bội tổ quốc ông. Nhưng ông là người Mỹ, Z.28 là người Việt, ở vào địa vị ông, tôi thà bị mất chức, chịu về đi buôn, đi làm thư ký hãng tư còn hơn ngồi tù rục xương để bảo vệ cho một người Việt …
-Ông không cho tôi lối lùi nào cả. Tiếng là có 3 điều kiện, kỳ thật chỉ có một. Ông rình tôi hớ hênh, chộp lấy để bắt chẹt. Đây là thủ đoạn săng-ta.
-Từ ngữ săng-ta hơi nặng, nhưng cũng không sao. Vâng, đây là thủ đoạn săng-ta. Ông dễ dãi thì chúng tôi dễ dãi đền bù. Nhược bằng ông riết róng, chúng tôi sẽ đáp lại riết róng gấp 5, gấp 10. Trước mặt ông cố vấn, thay mặt ngài đại sứ đi vắng, ông Phờrôn nghĩ sao? Trong vòng nửa giờ, tôi sẽ trình báo kết quả lên ông phó giám đốc Gu-rum.
Phờrôn cắn môi:
-Những điều kiện ông vừa đưa ra là của ông Gu-rum?
Côni đáp:
-Vâng, tôi chỉ có nhiệm vụ chuyển đạt. Thật rủi cho ông. Nếu vụ này không liên hệ đến anh chàng Z.28 có lẽ ông Gu-rum không đến nỗi nặng tay với ông. Chẳng giấu gì ông, ông Gu-rum thù Z.28 hơn kẻ thù truyền kiếp. Nguyên nhân rất giản dị: anh chàng Z.28 có số đào hoa nẫng mất ý trung nhân số một của ông Gu-rum. Bị chơi vố đau điếng, ông Gu-rum thề làm thịt Z.28 bằng được. Đó là chưa nói đến mối thâm tình giữa ông Gu-rum và tướng Khẩu Cầm. Ông Phờrôn ơi, tôi đâu muốn phiền nhiễu ông, hành hạ ông. Chẳng qua ông gặp vận sui, ông vớ phải hai chuyện điên đầu cùng lúc.
Côni liếc đồng hồ tay rồi đứng dậy:
-Có lẽ ông Phờrôn cần bàn luận riêng với ông cố vấn. Kính mời quý vị tự tiện. Tôi xin chờ ở xa-lông.
Côni khoan thai khép cửa phòng giấy. Ông cố vấn ngó Phờrôn mặt buồn như đưa đám nhân tình. Một phút sau ông mới bật được thành tiếng:
-Ông Phờrôn ơi, ông giết tôi, ông giết tòa đại sứ. Ông làm ăn ra sao để đổ bể lung tung như vậy? Mặc dầu ông hoạt động biệt lập, chúng tôi không dính dáng đến trú sứ, nhưng sự đổ bể nàysẽ làm chúng tôi bẽ mặt, bộ Ngoại giao sẽ triệu chúng tôi về…Hừ, anh em chúng tôi sẽ bị chế tài về một tội mà chúng tôi không phạm và không biết ất giáp gì hết.
-Xin lỗi ông cố vấn. Việc này xảy ra hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi. Ông cố vấn vững tâm, tôi đã có cách giải quyết ổn thỏa.
Phờrôn xô ghế, ông cố vấn bèn hỏi:
-Ông đi đâu?
Phờrôn đáp:
-Ra xa-lông trả lời Côni.
Côni đoán trước thái độ của Phờrôn. Cáo già trong nghề có khác, lão đón Phờrôn bằng nụ cười « đồng chí ». Phờrôn chưa mở miệng lão đã dõng dạc:
-Nào, chúng ta xiết tay nhau làm lành.
Phờrôn chậm rãi bắt bàn tay nhỏ thó và mềm xèo của Côni. Côni chưa già, y chỉ trạc 43, 44 là cùng, chẳng hiểu sao thiên hạ lại gọi y bằng tiếng « lão » gần đất xa trời. Phờrôn đã gầy, Côni còn gầy hơn, dường như lão quá khôn ngoan nên thân thể bị choắt lại. Miệng lão duyên dáng đáo để, tuy hai cái răng chó quá nhọn và quá dài, và răng cửa lớn bằng rưỡi răng của người khác.
Ông cố vấn sững sờ trước sự thuận thảo chớp nhoáng giữa hai đối thủ gờm nhau từng miếng, sự thuận thảo ông không bao giờ nghĩ tới:
-Đại tá Phờrôn, đại tá chấp nhận đề nghị đề nghị thứ nhất?
Phờrôn đáp tỉnh khô:
-Vâng, đề nghị thứ nhất.
-Tôi xin ghi nhận là đại tá lấy quyết định này một mình, đại tá chưa hề bàn với tôi.
-Thưa ông cố vấn, khi rời quân đội, tôi chỉ mang lon thiếu tá. Cấp bậc đại tá là hỗn danh bạn bè thân thiết đặt cho tôi. Ông cố vấn gọi tôi bằng tên, tiện hơn.
-Lúc này không phải lúc quan tâm đến cấp bậc. Yêu cầu ông trả lời thẳng thắc mắc của tôi.
-Ông cố vấn là nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Tôi là nhà gián điệp chuyên nghiệp. Mỗi nghề, một sắc thái riêng…
-Dầu ngoại giao hay gián điệp, chúng ta vẫn là con dân một nước, cùng thờ một lá cờ, cùng phục vụ một chế độ chính trị…
Phờrôn nghiêm mặt:
-Ông cố vấn khuyên tôi như thế nào?
-Tôi chưa có đủ quyền hạn, kinh nghiệm, kiến thức và tuổi tác để khuyên ông. Tôi chỉ mạo muội đưa ý kiến.
-Bác bỏ?
-Không hẳn là vậy.
-Trời ơi, ông là nhà ngoại giao, ông quen cách phát biểu « vòng vo Tam quốc ». Đa tạ thiện chí xây dựng của ông. Việc tôi, tôi làm, tôi đã cân nhắc hơn thiệt, phải quấy và hậu quả.
Côni xen vào:
-Mời ông Phờrôn ghé trụ sở Phản gián. Ông sẽ trò truyện với tôi trong vòng một giờ đồng hồ. Sau đó ông trở về tiệm Ađam sửa soạn hành lý. Về phần mua vé máy bay, phương tiện chuyên chở, tôi đích thân đảm trách.
Phờrôn nói:
-Tôi xin đưa phản đề nghị: hành lý được chuẩn bị trước, rồi tôi trình diện tại trụ sở, xong xuôi ra thẳng sân bay.
-Ông cần sắp xếp độ bao lâu?
-Độ 2 giờ.
-Vâng, 2 giờ thì được. Tài xế của tôi chở ông về quảng trường Con-nốt.
-Ông chưa nói gì về số phận những người làm việc dưới quyền tôi.
-Họ sẽ phải rời Ấn độ. Tôi sẽ lo các thủ tục, hộ tống họ lên phi cơ an toàn.
Phờrôn thọc tay vào túi quần, giọng nhỏ nhẹ:
-Thế là xong. Kính chào ông cố vấn.
Chiếc xe chở Côni thuộc loại thông thường, sơn đen cũ kỹ, nhưng động cơ thật mạnh và tốt.
Đến gần tiệm đồ cổ, Côni ra hiệu cho tài xế tấp vào lề, tự tay mở cửa xe rồi nói với Phờrôn:
-Tôi chờ ông ở văn phòng. Nhân viên của tôi đậu xe sẵn trước tiệm đồ cổ. Họ đã nhận những chỉ thị rõ rệt.
Phờrôn nhún vai:
-Vâng, tôi sẽ y hẹn.
Côni nói:
-Hồi nãy, tại sứ quán, tôi không tiện thổ lộ vì có ông cố vấn. Chúng mình là gián điệp nhà nghề. Như ông đã nói mỗi nghề có một sắc thái riêng…Ông hợp tác với chúng tôi, đánh đổi với sự tự do từ giã Ấn độ, thế tất khi về đến Mỹ, ông khó thể vẹn toàn. Mất chức là dĩ nhiên, điều tôi e ngại là người ta sẽ điều tra ông.
-Tóm lại, ông đề nghị tôi đầu hàng.
-Không đúng. Tôi muốn nói tị nạn chính trị.
-Tị nạn chính trị hay đầu hàng cũng thế. Tôi cương quyết từ chối.
-Ông Phờrôn, ông quả là con người khả kính. Tuy nhiên, tôi xin ông bớt cứng rắn một chút. Ông nên cho phép Sở tôi biếu ông một món tiền nhỏ, gọi là…
-Cái gì chứ tiền tôi không dám nhận.
-Ông gắt gao thật. Nhưng thôi, lát nữa chúng mình xét lại vấn đề.
Phờrôn xuống xe. Một trong hai nhân viên ngồi băng trước giơ tay vẫy chào. Phờrôn không thèm để ý. Ông đang nghĩ đến quá khứ hào hùng. Hơn một lần, ông bị sa lưới địch. Từ địa ngục của trận chiến tranh Triều Tiên đến những đêm ngày nội chiến đẫm máu ở In-đô-nê-xia. Từ rừng thẳm Miến điện đến núi đèo hoang vu Nam Mỹ. Từ Mạc tư khoa đến Bắc Kinh. Từ Ba lê đến La mã. Bên kia hoặc bên này bức màn sắt…
Phờrôn lẩm bẩm:
-Vượt núi, băng rừng…rồi họ sẽ thấy…rồi tất cả sẽ thấy…
Ông xô cửa. Mặt ông đanh lại khi ông nhìn thấy cô thư ký già gầy đét, mà những lớp kem, phấn son chồng chận không che nổi những lỗ mụn trứng cá, những nếp răn tàn bạo ở đuôi mắt, góc trán và ngực cổ.