Chương 2 LIÊN XÔ. 1953-1985-“Trì trệ lớn”
Tại Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, M. X. Gorbachov đã gọi thời kỳ L. I. Breznev lãnh đạo đất nước là “trì trệ”. Còn tôi liều gọi toàn bộ giai đoạn 1953-1985, khoảng thời gian giữa cái chết của I. V. Xtalin và việc M. X. Gorbachov lên nắm quyền là “trì trệ lớn”. Trong đó có thời kỳ từ tháng 3 năm 1953 đến cuối tháng 10 năm 1964 – cái gọi là “tiết trời trở ấm” (còn có tên gọi thứ hai, đôi lúc có trong văn chương là “tiết trời ướt át”), đặc biệt giai đoạn Breznev cầm quyền (hay là trị vì) và giai đoạn từ tháng 11 năm 1982 đến cuối tháng 3 năm 1985 đã được ai đó gọi chính xác là “đuổi theo xe tang”. Tôi cho là có thể chỉ ra một sự thống nhất nào đó của toàn bộ giai đoạn này. Một loạt các nhà nghiên cứu trong số những người cộng sản chính thống đã tranh luận với phe đối lập rằng giai đoạn này không phải là “trì trệ” mà là “trì trệ – 2”. Hoàn cảnh, những trói buộc không thuận lợi cho sự phát triển hay chuyển động của bất kỳ cái gì. Thời gian kinh tế chậm phát triển, tình hình đời sống xã hội, tư duy tiêu cực, suy mòn.
Giai đoạn này, theo cách hiểu của chúng tôi, được đặc trưng bởi sự phát triển về số lượng trong sự lạc hậu thật sự của tiêu chí chất lượng.
Xuất phát từ quan niệm hiện nay về thực trạng hệ thống Xô Viết, nửa sau của 70 năm cộng sản cầm quyền được xem như là chặng đường quay lại. Trong khi vẫn giữ được vẻ ngoài hào nhoáng, trong khi phát triển kinh tế không ngừng, trong khi duy trì chuyển động theo xung năng do Xtalin đã tạo ra, trên thực tế, đất nước đã tụt hậu: “Rõ ràng, toàn bộ lịch sử Liên Xô bị chặt làm hai khúc: giai đoạn Xtalin và giai đoạn hậu Xtalin. Hơn nữa, hai khúc lịch sử này – bằng nhau về thời gian, nhưng ngược hướng nhau. 35 năm chuyển động theo con đường xã hội chủ nghĩa và 35 năm chuyển động hoàn toàn ngược về đích tư bản chủ nghĩa. 35 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản (Bônxevich) và 35 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sáng tạo ra được bao nhiêu thì đập phá hết bấy nhiêu.
Từ quan điểm ngày nay, chúng ta có thể phân định dễ dàng rằng lịch sử nửa sau của thế kỷ XX trên đất nước ta sẽ còn lưu giữ hai quá trình liên quan bền chặt với nhau: đó là thời kỳ tiến hóa (1953-1985) và thời kỳ cách mạng (1985-1991) với sự thất bại của Liên Xô. Những quan điểm của những người cộng sản chính thống đã mô tả toàn bộ 70 năm như là một loạt cuộc diễu binh khải hoàn, nhưng những tình huống phức tạp trong tuyên truyền hiện nay của họ là thế. Hoàn toàn ngược lại, chúng ta trong 70 năm ấy đã trải qua một con đường rất phức tạp, mâu thuẫn và chưa xác định được đích. Không phải tất cả những chiến thắng của chúng ta đã tự bộc lộ mình trong sự đa dạng của những mối quan hệ nhân – quả, và tất cả những viên đá dưới bước chân của chúng ta, nếu không chú ý, sẽ là vô danh.
Cần nhận thấy rằng những khuynh hướng dẫn tới sự sụp đổ Liên Xô đã có từ “thời Xtalin” – chúng được hình thành từ khi đó nhưng được ngụy trang kỹ. Tất nhiên, còn quá sớm để nhận định – dường như ngay sau khi Xtalin qua đời, trạng thái thăng bằng giữa lực ly tâm và lực hướng tâm đã nghiêng về phía ly tâm. Không, hệ thống do Xtalin lập ra cũng có những cơ chế để ổn định và kẻ thù đã phải dò dẫm từng bước một – nếu làm khác thì đã không thu được kết quả do hệ quả của quy luật biện chứng, quy luật duy trì hệ thống, hoặc theo quan niệm của nhà khoa học Anh Westby – quy luật duy trì sự đa dạng. Duy chỉ đến lúc này, trước ngưỡng cửa của hai thiên kỷ, chúng mới tiếp cận được đến ranh giới cuối cùng.
Thời gian “Tổng Bí thư hạ nhục Liên Xô” được bắt đầu không phải từ năm 1985, mà sớm hơn nhiều. Có rất nhiều nguyên nhân đưa tới thảm họa khủng khiếp thế này. Có thể nhận ra rằng những khuynh hướng dẫn tới tan rã hệ thống đã xuất hiện đúng lúc, nhưng thực sự chẳng thể làm được gì để sửa chữa. Sự suy đồi của tầng lớp hạ lưu (say rượu, ly hôn, nạo thai, phạm tội…) và sự tây hóa (đi du lịch, vượt biên, sùng bái vật chất…) của tầng lớp thượng lưu đang diễn ra. Trong nhận thức của dân chúng thực sự đã có những khác biệt. Một đằng là lý tưởng và một đằng là sự vô liêm sỉ trắng trợn. Sự phân hóa xã hội và sự hình thành giai cấp tương lai, tội phạm hình sự và tham nhũng, chính sách dân tộc méo mó, tính bất hợp pháp và nguy hại trong việc bầu cử những nhân vật đứng đầu từ Kremli đến các nông trang tập thể, thiếu thốn mọi hàng hóa và các loại hình dịch vụ – tất cả những thứ đó đè nặng lên từng con người. Thêm vào đó là trong mỗi bài báo, mỗi bài phát biểu công khai, trong từng chương trình truyền hình luôn vang lên: “Cuộc sống đang trở nên…” Nghiêm túc mà nói, cuộc sống đã trở nên đến mức không thể chịu nổi. Người ta đã cố tình đưa hoàn cảnh ra khỏi tư duy lành mạnh và biến nó thành vô nghĩa. Cần phải có giải pháp và lỗi của chúng ta không phải là đã ủng hộ M. X. Gorbachov vào những năm 1985-1988, mà ở chỗ chúng ta đã không tự mình làm điều đó sớm hơn. Chúng ta đã bỏ qua mức độ phát triển cao của sự không xác định và đã phải nhận lãnh kết cục đáng buồn nhất.
Nhiệm vụ của KhrusovKhông một kẻ thù nào gây ra nhiều bất hạnh như Khrusov đã gây ra cho chúng ta bởi chính sách của ông ta đối với quá khứ của Đảng và Nhà nước chúng ta, cũng như đối với Xtalin.
D. F. Uxtinov (Trích biên bản công tác hội nghị BCHTW Đảng Cộng sản Liên Xô. Tài liệu tuyệt mật N°9)
Một loạt tiêu đề trong cuốn sách này có tên là “nhiệm vụ…”, tôi muốn đưa ra đoạn trích dẫn ngắn cho tiêu đề đầu tiên này. Để tránh bị quở trách vì tính không xác thực, tốt hơn cả là ngay từ đầu giải thích rõ rằng cho dù lời nói trong này trước hết là về những nhân vật chính trị lớn – những người đã góp phần phá hoại Liên Xô và xóa bỏ xã hội chủ nghĩa, nhưng hoạt động của họ có thể được luận giải một cách phong phú về mối quan hệ đối với những người khác – những nhân vật ít nổi tiếng, ít xuất hiện hơn. Không chỉ những nhân vật được đề cập tới trong các tiêu đề mà cả những nhân vật khác nằm trong bộ máy trung ương cũng như ở các vị trí khác, tại Liên Xô cũng như ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của những nhân vật được nêu tên ở đây sẽ lý giải về việc hành động thuộc khuynh hướng này đã từng diễn ra từ trước đó cũng như sau đó.
Đương nhiên, nhiệm vụ tiên quyết nhất của N. X. Khrusov là đoạt lấy quyền lực và nắm giữ lấy quyền điều hành. Toàn bộ sự kiện trong những năm 1953-1956 cần được xem xét qua chính lăng kính này. Đó là việc bắt giữ L. P. Beria và ban lãnh đạo cao nhất của Bộ Nội vụ – cơ quan An ninh quốc gia; cuộc đấu tranh với nhóm chống Đảng của những người theo chủ nghĩa Xtalin và kẻ a dua theo nó là D. T. Sepilov… Nên đánh giá thỏa đáng thái độ liều lĩnh của Khrusov và nói rõ rằng ông ta đã khởi động công cuộc phá hoại chính đất nước nuôi dưỡng ông ta. Chúng tôi dẫn ra đây một ví dụ trong lĩnh vực xây dựng quốc gia quan trọng nhất – địa chính trị: “Vào tháng 10 năm 1954, Bí thư thứ nhất BCHTW ĐCS Liên Xô là N. X. Khrusov tới thăm bán đảo Liêu Đông (Liaodun, Đông Bắc Trung Quốc). Khrusov tuyên bố về quyết định chuyển cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành phố Dalnhi và căn cứ hải quân Port-Artur, cũng như về việc rút toàn bộ quân đội Xô Viết…
Tướng Tư lệnh Sevtxov muốn khẳng định với Khrusov và Buganin về việc cần thiết tăng cường thêm hai sư đoàn cho Tập đoàn quân 39.
Bản báo cáo mới bắt đầu chưa được ba phút thì Khrusov đập mạnh tay xuống bàn và quát: “Ba hoa đủ rồi! Tốt hơn hãy nói, anh ở đây làm gì? Phải, tôi hỏi: anh và quân của mình làm gì ở đây, ở Liêu Đông này?
Vị Tư lệnh không hề chuẩn bị câu trả lời cho câu hỏi như vậy. Nhìn thẳng vào Khrusov với vẻ thiếu tin cậy, ông bình tĩnh trả lời: “Bảo vệ tuyến Viễn Đông của Tổ quốc chúng ta”.
Khrusov ngắt lời ông và tức giận tuyên bố: “Đó là chính sách của Nga hoàng, đế quốc. Bây giờ anh định ở đây bảo vệ ai và chống ai? Tốt hơn là cứ nói với tôi, cần bao nhiêu thời gian để ở đây không còn một người lính nào của anh, thậm chí cả tinh thần của anh”.
… Thiếu tướng Tham mưu trưởng V. V. Turantaiev cất lời: “Nikita Xergeievich (Khrusov)! Tại Nam Triều Tiên (ông chỉ lên bản đồ) hiện nay, ngoài quân Nam Triều Tiên còn có Tập đoàn quân số 8 được tăng cường của Mỹ đóng tại đây. Chỉ riêng trong thành phần của Tập đoàn quân này có tới 500 xe tăng. Vì sao liên quân của 15 quốc gia được người Mỹ cùng với sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc đưa tới đóng quân ở đây… Như người Mỹ, nếu họ muốn, thì sau ba ngày đêm, họ sẽ có mặt ở đây, ở Kvantun này”.
Khrusov ngắt lời Turantaiev và tuyên bố: “Sẽ không có chuyện này. Đó là ban lãnh đạo cũ của nước ta đã chiếm đoạt, đã mượn đất này của người khác: ở Trung Quốc, Triều Tiên, ở Phần Lan, còn chúng ta bây giờ phải giải quyết việc này”.
Turantaiev định phản đối: “Không, Nikita Xergeievich. Trong việc này, những gì mà ban lãnh đạo cũ của đất nước đã làm là nhằm đảm bảo cho nền an ninh của Tổ quốc chúng ta. Mà chúng ta cũng không thể rút khỏi đây. Chúng tôi có mặt ở đây còn để làm căn cứ cho Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa, chúng ta hỗ trợ tinh thần cách mạng và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bạn”.
Khrusov ngắt lời Turantaiev và lớn tiếng: “Mặc cho người Trung Quốc tự lo cho họ. Chúng ta đã cho không họ nhiều rồi. Mà tôi muốn Tư lệnh nói ngay với tôi bây giờ: cần bao nhiêu thời gian để không một ai trong số các anh còn ở lại đây. Còn những đội quân mà Tham mưu trưởng vừa nói với tôi sẽ băm viên các anh ở đây, như người Nhật họ đã làm vào năm 1904, còn các anh đang làm cho chúng tôi phải quá bận tâm để giúp các anh đi khỏi đây”. Nhưng Turantaiev không hề bối rối: “Hãy cho chúng tôi thêm hai sư đoàn và chúng tôi không để họ băm viên mình”.
Khrusov: “Chúng tôi sẽ không cho! Các anh sẽ rút khỏi đây, bọn Mỹ cũng sẽ rút”. (Vậy mà người Mỹ cho đến ngày nay chưa rút)…
“Mà Bộ chỉ huy các anh cần bao tháng để rời khỏi đây?”.
Svetxov đã trả lời: “Khoảng 3-4 tháng”.
Tướng Penionizco, có mặt tại đây, nói: “Không đủ!”.
Khrusov: “Tôi cho 5 tháng. Để sau thời gian đó không còn một ai trong các anh ở đây. Còn bây giờ ta chuyển qua việc: cái gì bán cho Trung Quốc và cái gì thì cho họ”…
Vào ngày thứ hai mươi của tháng 10, qua báo chí nhận được, chúng tôi biết rằng, sau cuộc nói chuyện đó tại Bộ chỉ huy một ngày, ngày 12 tháng 10 năm 1954, báo “Sự thật” công bố “Tuyên bố chung của Chính phủ Liên Xô và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, trong đó nói tới việc rút toàn bộ các đơn vị quân đội Xô Viết ra khỏi vùng Port-Artur -Dalnyi…
“Toàn bộ những gì ở đây (Kvatun) được Nga hoàng, chúng ta và người Nhật – doanh trại, nhà cửa, kho tàng, đập nước, … trao miễn phí, không hoàn lại cho người Trung Quốc. Còn những gì chúng ta chuyển từ Liên Xô tới đây – thì bán”.
A. M. Peniozco, ngồi cạnh tôi, xin phép được hỏi. “Theo tôi hiểu – anh ta nói – doanh trại và những công trình xây dựng khác là cho miễn phí, thế còn những thứ chúng tôi đưa vào trong doanh trại, những thứ được gọi là của cải như: giường, tủ, giá áo, bồn tắm, dụng cụ chữa cháy và cấp dưỡng – thì bán. Mà những thứ đó, so với nhà cửa, thì chẳng đáng gì. Nói tóm lại, tài sản gì quý giá thì cho, còn thứ vặt vãnh thì bán?”…
Tại Văn phòng của Xerov (Đại tướng, Chủ tịch KGB – ủy ban An ninh quốc gia) tôi được biết nhiều chuyện thú vị: Liệu tôi có hiểu hết những gì Nikita Xergeievich nói khi gặp Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân? Tôi trả lời: “Không hiểu tất cả, nhưng về nguyên tắc tôi hiểu là chúng ta rút lui khỏi đó”. Xerov nói: “Tôi nhắc lại rằng những gì ở đây sẽ làm không như những gì đồng chí Khrusov đã nói”.
Lẽ ra tôi đã không dẫn ra đoạn trích vạch rõ hoàn cảnh phản bội của N. X. Khrusov về lợi ích địa chính trị của Liên Xô, nếu không có tình huống tương tự xảy ra giữa Bộ tổng Tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô và M. X. Gorbachov. Một sự trùng hợp lịch sử. Có một chi tiết là sự kiện được mô tả xảy ra vào ngày 13 tháng 10 năm 1954! Còn ngày 14 tháng 10 năm 1964, đúng 10 năm sau – N. X. Khrusov phải rời bỏ cương vị – Bí thư thứ nhất BCHTW và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.
Ngoài việc “triệt thoái” khỏi các vị trí đóng quân chiến lược, quân đội và hải quân đã phải chịu “những đòn tấn công từ trên dội xuống” khác: giải trừ quân bị. “Từ đầu những năm 1960, theo yêu cầu tha thiết của Khrusov, nhiều tầu chiến lớn của Hải quân đã bị đưa đi phá hủy và nấu thành thép, nhiều máy bay hạng năng cũng đã bị cắt giảm tối đa và bị phá hủy hoàn toàn. Cùng với chúng còn cả loạt trang thiết bị… Nhiều viện nghiên cứu quốc phòng giá trị bị đóng cửa. Nhiều chuyên gia giỏi phải chuyển việc. Quân số của lực lượng vũ trang trong những năm 1955-1960 bị giảm 3.980.000 người. N. X. Khrusov đã ngụy trang sự phản bội của mình bằng việc giải trừ quân bị. Kinh nghiệm này của ông ta, về sau này, đã được M. X. Gorbachov, B. N. Eltxin… vận dụng.
Hành vi tội lỗi cuối cùng của N. X. Khrusov – bản báo cáo tại đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Theo quan điểm của những người khác từng nghiên cứu những sự kiện trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, việc tác động tư tưởng và tinh thần đối với Đảng và nhân dân đang được đưa lên vị trí hàng đầu. Cần lưu ý tới một thực trạng là không có một tổ đảng nào, cho dù nhỏ nhất, của Đảng Cộng sản Liên Xô phát biểu phản đối bản báo cáo của N. X. Khrusov. Chính do không có một phản ứng nào trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đối với hành động của N. X. Khrusov bôi nhọ I. V. Xtalin mà bản Quyết nghị của BCHTW Đảng Cộng sản Liên Xô “Về việc khắc phục sự sùng bái cá nhân và hậu quả của nó” đã được thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1956.
N. X. Khrusov luôn có những hành động phụ họa với kẻ thù bên ngoài. CIA đã có được toàn văn bản báo cáo và cho công bố nó vào tháng 6 năm 1956 với lời tựa “Chính những người Nga công nhận sự tàn bạo của mình” và ngay trong bài này còn đưa ra câu hỏi: Liệu đây có phải là phản ứng đồng thuận đầu tiên của BCHTW ĐCS Liên Xô với cơ quan mật vụ phương Tây?
Không thể tin cậy N. X. Khrusov trong bất cứ việc gì: “Trong những năm 1950, CIA (và tất nhiên cả FBI) đều thận trọng lần tìm nguồn gốc rò rỉ thông tin từ giới lãnh đạo Mỹ. Chính những lời ba hoa của Khrusov và một số chính khách – những người thường xuyên đưa nội dung một số tài liệu có được từ K. Fillby vào bài phát biểu của mình, đã buộc CIA lần cho ra được vụ này. Khrusov lúc đó thường tuyên bố: “Tổng thống Mỹ chỉ biết lo nghĩ, còn trên bàn làm việc của tôi đã có thông tin về việc đó”. Rõ ràng, một trong những động cơ của lãnh đạo KGB Liên Xô tham gia vào âm mưu hồi tháng 10 năm 1964 là mong muốn chấm dứt sự rò rỉ thông tin.
Những cuộc cải cách bất tận, thoạt nhìn có vẻ khó hiểu như những cuộc cải cách hiện nay, đã được N. X. Khrusov liên tục tiến hành trong suốt thời gian nắm giữ quyền lực. Ví dụ như, theo bộ luật “Về việc tiếp tục hoàn thiện điều hành công nghiệp và xây dựng” được thông qua hồi tháng 5 năm 1957, cả nước đã có 105 hội đồng kinh tế nhân dân được thành lập – đất nước đã sẵn sàng phân hóa theo nguyên tắc khu vực hóa nền kinh tế. V. E. Xemichaxtnyi (người mới qua đời cách đây không lâu) đã cho biết về mong ước to lớn của N. X. Khrusov là tách cơ quan KGB ở địa phương ra làm hai (Giống như Ban Chấp hành tỉnh được chia ra thành: công nghiệp và nông nghiệp!) và “làm phân liệt và rối loạn” toàn bộ KGB. Điều này dẫn tới việc sa sút kỷ cương, nhà tù Lubianca chật cứng những kẻ tình nghi. Sau này cũng đã xảy ra những sự kiện tương tự.
N. X. Khrusov, rốt cuộc đã hoàn thành một nhiệm vụ có triển vọng sâu xa liên quan tới “cải tổ”, chứ không liên quan tới “tiết trời ấm áp”. Ông ta đã tiến hành một cuộc thử nghiệm: Liệu có thể thực thi “điều vô lý” của quyền lực trong chừng mực bao lâu, còn trên thực tế, đó là sự phá họa và hủy diệt công khai một đất nước như đất nước Xô Viết, trong khi đó vẫn không hề bị nghi ngờ là đang ra sức thực hiện đảo chính nhằm thay thế người lãnh đạo Đảng. Đáp số thu được là khoảng trong 10 năm.
Nếu đem so sánh sự nghiệp phá hoại của N. X. Khrusov với cuộc “cải tổ” trong tương lai thì thấy rằng, những năm tháng ấy, ông ta đã hành động đơn độc trong Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô. Dù xung quanh ông ta có những nhân vật trung thành và biết vâng lời ông ta đến chết như: A. I. Mikoian và A. I. Adzubei. Nhờ những người này, ông ta có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua Bộ Ngoại giao; Trong ban lãnh đạo cũ cũng có những nhân vật mà trong văn chương ngày nay tên tuổi của họ thường được gắn với những từ ngữ xấu xa – đó là những bí thư BCHTW chuyên lo những vấn đề về về công tác tư tưởng (P. N. Demichev, L. F. Ilichev, O. V. Kuxuinen, B. N. Ponomariov, P. N. Poxpelov, N. N. Satalin, M. A. Xuxlov). Nhờ Bí thư thứ nhất mà Iu. V. Andropov và S. P. Rasidov có danh vọng. N. X. Khrusov có đủ khả năng để gạt bỏ những người thân cận với Xtalin. Nhưng dù sao, như một kẻ tích cực phá hoại hệ thống Xô Viết trên quy mô toàn quốc, N. X. Khrusov vẫn là kẻ đơn độc. Đó là do kết quả của những cuộc thanh lọc dưới thời Xtalin. Từ đây, có thể rút ra kết luận rằng, trong Bộ Chính trị, M. X. Gorbachov còn có ít nhất hai chiến hữu ngang tầm với ông ta về cương vị và âm mưu là E. A. Sevardnadze và A. N. Iacovlev.
Xét theo quan điểm lịch sử, không rõ Gorbachov hay Khrusov, ai hơn ai, đáng được thưởng vì công lao phá hoại Liên Xô. Khrusov đã làm được một điều dường như không thể: đặt cơ sở phá “Lục địa Đỏ”, đã lật ngược lại sự phát triển. Dưới thời ông ta và sau đó đất nước Xô Viết đã không thể phát triển được. Nhưng từ sâu thẳm, nền tảng của sự phát triển đã ló dạng và được phương Tây công nhận: Vào cuối tháng 11 năm 1964, tại buổi lễ kỷ niệm W. Churchill 90 năm, trong Nghị viện Anh đã có người đề nghị nâng cốc chúc Churchill có tư cách là kẻ thù sáng giá nhất của nước Nga. Churchill đáp lời: “Quả đáng tiếc, bây giờ đã có một người làm hại đất nước Xô Viết hơn tôi cả nghìn lần. Đó là Nikita Khrusov. Chúng ta hãy chúc mừng người đó”.
Địa chính trị “nội bộ” – 1Cùng với nhiều yếu tố khuyết điểm trong hệ thống Xô Viết, chính sách dân tộc thiếu thận trọng đã chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Trong các nước công hòa của Xô Viết đã tồn tại những khác biệt cả về chủ quan lẫn khách quan: tính không đồng đều trong tình hình xã hội, những bước đột phá trong phát triển kinh tế, mức chênh lệch trong thu nhập quốc dân tính theo đầu người, tình trạng mị dân được biểu hiện trước hết ở mức tăng dân số tự nhiên hàng năm khác nhau, sự đa dạng của các mô hình kinh tế – tất cả những cái đó và nhiều cái khác đã khẳng định về việc Liên bang là một cơ cấu đa dân tộc. Chúng tôi xin chỉ tách ra một thành tố từ tất cả sự đa dạng đó – những sai lầm trong việc xác định đường biên giới giữa các dân tộc. Chúng tôi tôi gọi nó một cách ước lệ là – địa chính trị “nội bộ”.
Trong đế quốc Nga, quá trình được bắt đầu từ dưới thời trị vì của Nga hoàng, Đại công tước Finliand. Alecxandr I “đã tặng” cho Đại công tước Finliand thành phố Vyborg. Theo thời gian, Phần Lan trở thành một quốc gia độc lập, sau đó lại là một quốc gia thù địch tới mức đe dọa Leningrad – đây là một trong những nguyên nhân của cuộc Chiến tranh Phần Lan 1939-1940.
Những “méo mó” trong chính sách dân tộc còn được bắt đầu ngay khi những người Bônxêvich lên nắm chính quyền: “Cơ cấu quốc gia – dân tộc của đất nước được hình thành nên từ những ảnh hưởng của những lợi ích và tình hình chính trị cụ thể trong những năm 1920-1930 và thiếu tính kế thừa. Điều đó gây nên những bất tiện to lớn, và đôi khi là ách áp bức dân tộc trực tiếp, khi ban lãnh đạo có đầy đủ quyền lực và dân chúng thuộc quyền đã thuộc về các dân tộc mang bản sắc văn hóa khác nhau. Thí dụ điển hình là – Vùng tự trị Nagornyi-Karaback (HKAO). Phần lớn dân chúng vùng tự trị là người Armeni, trong khi ban lãnh đạo được bổ nhiệm lại từ Bacu. Điều đó, trong từng giai đoạn, đã tạo ra xung đột từ phía quần chúng (gần đây nhất là vào năm 1965). Giới trí thức Armeni trong các trường hợp thuận lợi đã nhắc nhở các cấp chính quyền về vấn đề Nagornyi-Karaback. Như trong thời gian thảo luận Hiến pháp năm 1977, tại những cuộc họp đảng trong các cơ quan khoa học và văn hóa của Armeni, đã bàn tới khả năng đổi tên HKAO thành “HKAO Armeni”, thậm chí tên của nó là Armeni. Những người cộng sản Armeni đã chỉ ra những bất hợp lý của tình trạng HKAO được chuyển cho Azerbaizan chỉ vì những cân nhắc về mặt kinh tế, trong khi đó dải đất của Armeni được tách ra khỏi Azerbaizan có vùng tự trị Nakhichevanxk vẫn nằm trong thành phần của nước cộng hòa này. Người Armeni một mực đòi chuyển cho nước Cộng hòa Armeni hoặc HKAO, hoặc Nakhichevanxk. Những người cộng sản Armeni đã đưa ra 16 kiến nghị về việc đổi tên HKAO và 45 kiến nghị về quyền vùng tự trị này được chuyển vào thành phần nước Cộng hòa Armeni. Dường như Ban lãnh đạo Liên Xô đã có thể chấp thuận những cảnh báo cấp thiết này và xem xét quyết định của năm 1920. Tuy nhiên, điều đó không phù hợp với các nguyên tắc trong chính sách của Breznev, trong đó cho rằng mọi thay đổi chỉ đưa tới khuynh hướng phân ly các dân tộc. Một đường lối như thế không thể không dẫn đến việc căng thẳng ngày càng cao.”
Hoạt động của N. X. Khrusov tỏ ra đặc biệt bất nhất kể từ khi ông ta chỉ là kẻ thuộc quyền cũng như khi đã là nhân vật đứng đầu đất nước.
Chỉ mới ngày 27 tháng 1 năm 1938, khi tiến hành bầu ông ta làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Bônxevich) Ucraina và “… vào đúng ngày này, tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Bônxevich) Ucraina, ngoài vấn đề về tổ chức còn đề cập tới cả một số vấn đề đang diễn ra – về số phận của các khu dân tộc từng tồn tại trong Ucraina. Có 10 khu vực như vậy, trong đó có 3 của người Bungari, 5 của người Đức và 2 của người Thổ. Trong lời than thở của mình, N. X. Khrusov đã nhận xét rằng người Ucraina ở đó đang bị áp bức. X. V. Koixor (từ tháng 7 năm 1928 là Tổng (thứ nhất) bí thư BCHTW Đảng (Bônxevich) Ucraina; từ tháng 1 năm 1938 là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Chủ tịch ủy ban gia kiểm tra trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, ủy viên Bộ Chính trị BCHTW Đảng (Bônxevich) toàn liên bang trong những năm 1930-1939; bị bắt giam năm 1938 và bị xử bắn năm 1939) đã quyết định làm rõ ý kiến của Nikita Khrrusov và như ta thường nói, đi thẳng vào vấn đề: “Xử lý những vấn đề này thế nào?”. Câu trả lời là: “Không thể xóa bỏ chúng, nhưng để cũng không được”.
Năm 1939, sau khi các vùng phía Tây Ucraina và Belorusia nhập vào với chúng ta, ông lại nhắc tới quan điểm của mình về sự méo mó của chính sách dân tộc trong đất nước. Về việc này, như P. K. Ponomarenco – vào thời kỳ đó là cựu Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng (Bônxevich) Belorusia – nhớ lại: “Ngay sau khi giải phóng vùng phía Tây Ucraina và phía Tây Belorusia đã nảy sinh vấn đề địa giới hành chính giữa hai vùng mới này của đất nước. Theo Quyết nghị của Xô Viết Tối cao Liên bang ngày 1 và 2 tháng 9 năm 1939, các Xô Viết Tối cao nước Cộng hòa Ucraina và Belorusia phải trình những dự thảo phân định biên giới các khu vực phía Tây và vùng giữa hai nước Cộng hòa này để Xô Viết Tối cao Liên bang xem xét.
Tôi không cho rằng trong vấn đề này có thể nảy sinh vấn đề gì phức tạp vì biên giới sắc tộc đã khá rõ ràng. Nó trải từ Đông sang Tây của các thành phố Pinxk, Kobrin và Brext.
Vào một ngày xuân năm 1939, tôi đang có mặt tại Beloxtok thì được gọi về Vụ Tổ chức BCHTW Đảng (Bônxevich) Liên bang và nhận được thông báo rằng N. X. Khrusov đã chuẩn bị và đệ trình BCHTW Đảng (Bônxevich) những đề nghị của mình về biên giới trong khi phía Belorusia chưa thực hiện. Qua một ngày sau chúng tôi được phép nghiên cứu bản dự thảo của Ucraina.
Bản dự thảo của Khrusov về đường biên giới giữa hai vùng miền Tây đã thực sự làm cho tất cả chúng tôi phải bàng hoàng. Ngay chiều hôm đó chúng tôi đã triệu tập họp Văn phòng BCHTW Đảng (Bônxevich) Belorusia để thảo luận về đề nghị của Ucraina và soạn ra ý kiến phản biện của mình.
Theo phương án của Khrusov, biên giới giữa hai vùng phía sáng Tây lệch hẳn về phía Bắc của đường biên giới sắc tộc tự nhiên đã được công nhận, hơn nữa là các thành phố Brext, Pruzana, Stolpin, Pinxk, Lyninetz và Kobrrin cũng như phần lớn vùng rừng rậm Belovezxk sẽ thuộc về Ucraina.
Không thể nào chấp nhận được bản dự thảo này, chúng tôi đã đưa vào đề nghị của mình rất nhiều tư liệu lịch sử, kể cả những tài liệu lưu trữ. Cuối cùng, bản dự thảo cũng đã được chúng tôi hoàn thành.
Ngày 22 tháng 11, tôi được triệu tập về Mátxcơva để báo cáo dự thảo này. Trong thời gian ở Thủ đô, cũng ngay chiều hôm đó tôi nhận được lời mời của I. V. Xtalin. Khi tôi vào phòng khách ở Kremli, Khrusov đã ở đó cùng với bản dự thảo và nụ cười của mình. Ông ta đang trao đổi với A. N. Poxkrebysev – Thư ký của Xtalin. Sau lời tôi chào, Khrusov hỏi tôi rằng đã chuẩn bị các đề nghị về đường biên chưa và thực chất chúng ra sao. Với thái độ tôn trọng cần thiết đối với Khrusov là ủy viên Bộ Chính trị BCHTW Đảng và là nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng, tôi cố nói một cách tế nhị nhất: “Chúng tôi đã chuẩn bị dự thảo, song nó không trùng với của các anh. Sau đó tôi đã nói rằng, chúng tôi đề nghị đường biên giới phù hợp với thành phần sắc tộc của dân cư và biên giới đó, theo chúng tôi, phải về phía Nam các thành phố Pinxk, Lunitx, Kobrin, Baranovichi và Brext, do đó những thành phố này và vùng rừng Belovezxk phải thuộc về thành phần của Belorusia Xô Viết.
Khrusov nhảy dựng lên và nói một cách thô tục: “Kẻ nào gợi ý cho anh trò ngớ ngẩn đó, mà anh có thể căn cứ vào cái gì cơ chứ?”. Tôi trả lời rằng những đề nghị chúng tôi mang tới đây là do các thành viên BCHTW Đảng của Belorusia soạn thảo. Chúng tôi hoàn toàn không cho đây là trò ngớ ngẩn và sẵn sàng nêu ra những bằng chứng trên cơ sở thống kê và lịch sử. Khrusov tuyên bố rằng các nhà sử học Ucraina có quan điểm khác và tôi đã nêu đề xuất của mình về biên giới. Tôi đáp lại: “Thật khó cho các nhà khoa học phải xác định ra đường biên giới mâu thuẫn với hiểu biết về sắc tộc, thống kê và lịch sử”.
Khrusov nổi đóa và gằn giọng với vẻ độc ác: “Thì ra anh không tin các nhà khoa học, anh biết nhiều hơn những người khác? Mà anh biết gì chứ? Thế anh có biết được rằng từ thời Trung cổ, trên vùng lãnh thổ mà các anh muốn nó thuộc vào thành phần của Belorusia đã và hiện đang có người Ucraina sinh sống, như Nalivaiko, Bogdan Khmelnitxki và nhiều người khác đã lấy dân chúng ở các vùng lãnh thổ này lập quân đội của mình, rằng có nhiều sách lịch sử hoàn toàn không đả động gì về mối liên hệ giữa vùng này với Belorusia, v.v…”.
Tôi trả lời ông ta: “Đồng chí Khrusov, hiện giờ tôi không quan tâm tới giọng nói và thái độ thô tục của đồng chí đối với tôi. Đây không phải là vấn đề của cá nhân. Thậm chí nếu bất chấp đề nghị của chúng tôi, những vùng này vẫn được đưa vào thành phần của Ucraina, thì cũng chẳng có một thảm họa nào xảy ra. Chúng ta là một nước, mà Ucraina cũng thuộc về Xô Viết. Nhưng tôi có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của Belorusia và tôi có cơ sở về những lời đề nghị của mình”
Đúng lúc đó Xtalin cho gọi chúng tôi. Ông ngồi một mình trong Văn phòng. Sau lời chào của chúng tôi, ông nói: “Chào những người German, sao, có chuyện gì về biên giới? Các anh chưa đề nghị à? Chưa bắt đầu một cuộc chiến tranh về biên giới đấy chứ? Các anh đã tập trung quân chưa? Hay đã thỏa thuận hòa bình được rồi?”. Sau đó Xtalin mời chúng tôi ngồi để báo cáo phương án của mình. Khrusov và tôi lấy các văn bản và sơ đồ biên giới ra. Nikita Xergeievich báo cáo trước. Ông ta trải bản sơ đồ lên bàn và trình bày nội dung phương án của mình.
Xtalin lắng nghe, đứng lên đưa ra tấm bản đồ của mình và đề nghị Khrusov chỉ trên sơ đồ tuyến biên giới.
Sau phần báo cáo của tôi và phần trả lời hàng loạt câu hỏi, Xtalin tuyên bố dứt khoát: “Biên giới mà đồng chí Khrusov đề xuất hoàn toàn không chấp nhận được. Nó không hề có cơ sở nào hết. Nó không phù hợp với công luận. Không thể nói là Brext và vùng rừng Belovezxk là những vùng của Ucraina. Nếu thông qua đường biên này thì những phần phía Tây của Belorusia thực sự biến mất. Đây là một chính sách dân tộc tồi tệ”.
Sau đó, quay về phía Khrusov, để làm dịu bớt lời tuyên bố của mình, Xtalin nhận xét: “Anh nói thật xem, khi đưa ra đề nghị này, có lẽ, anh định có được vùng rừng này do rừng của các anh ít quá?”.
Khrusov trả lời: “Vâng, thưa đồng chí Xtalin, tất cả chỉ vì rừng chúng tôi ít quá”
“Đấy là chuyện khác, – Xtalin nói, – có thể tính đến điều đó. Belorusia đề nghị đúng về đường biên giới cơ sở. Phương án đó thể hiện tính khách quan và họ đã tự đề nghị vùng Kamen – Kasirxk thuộc về Ucraina. Chúng tôi khẳng định đường biên giới, về cơ bản, trùng với dự thảo của đồng chí Ponomarenko, nhưng có chỉnh lại một số vị trí theo nguyện vọng của Ucraina muốn có một ít rừng”. Ông lấy tấm bản đồ và vạch ra một tuyến biên giới hầu như trùng hoàn toàn với đề nghị của chúng tôi. Chỉ ở vị trí tạo nên một quần thể màu xanh trên bản đồ là hơi uốn về phía Bắc và ông nói: “Hãy để vùng này cho Ucraina”.
Tôi muốn đưa ra ví dụ này, khi những âm mưu và manh tâm của những nhân vật lịch sử đã bị phát giác tới từng chi tiết, để thấy diễn biến và quyết định cuối cùng của nó giống như một chiến dịch. Gieo rắc lòng thù địch giữa các dân tộc, dường như, khá đơn giản – chỉ cần ban lãnh đạo cao nhất thông qua một quyết định gây phương hại tới một bên.
Trong những năm cầm quyền N. X. Khrusov toàn bộ sách lược dưới dạng những sự kiện, thoạt nhìn vô hại, nhưng là một chính sách dân tộc rất thâm độc được che đậy trên thực tế, ẩn chứa trong đó hàng loạt nguy cơ. Việc này và việc chuyển giao Krym (cả Sevaxtopol) cho nước Cộng hòa Ucraina trong năm 1954, vào thời gian đó được được đề cập rất nhiều ở Nga – vì đây là nguyên nhân của cuộc tranh luận pháp lý nổi tiếng vào đầu những năm 1990 với phía Ucraina. Ngày 9 tháng 1 năm 1957, Khu tự trị Checheno-Ingusxk được khôi phục, trong đó có 3 vùng thuộc Nga: Narurxk, Kargalinxk và Senkovxk vì một phần của vùng Prigorxk vẫn nằm trong thành phần của khu tự trị Severo-Oxetinxk…
D. A. Kunaiev, ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô, Bí thư thứ nhất BCHTW ĐCS Kazakhxtan nhớ lại: “Tôi từng làm việc chừng 10 năm dưới sự lãnh đạo của Khrusov… Một trong số những va chạm đầu tiên giữa chúng tôi là khi ông ta đề nghị tôi chuyển một số vùng trồng bông cho Uzbekixtan. Tôi đã kiên quyết phản đối. Đúng lúc đó, Iuxupov Ixmail – Bí thư thứ nhất Đảng bộ vùng Nam Kazakhxtan đã viết thư cho Nikita Xergeievich để bày tỏ đề nghị tương tự. Bất chấp sự phản đối của tôi, Khrusov buộc tôi chấp hành kỷ luật Đảng mà chuyển giao các vùng Zetixaixk, Kirovxk và Pakhtaaralxk cho nước Cộng hòa Uzbekixtan. Sau này tất cả những vùng này đã được trả lại.
Ngoài ra, Khrusov cùng từng đề nghị về việc tổ chức Txelino, sau là vùng Tây Kazakhxtan và Nam Kazakhxtan. Tôi lại không nhất trí. Thời gian cho thấy tôi đã đúng – sau đó các vùng này đã tổ chức ăn mừng.
Các ý kiến của chúng tôi về tương lai của Mangyslak cùng không thống nhất, khi bỗng dưng Khrusov đặt vấn đề: “Mangyslak là một bán đảo vô cùng giàu có. Chỉ dân Thổ (Turkmen) mới có thể khai thác dầu mỏ ở đó. Nên chuyển cho họ”. Ông ta bỏ ngoài tai mọi lời phản đối của tôi bởi tôi đòi ông ta đàm phán với Bộ trưởng địa chất Xidorenko. Xidorenko đã ủng hộ tôi. Khrusov đã buộc phải để lại Mangyslak cho Kazakhxtan”.
Sự trì trệ được gọi là “trì trệ” bởi những quyết định cơ bản luôn bị gác lại “để sau”. Cựu Chủ tịch KGB là V. E. Xemichatxtnyi nhớ lại, rằng “Mọi người đã nhiều lần khuyên Breznev: Hãy thiết lập ra dưới thời ĐCS Liên Xô định chế về các vấn đề dân tộc thay cho định chế chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta có đủ những trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan khoa học mác xít, vậy mà không có một ai nghiên cứu hay soạn thảo các vấn đề dân tộc cho ra đầu ra đũa, cho nên các vị lãnh đạo từ trung ương đến địa phương thường sáng tạo dẫn chứng sai lầm”. Còn theo bằng chứng của một vị từng lãnh đạo KGB rất thạo tin khác thì “Mỹ và NATO rất quan tâm tới vấn đề dân tộc ở Liên Xô”.
Cần phải chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo khác cũng từng hành động theo đúng cách này. I. V. Xtalin cùng đã từng mở rộng biên giới Ba Lan vì nước Đức. Người Đức đã di cư khỏi Cộng hòa Liên bang Đức. Chỉ khi nào mối quan hệ hợp tác còn tồn tại thì còn chưa và không thể xảy ra xung đột. Nhưng khi tình hình đó bị phá vỡ, người Đức đã lập tức công bố chủ quyền của họ.
Sự điều hành ở Liên Xô. 1953-1985Trong những năm trì trệ lớn, việc điều hành ở Liên Xô đã trải qua nhiều chặng đường: kế hoạch xây dựng chủ nghĩa cộng sản có thời hạn cụ thể (Cương lĩnh thứ 3 của ĐCS Liên Xô); các cuộc thử nghiệm thời Khrusov; sự lạc hậu kinh tế so với thế giới và đặc biệt là so với các chỉ số của phương Tây dẫn tới tình trạng tiền khủng hoảng. Ban lãnh đạo cao cấp của đất nước là những người trước hết phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về điều đó. Làm sao lại có thể xảy ra việc một đám những kẻ vô tình ngự trên đỉnh cao điều hành Liên Xô và một nửa thế giới xã hội chủ nghĩa như vậy? Hệ thống cần loại lãnh đạo – robot thừa hành bằng mọi giá những kế hoạch không do mình vạch ra mà do trên ép xuống. Từ kế hoạch đó hắn ta nhận các nguồn vốn và vật lực mà không cần tìm người cung ứng. Từ kế hoạch đó hắn nhận bàn giao các xí nghiệp có thứ sản phẩm chỉ bỏ vào kho. Hắn ta không cần tìm kiếm thị trường. Người ta quyết định thay cho hắn việc cái gì cần cho nhu cầu… còn nếu muốn khích lệ ai đó thì hắn cũng chẳng thể làm được bởi hắn bị hạn chế bởi mọi thứ. Mọi sáng kiến ngoài kế hoạch đều không được chấp nhận. Chủ nghĩa xã hội (cùng với đặc tính điều hành kinh tế quan trọng nhất – Kế hoạch) so với chủ nghĩa tư bản (Thị trường) đã vi phạm những nguyên lý điều hành cơ bản nhất. Do thiếu định chế liên hệ ngược đáng tin cậy giữa chủ thể với khách thể điều hành nên rốt cuộc đã rơi vào thảm họa. Mối liên hệ ngược đáng tin cậy của chính phủ với quần chúng là sự bảo đảm cho việc thông tin sẽ được chuyển tới đúng địa chỉ, sẽ có sự điều chỉnh và mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Không có một chính phủ nào có thể tự mình ôm đồm cả một biển thông tin vô tận. Chỉ có người dân trong đám quần chúng mới có thể đưa ra lời giải thích khoáng đạt, thật sự tự do về những quá trình đang diễn ra. Không phải vô tình, trong tâm trí của chính nhân dân Nga chúng ta tìm thấy được những luận giải thông tuệ tới mức vượt trên mọi lý luận. Hoàn toàn có thể rút ngắn một phần công tác thông tin: trao quyền cho địa phương; lắng nghe ý kiến của cấp dưới; kịp thời điều chỉnh linh hoạt – sửa mọi lỗi lầm của mình và của những người tiền nhiệm; giải phóng ý chí từng bị trói buộc (do thiếu công cụ mà lại quá thừa quan liêu. Tất cả đều lệ thuộc vào khuôn khổ luật pháp hay tư tưởng đã từng tuyên bố) của quần chúng để lao động của họ thực sự sáng tạo để rồi chính phủ nhận được một kết quả – chi phí cho bộ máy sẽ giảm nhiều. Thiếu một cơ chế như thế, rốt cục, sẽ dẫn tới thất bại.
Mọi người đều biết, sự chậm trễ của tín hiệu trong hoạt động thần kinh cao cấp của loài thằn lằn thời tiền sử đã dẫn tới việc thông tin từ đuôi lên tới não bộ mất 8 phút. Với thời gian đó một con thú ăn thịt có thể xơi chính nó từ đuôi lên mà không hay biết gì. Người ta đã biến đất nước chúng ta thành con thằn lằn đó một cách có ý thức. Chỉ có điều các con thú ăn thịt đã xơi nó không phải chỉ trong tám phút mà lâu dài hơn.
Trong việc điều hành đất nước người ta đã không tuân thủ nguyên tắc về tính thích ứng trong sự đa dạng của chủ thể và khách thể điều hành. Điều này trước hết có ý nghĩa gì? Những quyết định quan trọng nhất đã được bộ máy BCHTW ĐCS Liên Xô thông qua. Và mặc dù trong cơ cấu của nó, mọi mặt đời sống của quốc gia đã được phản ánh song việc điều hành đã không tương thích ở mức độ cần thiết.
Điểm không tương thích trước hết là vị trí (quan điểm) giữa khách thể điều hành với số lượng người điều hành: Trong bộ máy BCHTW ĐCS Liên Xô đã có tất cả chừng hai nghìn cán bộ chức năng. Còn ở quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), chỉ trong một tòa nhà có tám nghìn nhân viên. Trong bộ máy nhà nước Mỹ, người ta thuê từ 17 đến 20% dân số, còn ở Liên Xô chúng ta, số người điều hành chỉ có vỏn vẹn 12% (Trong BCHTW có 1940 cán sự và 1275 cán bộ kỹ thuật).
Trong những năm sau chiến tranh, số lượng xí nghiệp, cơ quan, tổ chức đã tăng lên gấp 10 lần, sự phức tạp về xã hội đã diễn ra với quy mô và tốc độ mà trước đó chưa từng có trong lịch sử nhân loại để thống nhất được một bộ máy khổng lồ như Liên Xô. Bản chất của khủng hoảng này là ở chỗ: hệ thống quyền lực và điều hành xã hội Xô Viết được hình thành và đang hoạt động bình thường trước đó đã trở nên không thích ứng với những điều kiện mới; cần phải tăng bộ máy quyền lực và điều hành, đặc biệt là bộ máy của Đảng; cần phải tăng cường hệ thống độc lập kế hoạch và đưa vào kiểm soát nghiêm ngặt việc hoàn thành các kế hoạch; cần phải nâng cao chuyên môn cho các cán bộ trong hệ thống quyền lực và điều hành, cụ thể là cho các cán bộ thuộc hệ thống đảng cộng sản; tăng cường tập trung hóa nền kinh tế và việc điều hành chúng. Việc này đã và đang được làm ở phương Tây “thối rữa” thế nào? Họ có những văn phòng tư vấn mà đôi khi đưa ra những lời chỉ bảo có thể gây sốc vì chính sự đơn giản của chúng: “Hoạt động của nhiều văn phòng tư vấn ở Mỹ về vấn đề tổ chức và điều hành rất đa dạng. Khi ta đưa yêu cầu cho họ, ví dụ nhà máy chế tạo thiết bị chính xác, và bảo rằng: “Chúng tôi không hiểu mình sai lầm ở khâu nào. Chúng tôi đang sử dụng những kỹ thuật tốt nhất, kỹ sư của chúng tôi có kiến thức, giá thành sản phẩm thấp hơn của đối thủ cạnh tranh, thành phẩm của chúng tôi có giá trị cao hơn, song lợi nhuận lại thấp”. Nhân viên tư vấn sau khi có mặt tại nhà máy trong vài tuần, đôi khi tới vài tháng. Anh ta chẳng hề quan tâm tới các chi tiết của thiết bị (mà anh ta cũng chẳng biết gì về chúng). Anh ta ngồi theo dõi diễn biến của công việc, hỏi han các công nhân, im lặng tham dự những cuộc họp của giám đốc, xem các sổ sách của thủ quỹ, đọc các báo cáo. Thời gian trôi đi. Người tư vấn nộp bản báo cáo và khuyến nghị. Giám đốc thì chờ nghe được những lời khuyên đặc sắc nào đó, còn nhân viên tư vấn lại nói với ông ta rằng: “Hãy tổ chức lại bộ phận thông tin và báo cáo. Người của ông thường xuyên nhận được số lượng giấy tờ như thế, dẫu có đọc cả ngày cũng không xuể. Các văn bản nằm cả tuần lễ và chúng không đồng hành với công việc”. Giám đốc có tức giận, bi quan thì vẫn phải cố áp dụng các khuyến nghị, vì lợi nhuận là trên hết”.
Chính Liên Xô cần có một văn phòng tư vấn như thế và không thể nói rằng nó chưa có. Một số quan chức nhà nước có liên quan trực tiếp tới lĩnh vực thông tin, đặc biệt là tình báo, những người có quan hệ với các tổ chức của các nước phương Tây đã nảy sinh ý định thành lập tại đất nước chúng ta một cơ quan nhà nước có chức năng tư vấn để chấn chỉnh công việc của các bộ và giúp soạn thảo các báo cáo thông tin cho nguyên thủ quốc gia. Tuy dự án đó chưa được triển khai, song đã có nhiều rào cản được dựng lên để ngăn chặn những con người có ý định chơi trội đó. Không một ai chịu nghe ý kiến của họ!
Tuy nhiên sự lạc hậu, tính theo các chỉ số chất lượng của phương Tây, đã được mọi người biết đến – và nó hiện diện ngay trong một nước giàu tài nguyên có tiềm năng lên chủ nghĩa xã hội, trong một chế độ có thể tập trung tài lực và thông tin vào những hướng đã định – lại có một cách hiểu khác về chất lượng. Thành tố chất lượng còn có thể thay đổi, song tổn thất thì đã ẩn sâu vào trong hệ thống và được thận trọng khỏa lấp đi. Chính những kẻ phá hoại đã cho ta thấy điều đó dưới đây. Rồi bản thân chúng ta sẽ có sẵn một câu trả lời cho câu hỏi: “Liệu chủ nghĩa xã hội có thể tồn tại không, nếu chính ta mình, ví dụ như thế này: “Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Kôxygin lo lắng vì những lời than phiền về chất lượng giầy rất tồi tệ. Ông tới thăm một xí nghiệp ở thủ đô và trách cứ thậm tệ tay giám đốc vì việc đó. Nhưng tay giám đốc láu cá đã trả lời:
- Alekxei Nicolaevich, anh hãy nhớ rằng chúng tôi đã có được dây chuyền sản xuất nhập khẩu này nhờ sự giúp đỡ của anh 15 năm trước đấy. Nó có công suất 1 triệu đôi/ năm và bao gồm 100 thao tác. Nhưng sau đó cấp trên tăng kế hoạch lên 1,5 triệu đôi/ năm. Để đẩy nhanh quy trình sản xuất chúng tôi buộc phải cắt giảm đi 25 thao tác. Rồi kế hoạch bị đẩy lên tới 2 triệu đôi/ năm vậy thì toàn dây chuyền chỉ còn lại 50 thao tác. Liệu chất lượng sẽ ra sao nếu thay vì phải thực hiện 100 thao tác, chúng ta chỉ làm có một nửa?”.
Câu chuyện tiếu lâm này rất điển hình. Thêm vào đó, tư tưởng ngại phê phán những cơ quan tài chính và kế hoạch của BCHTW đã thực sự đẩy nền kinh tế của đất nước vào con đường sai lầm.
“Thái độ duy ý chí” của N. X. Khrusov, “Trì trệ” của Breznev, “Chủ nghĩa Xtalin mới” của Iu.V. Audropov và “Sự suy đồi hoàn toàn” (dường như trước đó là “chưa hoàn toàn”) của K. U. Chernenko – tất thảy chỉ là những dấu ấn về tư tưởng chưa phản ánh được bản chất của những sai lầm. “Những đồng chí” leo được lên cao (có được danh phận) là những kẻ gian hùng khôn khéo, chứ không phải là những nhà lãnh đạo giỏi giang. Quyền lực ngầm “đã hình thành, đã vận động và phát triển thuận lợi trong đất nước”. Trong lĩnh vực điều hành luôn tồn tại quyền lực chính thức và quyền lực đen. Thậm chí, việc quyết định những vấn đề then chốt lại phụ thuộc vào quyền lực đen. Một thanh niên đại diện của một tổng công ty lớn ở Lêningrad, thường xuyên đi công cán lên Matxcơva nhớ lại. Anh ta đã tạo dựng rất thành công danh tiếng của công ty trong các cơ quan các bộ là do đã sử dụng một danh sách mật về các nhân vật của từng bộ – những người thực sự quyết định mọi vấn đề. Chỉ cần thỏa thuận với những người này về mọi yêu cầu và vấn đề. Trong bản danh sách này hoàn toàn không có các nhân vật cao cấp. Thành công của chàng trai đó được lý giải rằng anh ta có quan hệ với quyền lực đen thực sự trong tầng lớp trung gian. Chính cơ cấu bí mật đó thực thi quyền lực cao nhất. ở Liên Xô, sự bất lực của các Tổng bí thư như L. Breznev và K. Chernenko – những người có quyền lực to lớn về mặt hình thức, thực sự không được phản ánh trong công việc hàng ngày. Chính cơ cấu bí mật bao gồm một nhóm rất ít người đã thực thi quyền lực thực tế. Các mối quan hệ và sự ràng buộc lẫn nhau của nó chỉ tồn tại trong bóng tối.
Do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà trong nước không có nền văn hoá thông tin – điều hành. Phương Tây khi đó đã trải qua “bùng nổ nghiên cứu” và “cuộc cách mạng của những người quản lý”, còn chúng ta vẫn lê bước phía sau. Khi phải sống mãi trong một hệ thống thì người ta không tưởng tượng được rằng dường như vẫn còn có thể sống khác. Nó giống như một kẻ quen nhìn cái thiển cận và cái mâu thuẫn. Chúng tôi dẫn ra đây ý kiến của một chuyên gia trong lĩnh vực điều hành từ Mỹ sang Liên Xô làm việc: “…ở nước chúng tôi văn hoá giao tiếp công việc rất kém, thậm chí công việc văn phòng hủ lậu. ở đó xử sự rất thô bỉ, toàn những trò thô tục tầm thường như không trả lời thư công vụ, điều mà người nước ngoài thường xuyên phàn nàn…”
Rồi ông ta viết: “Sau khi đã sống ở Mỹ 30 năm, tôi thấy ở đó có những nhà máy, xí nghiệp được trang bị tuyệt hảo, tôi đã làm việc tại những cơ quan được trang bị nhất hạng. Còn ở nước này tôi thấy các phương pháp tổ chức và điều hành là tuyệt vời nhất.
Anh gọi điện thoại về xí nghiệp:
- Tôi cần nói chuyện với đồng chí Ivanov.
- Anh ta không có. Và máy bị gác.
Anh nghi ngờ – thế nào là “Anh ta không có”: ốm, bỏ ra ngoài hút thuốc, đi họp hay đi công tác? Đành phải gọi lần nữa.
- Tôi đã nói là anh ta không có! – Giọng trả lời đã gắt hơn.
- Xin lỗi, chị tên là gì?
- Tên gì mà chẳng được. Tôi nhắc lại, không có Ivanov!
Và máy lại bị gác. Anh bắt đầu căng thẳng, gọi thêm lần nữa:
- Chị ơi, xin chị đừng bỏ máy. Tôi cần Ivanov có việc khẩn cấp.
Từ đầu dây bên kia vọng lại:
- Đồng chí đang làm phiền tôi đấy. Tôi nói với anh cả hai lần rồi rằng không có Ivanov! Anh ta đang nghỉ phép, sau 3 tuần nữa mới về.
Ở Mỹ những cuộc trao đổi như thế xảy ra khác hẳn. Ví dụ, anh gọi tới hãng “General Electric”.:
- Hãng G.E, tôi là John. – Một giọng nói đã được huấn luyện trả lời.
- Cho phép nói chuyện với ngài Smith.
- Ngài Smith đang đi công cán. Người thay thế ông ta là ngài Corni, số máy của ông ấy là (…). Tôi nối máy cho ngài?”.
Người đưa ra so sánh trên là Tiến sỹ kinh tế học V. I. Teresenko – trước 1955 đã sống tại Mỹ. Nhiều điều trông thấy đã làm ông ta đau đớn nhận ra rằng “ưu thế chủ nghĩa xã hội” đã được sử dụng ra sao: “ở Liên xô chúng ta có cả núi vật cản do con người tạo ra. Nó kéo theo những chi phí thời gian phi sản xuất. Những trở ngại liên quan đủ loại. Ngại trách nhiệm. Còn vô trách nhiệm là hiện tượng rất phổ biến? Vì tất cả những cái đó mà hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn cơ hội cải thiện cuộc sống bị bỏ lỡ. Tôi chỉ làm được 1/3 hiệu suất mà tôi có thể làm ở Mỹ. Thật xấu hổ! Thời gian không trở lại…”
Sai lầm chủ yếu dẫn đến thảm họa sau này là việc tuân theo một cách tuyệt đối mù quáng cách hiểu chủ nghĩa Mác mà người tổng chỉ huy đã từng sai lầm. Không đơn giản chỉ là thiếu một cơ chế phê bình đủ tin cậy từ dưới lên, mà ngược lại là sự bưng bít lời phê bình; không tổng hợp, mà ngược lại là phê bình thận trọng, gọi là phê bình kiểu “Trong thời gian qua, có những khuyết điểm…” (M. X. Gorbachov là người đã mở đập ngăn nước (tháo cống), làm thay đổi dòng chảy, và kết quả là không có xã hội chủ nghĩa như mong đợi, mà mất luôn cả Liên Xô). Thế giới trở nên phức tạp hơn. Thực tế xây dựng “chủ nghĩa xã hội” trở nên tầm thường hơn. Việc phản ánh những quá trình hiện thực trở nên nhàm chán, hời hợt, giáo điều. “Chủ nghĩa duy ý chí” trong Cương lĩnh thứ 3 của ĐCS Liên Xô có một giá trị rằng: vào những năm 1980, nếu không lên được xã hội cộng sản, nhân dân Xô Viết đành phải từ bỏ mục tiêu này.
Tài liệu N°1.Những trung ương thần kinh của Liên Xô. 1953-1985.
Thuật ngữ “Trung ương thần kinh” không được sử dụng rộng rãi, cho dù ngày nay định chế điều hành này đã được đề cập tới nhiều, song chưa đến mức công luận rộng rãi ngay lập tức chú ý và nhớ mãi.
Bởi vậy cần lời giải thích rõ đó là cái gì. “Trung ương thần kinh” – là tên gọi của hội đồng (có tổ chức về hình thức) những chuyên viên và chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và những lĩnh vực kiến thức trực thuộc ban lãnh đạo cao cấp của đất nước hoặc nguyên thủ quốc gia (Tổng thống). Hội đồng còn gồm những cố vấn, trí thức ở các bộ, cơ quan nhà nước. Khái niệm, “Trung ương thần kinh” được sử dụng vào những năm sau chiến tranh (như “Trung ương thần kinh Kennedy”). Khi vai trò của khoa học đột ngột tăng lên đối với chính trị, còn chính các ngành khoa học khác đã phát triển tới mức đủ sức trợ giúp đáng kể cho các cơ quan chính quyền trong việc thông qua những quyết định quan trọng. “Trung ương thần kinh” có khả năng tập hợp rất nhiều chuyên gia – vài trăm, thậm chí cả nghìn người. Số lượng này không ổn định và được hình thành nên tuỳ thuộc vào nhu cầu ở thời điểm đó và tùy thuộc cả vào những phẩm chất cá nhân của người lãnh đạo, thái độ quan tâm, coi trọng của người đó đối với kiến thức khoa học.
Các nhận định của họ về tình hình chính trị, chính trị – quân sự, chiến lược – quân sự, … góp phần nâng cao đáng kể tính chuyên nghiệp của chính trị.
Cũng cần phải chỉ ra rằng “Trung ương thần kinh” không phải là những cơ quan khoa học hay tổ chức hoạch định bình thường, chúng rất đa dạng và có những đặc điểm riêng. Khác với các tập thể và cơ quan khoa học thông thường, các trung tâm giám định này có đặc điểm chủ yếu là: tổng số người của nó chừng vài trăm (trong khi các cơ quan khoa học thông thường có tới hàng chục nghìn nhân viên); Trung tâm luôn có ảnh hưởng nhất định tới quá trình thông qua các quyết định ở cấp lãnh đạo cao nhất, ở cấp chiến lược; các nhu cầu thông tin thấp nhất được nhằm vào cấp ngành, cấp quốc gia và cao nhất – cấp quốc tế; cấp độ đề tài và nước nghiên cứu chuyên sâu cùng các nhóm giải pháp kiến nghị của nó là nhằm tích cực xác định những phương hướng mới, thông tin của nó làm cho các hoạch định trở nên chính xác; tiến hành hợp tác thường xuyên với các loại chuyên gia để tìm kiếm và phân tích thông tin; quá trình xử lý thông tin được chia thành nhiều giai đoạn phân tích; tiến hành phân loại tài liệu nghiên cứu theo chuyên ngàn