Chương XIII Đoạn kết
Văn Bình cũng đốt Salem để tự thưởng công sau những giờ đồng hồ căng thẳng. Con đường từ thiền viện về gần làng Chimakôti, băng qua rừng mun và bạch đàn không tạo thêm trở ngại mới. 4 người chất đống trên chiếc mô tô do Văn Bình lái nhanh như xe đua xì gà trên vòng chảo quốc tế. Zo-lim ôm eo ếch thái tử Bô-kha ở yên sau. Tuyết Lê tì ngực vào thùng xăng, chốc chốc nàng luồn tay ra sau lưng thọc lét chàng. Những lần như thế được chàng âu yếm hôn gáy, nàng mới chịu buông tha.
Vầng đông bắt đầu hửng nắng. Chiếc Suzuki-750 nương lối mòn của voi, kéo gỗ chạy lên đỉnh đồi nơi Mahan và Huy-gô đang chờ với gã thuộc viên của Sêbu, đội lốt thái tử Bô-kha.
Tuyết Lê nhảy xuống đất gọi « chú ơi, chú đâu rồi » tíu tít. Không nghe tiếng trả lời. Túp lều bằng cành cây tươi tự tay Văn Bình kết trên thân cây bồ đề vẫn còn nguyên. Nhưng hoàn toàn trống rỗng. Văn Bình đã dặn kỹ Mahan không được bỏ đi đâu. Lạc đường trong rừng là điều tối kị, kế hoạch rút khỏi Bhu-tan có thể bị chậm trễ và thất bại.
Tuyết Lê kêu chán Mahan đến Huy-gô. Vẫn không nghe tiếng trả lời. Mặt tái mét, nàng nói như khóc:
-Chú em bị nạn rồi anh ơi!
Văn Bình vừa dựng xe thì ở bên trái có tiếng đằng hắng. Chàng quay lưng lại và thấy Mahan. Không phải Mahan khỏe khoắn, tươi tỉnh mà là Mahan tiều tụy, má và mắt xưng húp. Văn Bình có cảm tưởng Mahan vừa ăn đòn « hội chợ ». Nhanh như điện xẹt, chàng văng mình xuống cỏ. Tiếng đằng hắng chàng vừa nghe được nối tiếp bằng tiếng cười ngạo nghễ:
-Ông đại tá Z.28 ơi, phiền ông cởi khẩu tiểu liên trên vai, ném xuống vực núi, vì nếu ông cựa quậy tôi sẽ biến ông Mahan thành đống thịt bằm…
Té ra gã đội lốt thái tử Bô-kha đã hoàn toàn kiểm soát tình thế. Theo kế hoạch, Mahan phải luôn luôn coi chừng địch, chờ sáng hoặc đến khi nào hắn nghi ngờ là giết chết. Tất cả công lao sắp xếp của Văn Bình và ông Hoàng đang tan thành tro bụi. Chàng đã liên lạc điện đài với ông Hoàng, và biết trực thăng của Z.390 sắp đáp xuống tọa độ định trước để bốc phái đoàn về bộ tư lệnh quân khu đông. Chỉ cần một sơ hở cỏn con…
Gã đội lốt núp sau phiến đá cao bằng đầu người. Mahan bị vặn tréo một tay sau lưng. Bị kẹt vào thế trói này của nhu đạo, Mahan hết đường kháng cự. Như để giải thích thêm dụng ý của mình, gã đội lốt chìa cho mọi người thấy một trái lựu đạn đã mở chốt an toàn. Địch nói đúng, quả mãng cầu thép này có thể biến Mahan thành đống thịt bằm trong vòng mấy tích tắc đồng hồ.
Gã đội lốt quát to:
-Không ai được thay đổi vị thế. Riêng ông Z.28, ông còn lừng khừng gì nữa?
Mahan nói, giọng cương quyết:
-Anh Văn Bình, anh đừng quá bận tâm vì tôi. Lỗi tại tôi, tôi phải chịu. Hắn chỉ có trái lựu đạn và khẩu súng lục, nghĩa là đủ giết tôi thôi. Tính mạng của thái tử, của anh…Sự thành công của điệp vụ Hoa Sen…
Gã đội lốt Bô-kha, mặc cho Mahan phân trần với Văn Bình. Hắn tỏ ra sành tâm lý. Hắn khó thể chỉ là tay sai tầm thường của Tình báo Sở.
Văn Bình nín lặng. Gã đội lốt cũng nín lặng sau phiến đá. Giọng Mahan mỗi lúc một thêm tha thiết:
-Tuyết Lê, chú thành thật xin lỗi cháu…Cháu thuyết phục Z.28, đừng để anh ấy nể chú mà đầu hàng. Nếu chú nghe lời cháu, năng rượt võ thuật, và giảm bỏ nếp sống xa hoa vô ích thì đâu đến nỗi. Chú đã bị hắn dùng làm bao cát tập đấm.
Gã đội lốt cười hềnh hệch:
-Hai chú cháu tâm sự với nhau xong chưa? Chắc xong rồi. Ông Z.28 quyết định đi…Tôi đếm từ 1 đến 5…
Văn Bình thở dài:
-Huy-gô, anh bạn Huy-gô đâu?
Mahan đáp:
-Tôi bị địch xiết cổ gần ngạt thở. Huy-gô liều mạng a vào cứu tôi. Tội nghiệp, anh ta què một chân, lưng bị phỏng nặng, quyền cước của anh ta cũng chẳng hơn gì tôi, nên bị hắn xô té xuống khe.
-Chết?
-Vâng. Không thấy Huy-gô bò lên, cũng không nghe tiếng rên la.
Văn Bình ném khẩu tiểu liên ra xa. Mahan nói như khóc:
-Trời ơi, tại sao anh lại mềm yếu và dại dột như vậy?
Văn Bình từ từ đứng dậy. Gã đội lốt rời chỗ núp, dõng dạc:
-Yêu cầu quý vị dồn về bên trái của tôi. Trừ ông Z.28, ông là bật thầy về nhu đạo và Thiếu lâm, ông cần ở trong tầm lựu đạn, tôi và ông Mahan chết thì ông cũng chết.
Mọi người lục tục tuân theo khẩu lệnh của địch. Hắn chỉ Zo-lim:
-Ấy, tại sao cô xếp hàng chung với họ? Mời cô tách riêng. Cô mở giùm tôi thùng điện đài vô tuyến treo ở ghi đông xe mô tô. Phiền cô liên lạc với ông Sêbu…
Văn Bình đủng đỉnh:
-Sêbu xuống suối vàng chơi rồi, anh ơi!
Gã đội lốt cáu kỉnh:
-Tôi không hỏi ông. À, ông đã giết Sêbu…Vậy nhờ cô gọi cho đại úy Pô-rốt.
Vẫn Văn Bình nói:
-Pô-rốt đáp chung chuyến tàu suốt với Sêbu.
Giọng gã đội lốt rít lên ghê rợn:
-Cô Zo-lim, tôi hỏi, tại sao cô không đáp. Họ ép buộc cô đến đây, tôi cứu cô thoát hiểm, tại sao…
Zo-lim đáp:
-Đừng nhờ tôi mất công, tôi không làm đâu.
-Thưa cô, tôi là cộng sự viên của tướng Khẩu Cầm và của đồng chí Kiang Pô.
Lần đầu tiên thái tử cất tiếng:
-Ta mù, ta không thấy nhà ngươi, song nhà ngươi sáng mắt tất phải thấy ta. Nhân danh phụ vương, nhân danh chính phủ Nê-pal, ta hạ lệnh cho nhà ngươi…
Gã đội lốt nghiêm mặt:
-Tâu thái tử, những người cùng đi với ngài là sứ giả của địch…
Bô-kha ngắt lời:
-Đây không phải là cuộc tuyên truyền, nhà ngươi cũng chưa đủ tư cách đối thoại tay đôi với ta. Ta chỉ hỏi nhà ngươi một tiếng: nhà ngươi trung thành với ta, với phụ vương, với chính phủ, hay trung thành với Khẩu Cầm phản loạn, trung thành với ngoại bang Trung hoa cộng sản?
Gã đội lốt cười khảy:
-Mời thái tử nghỉ nói kẻo mệt.
Bô-kha làm thinh, mặt hơi cúi. Thế cờ đã minh bạch: gã đội lốt là cật ruột của phe soán đoạt ngai vàng.
Xa xa vọng lại tiếng máy bay. Văn Bình nói:
-Phi cơ này đến bốc chúng tôi. Nếu anh không có điều gì phản đối, tôi sẽ đốt lửa làm hiệu cho hoa tiêu đáp xuống.
Gã đội lốt ra hiệu cho Tuyết Lê:
-Đốt lửa thì phụ nữ làm cũng được. Mời cô…Về phần ông Z.28, tôi thừa hiểu ông đang rình cơ hội lật ngược thế trận…Ông cầm đầu phái đoàn, tôi xin có đôi lời giải bầy với ông: phi cơ sẽ bay thẳng về Kát-man-đu, không được dừng lại bất cứ đâu. Tôi từng lái trực thăng nhiều lần ở Nê-pal, tôi thuộc lòng từng mỏm núi, từng cánh rừng, tôi khuyên ông đừng đòn phép với tôi. Trái lựu đạn tấn công này được chế tạo theo công thức riêng, mạnh gấp 5 lần thứ thường. Trong túi tôi lại còn 2 trái khác. Nói vậy để ông dứt bỏ mọi ý tưởng áp đảo tôi, đoạt quyền chủ động.
Đống lá khô do Tuyết Lê nhúm lửa vừa bốc khói thì chiếc trực thăng Ka-26 xuất hiện sau ngọn núi ở hướng bắc, vùn vụt lao tới. Trực thăng đáp xuống bãi đất trống, cách Văn Bình khoảng 150 mét. Gã đội lốt hất hàm:
-Ông Z.28 dẫn đường. Yêu cầu nhìn thẳng, không được quay mặt lại.
Hắn xô Mahan sang bên, chộp cánh tay trái của thái tử Bô-kha. Từ phút này, hắn dùng Bô-kha làm con tin. Bô-kha không kêu đau hoặc than thở trước cử chỉ vô lễ và thô bạo của gã đội lốt. Ông lầm lì bước về bãi đậu dưới sự thúc đẩy. Cách trực thăng 5 mét, gã đội lốt gọi Văn Bình:
-Thong thả. Ông nhường cho họ lên trước. Ông lên sau cùng. Với tôi. Bây giờ ông được phép thuật lại cho hoa tiêu sự việc vừa xảy ra. Ông yêu cầu y vứt bỏ mọi võ khí giấu trên phi cơ. Tính mạng Bô-kha tùy thuộc vào thái độ của ông.
Văn Bình và hoa tiêu trò truyện với nhau dưới chân trực thăng. Z.390 có vẻ là điệp viên già dặn trong nghề nên sắc mặt chỉ hơi thay đổi. Hắn liếc nhìn gã đội lốt rồi quay lại phía Văn Bình tiếp tục cuộc đối thoại. Hắn nhún vai khi Văn Bình dứt lời, đoạn hỏi gã đội lốt:
-Từ đây về Kát-man-đu không thể bay thẳng vì chạm núi. Bắt buộc phải bay vòng.
Gã đội lốt đáp:
-Đồng ý. Chặng thứ nhất là thị trấn Tum-linh-ta (Tumlingsta), sau đó anh có thể bay thấp qua thung lũng Saricô (Charicot). Từ Saricô trở đi, anh khỏi sợ đụng núi. Đến Tum-linh-ta anh liên lạc với đài không lưu bên dưới, nói là…
-Đáng tiếc. Vì điều kiện an ninh, trực thăng của tôi không được trang bị máy vô tuyến.
-Cũng chẳng sao. Tôi sẽ dùng máy vô tuyến của ông Z.28.
Lòng trực thăng khá rộng. Ngoài ghế hoa tiêu, còn có 3 hàng ghế khác, dư chỗ cho 6 hành khách. Gã đội lốt kéo Bô-kha xuống hàng ghế cuối. Văn Bình phải ngồi ở hàng ghế đầu, sau lưng hoa tiêu.
Trực thăng rời bãi đậu nhẹ nhàng như con diều bằng giấy. Văn Bình cầu Trời nổi cơn giông bão bất thần vì chỉ trong trường hợp này chàng mới hy vọng hóa giải trái lựu đạn tối nguy hiểm trong tay gã đội lốt. Nắng vàng chóe. Mây xanh xanh. Gió thổi thuận chiều. Sương mù vốn là kẻ thù ác ôn dai dẳng của giới phi hành trong vùng núi Hy mã đã kéo nhau đi đâu hết, trả lại không gian trong veo.
Du khách ghé Nê-pal thường nhờ một cựu trung tá quân đội Anh quốc (1) lái máy bay dọc rặng núi Hy mã để thưởng thức cảnh đẹp bồng lai.
Cảnh đẹp đến nỗi nhiều người chán đời, muốn quyên sinh đã rào rạt thèm sống sau cuộc thăm viếng. Z.390 đang bay lượn trên những mỏm núi, những khu rừng hoa, những suối nước pha lê, được coi là ngoạn mục nhất châu Á. Vậy mà lòng Văn Bình rối bời. Chàng không thấy gì đẹp vì trực thăng càng về gần Kát-man-đu, hy vọng thoát thân của chàng càng trở nên xa vời…
Chàng rùng mình: bên dưới là thị trấn Bát-gon (Bhatgaon), nghĩa là chỉ cách Kát-man-đu trên 10 cây số. Chàng biết chắc đây là Bát-gon căn cứ vào ngôi đền 5 tầng, cao 40 mét, thờ 2 nữ ác thần với những con rồng đỏ, những con sư tử vàng chầu bên cửa giữa một rừng hoa muôn màu sắc rực rỡ và hàng chục, hàng trăm pho tượng lớn bằng người thật đẽo tạc trong đá đang âu yếm, mơn trớn, và cả làm tình với nhau nữa, những pho tượng mà quốc gia tây phương phóng khoáng nhất về yêu đương cũng phải che dấu trong phòng…Bát-gon là thị trấn chứa thắng tích và báu vật lịch sử đã có từ ngàn năm. Tuyết Lê hẹn chàng sau khi Bô-kha thành công sẽ dẫn chàng đến Bát-gon để chàng được chiêm ngưỡng tận mắt các pho tượng táo bạo.
Cơ hội thần tiên ấy sẽ chẳng bao giờ có.
Bỗng…ầm…ầm…đoàng…đoàng…sàn trực thăng rung chuyển. Một ụ cao xạ nào đó ở dưới vừa khai hỏa. Gã đội lốt thét:
-Hạ thấp, gia tăng tốc độ.
Trực thăng sà thật nhanh xuống sát ngọn cây. Những âm thanh ầm ầm đoàng đoàng tiếp tục nhưng mỗi lúc một xa. Trong loáng mắt, trường bay Gô-sa hiện ra. Mấy ngày trước, Văn Bình đáp xuống Gô-sa với tư cách du khách « thật trăm phần trăm », tham dự phái đoàn khảo sát người tuyết. Chàng biểu diễn uống cả chai rượu huýt ky tại phòng quan thuế làm thiên hạ lác xệch mắt. Giờ đây chàng đáp xuống Gô-sa với tư cách « tù binh ».
Binh sĩ mặc quân phục chạy tới chạy lui lố nhố, hỗn loạn. Dường như mọi người đang chuẩn bị một việc gì nghiêm trọng. Trực thăng đậu ngay ngắn trên thảm bê-tông, cánh quạt trên mui ngừng quay. Thế là xong. Trong chốc lát bọn đầu trâu mặt ngựa của Khẩu Cầm sẽ xuất hiện.
Một chiếc díp te te chạy tới, đậu rà bên hông. Gã đội lốt ra lệnh qua khung cửa:
-Ai chỉ huy ở đây?
Một tiếng đáp:
-Ông là ai? Chúng tôi là đơn vị đặc nhiệm của thiếu tướng Khẩu Cầm.
Mặt gã đội lốt tươi rói:
-Tôi là cộng sự viên của ông tướng. Phiền anh kêu dây nói trình ông tướng là đại úy Pô-rốt đã áp giải địch về đến nơi.
Toán lính đang quây quần chung quanh chiếc trực thăng và xe díp bỗng kêu nhau ơi ới rồi ba chân bốn cẳng rút lui vào tòa nhà phi trường. Lý do khiến chúng hoảng kinh là sự hiện diện của hai chiếc trực thăng bất thần đáp xuống, nhiều quân nhân mặc đồ nhảy dù bất thần vọt ra, bắn súng tự động xối xả về hướng phi cảng.
Thì ra hai phe trong cuộc đảo chính đụng độ nhau. Trên kỳ đài cao ngất, phất phới bay một lá cờ lạ. Không phải cờ hoàng gia Nê-pal. Phe đảo chính có lẽ đã làm chủ phi trường Gô-sa.
Nhóm lính không vận được trang bị bằng súng tốt, lại tác chiếc xông xáo và chính xác nên phe kiểm soát phi trường tháo chạy như vịt, và sau cùng cố thủ trong đài không lưu và những lô-cốt bê-tông.
5 phút sau khi từ trực thăng nhảy xuống, một đơn vị dù bò đến sát chiếc Ka-26. Một người ngẩng đầu nói lớn bằng tiếng Anh:
-Tôi là Z.542, cùng đi với đại tá tư lệnh quân khu đông. Trên phi cơ có thái tử Bô-kha và Z.28 không?
Gã đội lốt điềm tĩnh đáp:
-Có. Đủ hết. Chào anh Z.542. Anh trật đường rầy rồi. Tôi là trung úy Tình báo Sở. Bô-kha đang bị tôi giữ làm con tin.
Tiếng bên dưới:
-Đúng không, anh Z.28?
Gã đội lốt hất hàm ra dấu cho Văn Bình nói. Văn Bình nín thinh. Hoa tiêu tức Z.390 mau miệng:
-Đúng. Các anh đừng nổ súng, sợ thái tử bị đạn lạc.
Gã đội lốt oang oang:
-Yêu cầu các anh rút xa trực thăng 100 mét. Tôi cho các anh 3 phút. Quá hạn, tôi sẽ bắn chết một người trên này.
Nhiều loạt đạn thi nhau nổ ròn. Hai khẩu trung liên cùng khạc lửa, nền xi măng rung chuyển như bị động đất. Toán lính của quân khu đông vừa chạm súng với một nút chặn kiên cố của tướng Khẩu Cầm.
Hoa tiêu Z.390 nhấp nhỏm trên ghế. Gã đội lốt quát:
-Ngồi xuống.
Z.390 chưa kịp tuân lệnh thì gã đội lốt lảy cò. Hắn bắn không cần nhắm. Khẩu súng bốc khói trong tay phải. Tay trái của hắn vẫn nắm chặt trái lựu đạn miểng. Hắn cố ý giơ cao cho mọi nàng nhìn thấy. Vô phương lợi dụng tình thế, Văn Bình đành chứng kiến cái chết của đồng nghiệp mang số Z, không dám lao vào vòng chiến như thường lệ…
Hoa tiêu Z.390 bị trúng đạn giữa trán. Hắn ngã dập vào táp-lô, máu đỏ và chất óc bắn tung tóe cả về phía Văn Bình.
Gã đội lốt chĩa súng:
-Z.28, yêu cầu ông mở máy trực thăng.
Văn Bình giơ hai tay lên trời, dáng điệu thất vọng:
-Lái trực thăng ra khỏi phi trường lúc này? Anh điên…Họ chỉ quạt một băng đạn là rớt.
-Không sao, tôi tin ở tài ông. Vả lại, có thái tử trên trực thăng, không ai dám bắn. Ông Z.28 còn lừng khừng gì nữa, tôi sắp lảy cò đây…
Ước định tình thế, Văn Bình thấy gã đội lốt vẫn nắm ưu thế tuyệt đối. Với trái lựu đạn tấn công rút kíp, hắn có thể sai khiến chàng làm bất cứ điều gì. Chàng đành tuân lệnh hắn.
Ngay khi ấy sấm sét nổ bùng…
Gã đội lốt chỉ quan tâm đến Văn Bình, phần nào lơ là Mahan. Xuất kỳ bất ý, Mahan vồ lấy trái lựu đạn. Gã đội lốt hạ thấp mũi súng: đoàng đoàng, hai phát nổ liên tiếp. Mahan bị thương nặng ở vai và mạn sườn, ngã xuống song hait ay vẫn ôm cứng trái lựu đạn. Gã đội lốt nhắm bắn vào cổ Mahan, Zo-lim nhoài tới, gạt khẩu súng sang bên. Viên đạn 9 li vọt khỏi nòng xuyên qua ngực Zo-lim trổ ra sau lưng.
Mahan lăn tròn qua khung cửa trực thăng mở rộng. Tiếng oang oác nổi lên khi hắn chạm đất. Mahan chọn sự hy sinh để cứu mọi người.
Zo-lim kêu được tiếng « ối » ngắn rồi ngoẹo đầu, té ngửa, gối lên đùi Bô-kha. Gã đội lốt đứng phắt dậy. Bản tâm của hắn là hạ thủ Văn Bình vì chàng là địch thủ đáng sợ nhất. Nhưng Văn Bình đã phản ứng bằng thế song phi hồ điệp, toàn thân chàng bay lên phóng hai chân một lượt. Gã đội lốt bị Văn Bình đá chết không kịp ngáp.
Z.542 từ nền bê-tông bên dưới nhảy lên phi cơ. Tiếp theo là một sĩ quan Nê-pal mang cấp bậc đại tá. Chắc là vị tư lệnh quân khu đông. Hai người tíu tít đỡ thái tử Bô-kha và Zo-lim.
Văn Bình và Tuyết Lê quỳ bên thi thể nát ngướu của Mahan, cố giám đốc trú sứ Sở Mật Vụ tại Tân đề-li, cố maharaját Ấn độ, con người có tiền rừng bạc biển nhưng thích làm nghề gián điệp để thỏa chí tung hoành. Tuyết Lê gục đầu khóc nức nở. Văn Bình cắn môi, quang cảnh trước mắt chàng mờ đi.
Thái tử Bô-kha được dìu tới xe díp chỉ huy của toán quân dù. Tiếng súng lớn vẫn réo liên hồi. Đơn vị trung thành với tướng Khẩu Cầm phải di tản ra ngoài vòng rào phi trường. Một sĩ quan tùy viên mang đến cho Bô-kha một ống loa điện xách tay. Bô-kha được yêu cầu lên tiếng kêu gọi phe soán nghịch đầu hàng.
Theo truyền thuyết, nhà vua là con cháu của thượng thần khai sinh ra nước Nê-pal. Vì vậy tiếng nói của thái tử Bô-kha vừa cất lên, tiếng súng đã giảm bớt. Rồi chỉ còn những tiếng súng ngắn lẻ tẻ, rời rạc. Tướng Khẩu Cầm và đoàn tùy tùng võ trang đến tận răng phóng xe đến phi trường, chưa kịp bước xuống thì phải quay đầu về thành phố. Sự hiện diện của thái tử Bô-kha như có phép lạ, hầu hết mọi người đều quăng súng. Sau cùng chỉ còn Khẩu Cầm và hai tên cận vệ sơn nhân thoát chạy trên chiếc xe díp đơn độc.
Đang ngồi ôm mặt, buồn rầu vì cái chết của Zo-lim, bỗng Bô-kha kêu thất thanh vị đại tá tư lệnh:
-Đại tá, đại tá, trời ơi, tại sao thế này?
Bô-kha xòe ngón tay nâng ngang mắt. Ông quay về phía đại tá tư lệnh:
-Đại tá quàng phu-la màu hồng…à…màu hồng hoa sen.
Đại tá tư lệnh giựt nẩy người:
-Tâu thái tử, vâng. Màu hồng hoa sen là màu ngài ưa thích. Chúng tôi đều quàng phu-la hồng làm hiệu. Phe Khẩu Cầm dùng phu-la vàng…Nhưng kìa, tại sao thái tử phân biệt được màu sắc?
Giọng Bô-kha run run:
-Ta nhìn thấy, ta nhìn thấy…Ta nhìn thấy cả cái nốt ruồi trên má trái của nhà ngươi. Trời ơi, ta đã khỏi mù, ta khỏi mù…
Bô-kha khỏi mù thật. Ông bị mù do một phần võng mạc bị hư hỏng, và bị mây cườm che phủ. Trong cuộc xung đột trên phi cơ, Bô-kha té ngã, màng tang va mạnh vào thành ghế, tình cờ làm vẩy cườm tuột ra khỏi võng mạc, và sự ngẫu nhiên có một không hai này giúp ông phục hồi được phân nửa thị giác bị mất.
Nhờ sáng mắt, thái tử Bô-kha nhìn thấy cái lỗ tròn đỏ hoét gần tim Zo-lim. Nàng được đặt nằm thẳng băng bên thi thể Z.390 và Mahan. Đại tá tư lệnh quân khu đông ngậm ngùi phủ tấm vải dù lên trên. Ông nhìn thấy khuôn mặt tuyệt đẹp của Tuyết Lê đầm đìa nước mắt. Ông nhìn thấy Văn Bình, chàng hiệp sĩ gan dạ, hào hoa, đã cứu sống ông hai lần, lần đầu ở Bắc cực, lần này ở quê nhà Hy mã lạp sơn, đang thẫn thờ như kẻ mất hồn. Khi bóng tối bao kín mắt ông, ông thèm được nhìn thấy vạn vật. Thực tại giờ đây làm ông chán ngán, và đau đớn.
Ông nhắm nghiền mắt, giọng nói rền rĩ:
-Tội nghiệp thân tôi…Mù mắt như vậy mà hơn!
NGƯỜI THỨ TÁM
Chú thích:
(1) cựu trung tá James Robert thuộc hãng du ngoạn Mountain Travels.