← Quay lại trang sách

Chương 3 BỘ MÔN NGA TRONG CHÍNH TRỊ HỌC MỸ

Nếu tôi có tài tiên đoán, và tôi biết mọi bí mật, và tôi có đủ tri thức cùng toàn bộ niềm tin thì tôi có thể chuyển dịch những quả núi, còn tôi không có tình yêu – tôi không là gì cả.

Thông điệp đầu tiên của Thánh Apostol Pavel gửi Korinfiana.

Cả một hệ thống phức tạp và to lớn đã giết chết Liên Xô. Hệ thống thù địch này bao gồm cả giới lãnh đạo phương Tây, các cơ quan mật vụ của chúng, những tổ chức kiểu hội tam điểm của cả phương Đông và phương Tây, “đội quân thứ 5” ở Liên Xô và ở các nước Đông Âu. Tất cả những thành phần đó đã theo lệnh từ Washington lật đổ chúng ta. Phân hệ “những trung ương thần kinh Mỹ” là một thành tố quan trọng của hệ thống đó. Chúng có nhiệm vụ soạn thảo ra các phương thức và thông tin nhằm bóp nghẹt nước Nga, “loại bỏ chủ nghĩa cộng sản”. Vai trò của phân hệ này lớn đến mức không sao đánh giá hết được. Đồng thời hoạt động của nó cũng bí mật tới mức, về thực chất và do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay vẫn chưa thể phát giác ra được mối liên hệ giữa hoạt động của các tổ chức ở bên kia đại dương với công cuộc cải tổ “của chúng ta”.

“Những trung ương thần kinh” và các tổ chức Xô viết học Mỹ

Những tổ chức này đang được nói tới rất nhiều trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta hãy nêu ra đặc điểm đáng chú ý sau.

Chúng tôi lưu ý tới những tổ chức quốc gia cũng như phi quốc gia đã tham gia soạn thảo các kế hoạch phá hoại Liên Xô và hiện thực hóa chúng trong cuộc sống. Vì vậy, chúng tôi không nhắc lại những gì đã từng được viết trong thời kỳ Xô Viết. Còn trong thời kỳ hậu Xô Viết thì nhiều người đã lãng quên, song vô ích…

Tổ chức Xô Viết học, hay theo cách gọi khác là Nga học, đầu tiên là “Hội Nghiên cứu Nga” được thành lập từ năm 1913 tại Đức trực thuộc Cơ quan thuộc địa Bộ Ngoại giao. Tổ chức tiếp theo – “Trường phái những nghiên cứu Xlavơ” được thành lập tại Trường đại học tổng hợp Lodon vào năm 1915 và tồn tại cho tới ngày nay. “Phòng thí nghiệm” đầu tiên nghiên cứu về Nga tại Mỹ là “trường phái Rizk” thông qua nhóm các nhà ngoại giao của phòng Lãnh sự tại Latvia trong những năm 1920. Nó được thành lập chủ yếu là nhờ R. Kelli – người đứng đầu Viện Đông Âu của Thượng viện Mỹ. Chính những nhà ngoại giao này tạo nên nòng cốt cho đại sứ quán đầu tiên tại Matxcơva. Vào cuối những năm 1940 những người này có một ảnh hưởng đáng kể trong Thượng viện. Đặc biệt nổi bật là J. Kennan và Ch. Bollen. Người đầu tiên trong họ từng là đại sứ tại Liên Xô, đã có một cái gọi là bức điện báo “dài” nổi tiếng (gần 8.000 từ), trong đó buộc tội Liên Xô bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới (Phụ lục số 1). Trên cơ sở tài liệu này ông ta đã viết bài đăng trên báo “Forin Affis” với bút danh “Mister X”. Trò dấu tên của ông ta đã bị phanh phui, và phía Liên Xô, thấy mình bị xúc phạm, đã từ chối ủy nhiệm (ngoại giao) của J. Kennan. Lúc đó, phía Mỹ không chỉ bị thiếu hụt trầm trọng các chuyên gia phân tính về Liên Xô, thiếu những người có khả năng khái quát tình hình ở Liên Xô và sự tiếp cận của Mỹ với Liên Xô, mà thiếu cả những người giỏi tiếng Nga và có khả năng dịch các tư liệu từ các báo chí của Xô Viết về Mỹ.

Về sau, số lượng các trung tâm này đã phát triển lên tới vài trăm. Tất cả các trung tâm phân tích đã được dẫn ra trong Phụ lục số 2. Qua những năm “cải tổ” các trung tâm này đã bổ sung đội ngũ của chúng khi Ba Lan rơi vào vòng ảnh hưởng của Mỹ: “Tại Gdanxk (Ba Lan) đã thành lập một trung tâm nghiên cứu có tới 200 người Mỹ trong số 400 nhân viên. Tại trung tâm này, sử dụng kinh nghiệm của Ba Lan, họ đã soạn ra một mô hình “hòa bình” phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa. (…) Tại Ba Lan họ từng tiến hành thử nghiệm tất cả các phương pháp mà sau này đã làm lung lay Liên Xô: các cuộc bãi công của thợ mỏ, mạng lưới nợ nần phương Tây, liệu pháp sốc, vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả những phương pháp đó đã được thử nghiệm tại Ba Lan. Ngay kẻ hiện nay rất nổi tiếng với chúng ta là Jeffri Saks cũng đã từng tu nghiệp ở trung tâm Gdanxk”. Sau này hắn luôn kề cận bên thủ tướng Ba Lan Balltxerovich. Tiếp sau đó hắn lại chuyển sang Liên Xô làm sư phụ của Gaidar”.

Tuy nhiên còn một trung tâm rất đặt biệt, rất đáng chú ý – RAND Coporation (Reseach And Development – Nghiệp đoàn Nghiên cứu và Phát triển).

RAND Coporation

Địa chỉ: RAND Coporation 1700, Main Street, Santa Monica, CA 90406, USA.

Về thực chất, nghiệp đoàn này là thủy tổ (kẻ sáng lập) của những trung tâm nghiên cứu khoa học khác. Nó nổi bật về năng lực trí tuệ của các nhân viên và mức độ ảnh hưởng trong việc soạn thảo phương pháp luận những giải pháp được sử dụng. Ngoài ra, RAND Coporation còn là một tổ chức nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn nhất trong nhóm tinh hoa của những tổ chức nghiên cứu khoa học được coi là những “trung ương thần kinh” của Mỹ. Vào thời gian sau chiến tranh, các tổ chức xứng đáng với tên gọi này đã từng tồn tại trong quá khứ, tuy nhiên chỉ từ khi có mặt RAND Coporation, sự phát triển theo hướng nghiên cứu này mới mang tính chất hiện thực. RAND trở thành hình mẫu cơ bản cho hàng chục tổ chức chuyên nghiên cứu chính trị hiện đại và xây dựng những công nghệ chính trị mới.

Lịch sử thành lập RAND Coporation như sau. Ngay trong những năm chiến tranh thế giới II, trong Lực lượng Không quân Mỹ có một nhóm những nhà khoa học chuyên nghiên cứu các chiến dịch quân sự. Sau chiến tranh, người ta quyết định duy trì nhằm tiếp tục các công việc thuộc lĩnh vực đã triển khai nghiên cứu và nghiên cứu những công nghệ quân sự cho những năm tiếp theo. Chính vì mục tiêu này mà Đại tướng Henry Arnold (1886-1950, nhà nghiên cứu lý luận quân sự. Năm 1940-1941 là Tham mưu trưởng Quân đội Mỹ về không quân; năm 1942-1946 là Tư lệnh Không quân Mỹ. Có những công trình nghiên cứu về tác chiến và chiến dịch đường không được ứng dụng trong Quân đội Mỹ. ND) đã đệ trình lên cấp trên kiến nghị về ký kết hợp tác giữa Lực lượng Không quân và Hãng sản xuất máy bay “Duglas”. Kiến nghị đó được ủng hộ và một tổ chức thử nghiệm mang tên “Dự án RAND” đã được thành lập với tư cách là một phân viện của Hãng “Duglas”. Giá trị hợp đồng là 10 triệu USD. Tổ chức bắt đầu hoạt động vào năm 1946 với mục tiêu chính thức là thực hiện “chương trình nghiên cứu khoa học về những khía cạnh trong chiến tranh liên lục địa, ngoại trừ các hoạt động quân sự trên bộ”. Trong nhiệm vụ của nó bao gồm cả việc cung cấp cho Lực lượng Không quân những khuyến nghị về “các phương tiện và phương pháp thích hợp”.

Vào năm 1948 mọi người đồng loạt đặt vấn đề tách RAND Coporation ra khỏi Hãng “Duglas”. Theo J. R. Goldstan, – một người trong số sáng lập viên của “Dự án RAND”, trong những năm cuối cùng là Phó chủ tịch của nghiệp đoàn – cho biết, đã nảy sinh một loạt “nguyên nhân để chia tay”. Nhiều hãng đang thực hiện các hợp đồng quân sự đã phản đối chống lại việc tổ chức thực hiện kế hoạch cho Lực lượng Không quân lại là phân viện của một hãng cạnh tranh. Về phía mình, Hãng “Duglas” cho rằng chính vì mối quan hệ của nó với RAND Coporation mà Lực lượng Không quân Mỹ đã khước từ mọi ưu tiên cho Hãng, gây cho Hãng tốn thất rất lớn vì mất hợp đồng. Thêm vào đó, đã xuất hiện một số xích mích giữa Hãng “Duglas” với chính những đối tác của nó thuộc biên chế của “Dự án RAND”. Mặc dù tổ chức “RAND”, vì lý do an ninh, đã thực sự được cách ly khỏi hãng mẹ, không phải thực hiện những nguyên tắc và quy định điều chỉnh của hãng (thậm chí có cả quy định về việc được uống cà phê vào khi nào, ở đâu). Những nguyên tắc này luôn là nguyên nhân thường xuyên gây nên phản ứng bực tức cho những người “có tư duy” trong “RAND”. Thật may, Lực lượng Không quân đã thỏa mãn với hợp đồng 2 năm của dự án này, họ sẵn sàng tạo điều kiện để những đứa con của dự án tự đứng vững trên đôi chân của chúng. Nguồn vốn lập nghiệp ban đầu đã có được 100 nghìn USD (một phần lớn trong số đó được lấy từ số tiền bù đắp thiệt hại của Quỹ “Ford”. Như vậy, vào năm 1948, với tư cách là một xí nghiệp độc lập phi thương mại – RAND Coporation đã được chuẩn y. Nó được thành lập “để hỗ trợ cho những mục tiêu trong lĩnh vực khoa học, giáo dục và từ thiện vì lợi ích xã hội và an ninh của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”. Cùng cần nói thêm rằng phía Liên Xô không có một lời nào về sự kiện này. Song chúng ta sẽ còn phải nhớ mãi một điều là khái niệm an ninh của Mỹ bào hàm rất rộng…

Căn cứ vào mức độ phát triển của RAND Coporation thì việc thành lập thử nghiệm của nó đã rất thành công. Vấn đề không chỉ là đã giữ được một tập thể khoa học tài năng góp mặt từ những năm trong chiến tranh, ngoài ra giới quân sự đã có được một bộ máy sáng tạo với quy mô và những năng lực mà không thể có được bằng những con đường khác. RAND Coporation đã cung cấp những phát hiện lý thuyết trong nhiều lĩnh vực rất khác nhau cho một tương lai lâu dài. Những lời khuyến nghị đó không thể có được từ những văn phòng của cơ quan chính phủ – nơi chỉ có những cộng tác viên chỉ thích hợp với việc giải quyết các nhu cầu thường nhật, những nhiệm vụ hạn hẹp. Rõ ràng là những tổ chức kiểu RAND Coporation là những trung tâm năng động có hiệu quả hơn so với bất kỳ trung tâm của các trường đại học tổng hợp nào khác – những nơi tập trụng được nhiều tập thể khoa học lớn nhưng luôn nảy sinh rất nhiều vấn đề để xác định ranh giới các nguyên tắc và vấn đề nghiên cứu giữa các khoa.

RAND Coporation có cơ cấu như sau:

Ban lãnh đạo gồm giám đốc, Hội đồng Lý luận với 10 giáo sư – chuyên gia thuộc các lĩnh vực rất khác nhau (Mỗi năm họp hai lần để bàn về đề tài nghiên cứu khoa học trong thời gian tới), Hội đồng Bảo trợ với có thành viên là những chủ tịch của các hãng và các ngân hàng lớn, các giáo sư danh tiếng của các trường đại học. Nhiệm kỳ làm thành viên của Hội đồng Bảo trợ là 10 năm. Ngoài ra còn có Hội đồng Tư vấn có chức năng chủ yếu về những vấn đề tổ chức – kế hoạch đào tạo, tuyển sinh và ngân sách của nghiệp đoàn.

Biên chế của RAND Coporation được chia ra:

- Vụ các vấn đề nội bộ. Chuyên tiến hành nghiên cứu các vấn đề nhân khẩu học của Mỹ, Liên Xô và các nước khác; những vấn đề về thiếu hụt nguyên liệu năng lượng; sự suy giảm năng suất lao động; sự lão hóa nguồn vốn tư bản chủ yếu của các xí nghiệp; sự phát triển tội phạm; chủ nghĩa khủng bố; các xung đột sắc tộc và quốc tế. Ngân sách của nó trong năm tài chính 1983 của vụ này là 13,5 tỷ USD.

- Vụ các vấn đề an ninh quốc gia. Chuyên thực hiện các đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng Mỹ. Công tác nghiên cứu chủ yếu được tiến hành trên cơ sở các dự án với số lượng dự án rất khác nhau. lĩnh vực thực hiện bao gồm: nguồn nhân lực đối với nhu cầu chiến tranh; công nghệ và công nghiệp quốc phòng; hệ thống “con người – máy móc”; phân tích mang tính chiến lược về các lực lượng quốc tế; vũ trụ; tình hình ở Đông Âu và Cận Đông; thông qua những quyết định có nguy cơ cao. Trong khuôn khổ các dự án liên quan tới Liên Xô, nơi đây thường nghiên cứu các vấn đề như: mối tương quan lực lượng giữa Liên Xô – Mỹ; chiến lược và đường lối quân sự Xô Viết; phản ứng của Liên Xô đối với chính sách của Rigan trong lĩnh vực quân bị. Trong năm 1981, Lầu Năm góc (Pentágonon) đã trao cho RAND Coporation nghiên cứu “chiến lược sử dụng các trung gian thân phương Tây để hành động tại các nước thuộc thế giới thứ ba”. Đây là nơi đã đề nghị xây dựng lực lượng phản ứng nhanh có sự tham gia của lực lượng cảnh sát Israel, Hàn Quốc, Đài Loan, Hondurad, và của nhiều nước khác.

- Vụ Không lực. Theo truyền thống, tư lệnh Lực lượng Không quân Mỹ thường là người có đơn đặt hàng lớn nhất của RAND Coporation. Phạm vi các đơn đặt hàng như thế rất rộng – từ các vấn đề chung về chiến lược và chính trị đến những nhiệm vụ cụ thể về áp dụng công nghệ vụ trụ và không quân, về tiến hành các chiến dịch quân sự và điều hành bộ đội, trong đó liên quan trực tiếp tới các chiến dịch tại Irắc và Nam Tư trên cơ sở nghiên cứu của nó về kinh nghiệm quân sự.

Ngoài ra còn có:

- Vụ Những vấn đề điều hành;

- Vụ Phân tích nguồn lực;

- Vụ Công trình;

- Vụ Nghiên cứu hệ thống;

- Vụ Kinh tế;

- Vụ Kỹ thuật ứng dụng;

- Vụ Thông tin;

- Vụ Khoa học xã hội

Viện Nghiên cứu sinh được thành lập vào năm 1969. Nếu như các trung tâm khác hoạt động bên ngoài các trường đại học được đào tạo nghiên cứu sinh để bảo vệ học vị tiến sĩ triết học, thì RAND Coporation cũng có quyền bảo vệ học vị này. Nó nhận vào làm nghiên cứu sinh gồm các nhân vật đã tốt nghiệp các trường đại học có danh tiếng. Tại đây nghiên cứu sinh không chỉ học tập mà còn tham gia thực hiện những công việc của nghiệp đoàn, tham dự các hội thảo và hội nghị khoa học. Đề tài làm luận văn tốt nghiệp là các chuyên ngành nghiên cứu của nghiệp đoàn. Việc học tập của nghiên cứu sinh hoàn toàn miễn phí. Sau khi bảo vệ thành công luận án, các tiến sĩ sẽ được tuyển vào làm việc tại các cơ quan của chính phủ, trong đó có một bộ phận được giữ lại làm việc tại RAND Coporation.

Ngoài ra, còn có những khóa 3 năm về chu kỳ kinh tế học, lý thuyết các trò chơi toán học, thống kê học. Kết hợp với Trường đại học tổng hợp California, nó còn thực hiện Chương trình đào tạo các chuyên gia về chính trị đối ngoại Xô Viết với học vị tiến sĩ triết học.

Thư viện của RAND Coporation có khoảng 70 000 đầu sách và 225 000 bản báo cáo khoa học.

Các cán bộ khoa học hàng đầu của nghiệp đoàn qua nhiều năm là những người như: Alecxandr Alecxeiev; V. Aspaturian – tư vấn; Ronn Batista – Bí thư báo chí, cựu phát ngôn viên từ Las-Vegas; A. Berson – Tư vấn; Edward Bruner; Robert Beker – trước đó từng là Giám đốc Vụ Chính trị của Đài phát thanh “Châu Âu Tự do”; Charlz Wolf; Thomas Wulf; de Wird; R. L. Garthof – chuyên viên khoa học về các vấn đề Liên Xô, tác giả cuốn sách “Chiến lược quân sự Xô Viết”…; Thomas Gordon; A. Jordg – chuyên viên vụ các khoa học xã hội. Ông ta đã từng nghiên cứu vấn đề “Chiến lược kìm hãm”, sau đó chuyển sang làm việc tại Trường đại học Stanford, là đồng tác giả với D. Holld và W. Samons viết cuốn “Những giới hạn ngoại giao bắt buộc. Lào-Cuba-Việt Nam”, cũng là đồng tác giả với R. Smoyk cuốn “Sự kiềm chế trong đường lối đối ngoại Mỹ: lý luận và thực tiễn”; Jams Digby – người lãnh đạo những chương trình nghiên cứu quốc tế; N. Dolky, German Kann, Thomas Robinson, Win Wiilkoks – là những người nghiên cứu phương pháp luận tích hợp dự báo các quan hệ quốc tế; Fred Ch. Ikle – Vụ trưởng những nghiên cứu xã hội, rất nổi tiếng với nghiên cứu mang tính dự báo của mình, từ năm 1973 ông ta làm Chủ tịch ủy ban Kiểm soát vũ khí và trang bị; B. Lambet – tác giả cuốn “Người chiến binh muốn điều hành nước Nga: chuyên môn của Alekxandr Lebed; Conxtantin Melnik – xuất thân là người Nga, sau làm sếp phản gián Pháp; R. Mollander – tác giả các kịnh bản về chiến tranh thông tin-tâm lý; Jonathan Pollak; Gans Spier; John Thomson; Senders Winboos; Albert Wolstetter; Fransis Fukuiama – Trưởng nhóm nghiên cứu, tác giả của học thuyết về “Kết thúc lịch sử”; Olaf Helmer – nhà toán học đầu đàn của những năm 1946-1968, tác giả cuốn “Công nghệ xã hội” (năm 1966); Poll Hants; Thomas Selling, Jams Slesinger – Vụ trưởng, sau đó rời khỏi hãng làm Giám đốc CIA, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Năng lượng; Charls Hitts – Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu khoa học RAND Coporation, những năm 1961-1965 là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, từ năm 1965 là Phó tổng thống, từ năm 1968 là Chủ tịch Trường đại học tổng hợp California, và nhiều người khác.

RAND Coporation chiếm giữ một vị trí rõ rệt trong hệ thống xã hội phương Tây đến mức một loạt các thành viên của nó được mời làm đại diện của chính phủ ngầm của thế giới. Theo những số liệu sau đây, hiện nay thành viên của chính phủ này là: Tổng thống Jams K. Thomson – ủy viên Hội đồng Quan hệ quốc tế; Phó tổng thống George Thenhem – ủy viên Hội đồng Quan hệ quốc tế; Phó tổng thống Michael Rish – ủy viên Hội đồng Quan hệ quốc tế; lãnh đạo nhóm nghiên cứu Liên Xô và các nước Đông Âu của RAND Coporation, Giám đốc trung tâm Nghiên cứu hành vi của Liên Xô ở nước ngoài của RAND Coporation và của Trường đại học California Arnold Horelik – ủy viên Hội đồng Quan hệ quốc tế; ủy viên Hội đồng RAND Coporation Gustave Subert – ủy viên Hội đồng Quan hệ quốc tế.

Nhiều nhân vật của RAND Coporation chuyển sang làm phân tích kế hoạch của các cơ quan chính sách đối ngoại, đã lãnh đạo các lĩnh vực quan trọng nhất của công việc này. Các thành viên của RAND Coporation liên tục được bổ nhiệm vào những cương vị lãnh đạo của Bộ Quốc phòng, vào cuối thập kỷ 1960 – đầu thập kỷ 1970 họ đã giữ những vị trí quan trọng của Cục Điều hành Hành chính – Ngân sách trực thuộc Tổng thống Mỹ, trong bộ máy của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (NSC).

RAND Coporation đã đào tạo ra nhiều chuyên gia nòng cốt cho các trung tâm mới. German Kann (1922-1983, nhà tương lai học, từ 1961 làm giám đốc Viện Nghiên cứu Hudson. ND) và M. Singer vào năm 1961 đã sáng lập ra Viện Nghiên cứu Hudson; một nhóm thành viên của RAND Coporation vào năm 1957 đã thành lập ra Trung tâm nghiên cứu “TEMPO” của hãng “General Electric”; O. Hellmer vào năm 1968 đã thành lập ra Viện Nghiên cứu tương lai; T. Gordon vào năm 1970 mở Trung tâm Nghiên cứu “Nhóm tương lai”, v.v… Có hàng chục chuyên gia về dự báo đã vào các trung tâm khác được mở ra ở Mỹ nhờ vào các phương pháp, lý luận và kinh nghiệm mà họ đã tích lũy được ở RAND Coporation.

Những sản phẩm do RAND Coporation tạo ra trong quá trình nghiên cứu của mình là hàng nghìn bản báo cáo, những tư vấn, khuyến nghị, chỉ dẫn…

Sau khi thành lập biên chế của riêng Dự án, chứ không phải của cả RAND Coporation, đã lập tức nhận được nhiệm vụ xem xét những khả năng mới và chưa được nghiên cứu có thể phục vụ cho quân đội. Nhiệm vụ đầu tiên lớn nhất của nó là một nghiên cứu có tựa đề “Dự án sơ bộ của tàu vũ trụ thử nghiệm quay trở về trái đất”. Cho dù vệ tinh nhân tạo vào thời gian đó được coi là thành tựu vĩ đại của điều hoang tưởng khoa học, trong tài liệu do 50 nhà khoa học chuẩn bị vào năm 1946 đã cung cấp một đánh giá chi tiết viễn cảnh sử dụng các vệ tinh khoa học và nghiên cứu vũ trụ. Kết quả nghiên cứu dù chỉ có tính chất phán đoán, song nó đã góp phần to lớn vào việc củng cố uy tín của hãng. Những nghiên cứu ban đầu khác của RAND Coporation đã bao trùm rất nhiều lĩnh vực mới, như: cách sử dụng động cơ tên lửa cho vũ khí chiến lược; tổ máy động lực hạt nhân; lý thuyết các trò chơi trong ứng dụng đối với quân sự; đầu đạn tên lửa hạt nhân cassette; tính chất mỏi của các kim loại; bức xạ năng lượng cao… Một trong số những phân tích đầu tiên là đưa ra phương pháp nghiên cứu chiến dịch nhằm tăng cường bán kính hoạt động của không quân. Kết quả của phân tích này là ứng dụng quy trình tiếp liệu trong khi bay đối với các máy bay quân sự. Theo khuyến nghị của RAND Coporation người ta đã áp dụng sơ đồ định vị địa hình các căn cứ Không quân Mỹ và các bệ phóng tên lửa hạt nhân chiến lược bao quanh khối của Tổ chức Hiệp ước Varsava. Một nghiên cứu khác của RAND Coporation đã cho phép sản xuất kim loại titan với số lượng đáng kể, nhờ đó mà thứ kim loại này được ứng dụng rộng rãi trong chế tạo máy bay và các tàu vũ trụ, tạo nên cả một ngành luyện kim mới. Ngay trong năm đầu tồn tại của mình, RAND Coporation đã phải bổ sung vào biên chế của mình những chuyên gia về các vấn đề chính trị, các nhà kinh tế học và tâm lý học nhằm tìm kiếm về lý thuyết mà không bị giới hạn bởi các ngành khoa học chính xác.

Một công việc khác ở thủa ban đầu của RAND Coporation có tiêu đề “Học thuyết quân sự Xô Viết” đã trở thành sách chuyên khảo được đăng tải ở phương Tây; còn trong một luận án khác do Margarett Mid viết là một công trình nghiên cứu về tính cách dân tộc Liên Xô.

Những sản phẩm mới của hãng này có lúc đã gây sốc bởi chi phí cho chúng lên tới 60 triệu USD mỗi năm. Số sản phẩm mỗi năm tạo thành một chồng cao. Một nhà báo đầu tiên viết về hãng, P. Dikson, sau khi được German Kann cho thăm quan “những trung ương thần kinh” khác của Mỹ, đã đặt tựa đề cho cuốn sách của mình là “Những nhà máy tư duy” – giá của mỗi trang nghiên cứu lên tới 3 triệu USD.

Trong phạm vi nghiên cứu của RAND Coporation có đề cập tới cả những vấn đề về môi trường xung quanh, đồng thời đề xuất ra một loạt các dịch vụ trong lĩnh vực nghiên cứu chất thải, như: quy hoạch chất lượng không khí trong những vùng dân cư; những thiết bị làm sạch nước; bức xạ của các phản ứng hóa học; dự báo mức độ nhiễm bẩn; mô hình hóa khí tượng; đánh giá kinh tế các vấn đề về nhiễm bẩn và các phương pháp giải quyết nhiễm bẩn; tư vấn về vấn đề nhiễm bẩn; quy hoạch các thành phố; đấu tranh với nhiễm bẩn; những thành phố kiểu mới; quy hoạch vùng; bảo vệ thiên nhiên; sửa chữa quỹ nhà ở và quy hoạch di dân.

Ngoài ra, trung tâm chú ý của nó còn là các kế hoạch dự phòng chiến tranh hạt nhân; những con đường phát triển và xuất hiện các quốc gia; những ý tưởng mới trong việc ngăn chặn tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm; kế hoạch cải cách các trường phổ thông Mỹ; cơ số mới của vũ khí chiến lược và các biện pháp ngăn chặn tấn công hạt nhân.

RAND Coporation còn quan tâm nghiên cứu nhiều vấn đề thường nhật rất khác nhau, như: đầu lọc thuốc lá “Like”; thị phần của công việc quy hoạch tại triển lãm toàn thế giới “Expo-67”; danh mục dự kiến vị trí tương đối cho công viên DysneyLand; các chất có mùi hương và gia vị; các thực phẩm được sấy khô bằng phương pháp thăng hoa; các chữ số và chữ cái được “đọc” bằng máy điện toán… Tất tật những đề tài như vậy đều được RAND Coporation tiến hành nghiên cứu.

Một thời gian dài RAND Coporation đã ký kết được hàng loạt hợp đồng với bang California. Cũng thời gian đó, thành phố New-York đã hợp tác với RAND Coporation để thành lập nên “những nhà máy tư duy” với tên gọi là “Viện RAND của New-York”. Viện này đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 1969. Sau đó hàng loạt các bang và các thành phố khác đã xem xét về việc tổ chức những cơ quan kiểu này để nghiên cứu các vấn đề riêng của mình.

Vào thời của mình nhóm tư vấn về các vấn đề chính trị khoa học trực thuộc nghị viện Mỹ cùng với hàng loạt khuyến nghị khác đối với Thư viện Quốc hội trong bản báo cáo của mình “thông tin kỹ thuật đối với Quốc hội” đã đề nghị xây dựng một tổ chức tư vấn khoa học có chức năng cảnh báo sớm cho Quốc hội về những hậu quả tiêu cực tiềm năng từ việc ứng dụng công nghệ mới và làm rõ những lĩnh vực có triển vọng hơn cần tập trung sự quan tâm của Quốc hội. Đấy là một trong những lĩnh vực nghiên cứu mới nhất trong số rất nhiều khuyến nghị và đề nghị chính thức nhằm xây dựng “nhà máy tư duy” về những vấn đề chính trị khoa học phục vụ Quốc hội.

Trong suốt phần lớn của giai đoạn ban đầu hoạt động nghiên cứu nền kinh tế Liên Xô, RAND Coporation đã gặp nhiều khó khăn to lớn. Rất ít thông tin về nền kinh tế từ phía Liên Xô. Hãng đã buộc phải lập ra biên chế các nhà phân tích kinh tế để bắt tay vào xây dựng các tư liệu thống kê và đánh giá có độ tin cậy. Họ đã lập ra một tổ chức nghiên cứu các chỉ số về kinh tế của Liên Xô, như giá cả, các tiêu chí giá trị đời sống và tiền lương, sức mua của đồng rúp. RAND Coporation đã tiến hành nghiên cứu kỹ về Liên Xô. Kết quả của những nghiên cứu đó được đăng tải trên tạp chí của RAND “Soviet Cybernetics Review”, hai tháng một số, trong đó gồm thông tin và phân tích thông tin về những thành tựu của Liên Xô trong lĩnh vực điện tử và kỹ thuật toán; các bài viết của tác giả Mỹ về lĩnh vực này và tin tức về các hội nghị khoa học ở Liên Xô. Trong tạp chí này chúng ta có thể tìm thấy những ví dụ rất cụ thể về cả cách thức tiến hành thu thập tin tình báo khoa học. Điển hình như việc trong tạp chí có thông tin về máy tính điện tử của Liên Xô với những số liệu được lấy từ một cuốn sách xuất bản vào năm 1968 rất ít người biết đến, về việc máy tính điện tử sử dụng trong vận tải biển được thu thập từ báo chí công khai của Liên Xô.

Cũng bằng cách thức tương tự, RAND Coporation là một trong những trung tâm quan trọng nhất nhằm thu thập và phân tích thông tin về Trung Quốc. Công việc này được bắt đầu từ năm 1955 và tiến hành bằng một cách thức phân tích rất tinh tế các tài liệu, báo cáo, tin thường kỳ như đối với Liên Xô. Một ví dụ điển hình liên quan tới Trung Quốc là việc nghiên cứu chuyên sâu nhằm đánh giá Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, những tiềm năng công nghiệp của Trung Quốc. Trong bản báo cáo được công bố vào năm 1969 đã thể hiện kết quả phân tích sâu sắc về nền kinh tế Trung Quốc. Điểm gây ấn tượng chủ yếu là rất nhiều lời khẳng định mới đây của phía Trung Quốc về thành tựu kinh tế của mình đã chứa đựng những tin tức bị thổi phồng; còn theo RAND, nhịp đó tăng trưởng kinh tế trên thực tế chỉ có gần 3% chứ không thể là 9%.

Hoàn toàn không phải tất cả các nghiên cứu của RAND Coporation chỉ mang tính chất văn phòng. Cần phải nói rằng, Mỹ đã rất sợ hoạt động của các đội du kích Liên Xô trong những năm Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, nên ở RAND Coporation đã triển khai nghiên cứu các biện pháp phòng chống những hoạt động kiểu đó. Tại Việt Nam, RAND Coporation đã tiến hành gần 2 400 cuộc thẩm vấn các tù binh. Như trong một bản báo cáo của “RAND” cho thấy, những cuộc thẩm vấn như thế “đã cung cấp cho những người hoạch định chính sách của Mỹ rất nhiều thông tin quan trọng và chi tiết, về nguyên nhân và quan điểm của việt cộng”. Các tư liệu có được từ nỗ lực tìm hiểu việt cộng gồm: đạo đức, quan điểm, chiến thuật và động cơ… được xếp vào dạng tài liệu mật. Mối quan tâm của RAND Coporation đối với khu vực Đông Nam á cũng rất rộng lớn. Kể từ thời điểm Mỹ bắt đầu tham gia vào những hoạt động quân sự tại khu vực này, các chuyên gia của RAND Coporation cũng bắt đầu nghiên cứu dân cư, các phương pháp tiến hành chiến tranh và những loại vũ khí được đưa vào sử dụng… Nội dung nghiên cứu của họ bao trùm nhiều vấn đề: từ phân tích thuật toán hiệu quả của các trận ném bom đến nghiên cứu dân cư vùng rừng núi ở khu vực biên giới Việt Nam. Kết quả hoạt động tập thể này đã tạo ra một số lượng lớn các tư liệu làm cơ sở bao biện cho cuộc chiến ở các giai đoạn khác nhau. Trên thực tế, RAND Coporation đã hoạt động tích cực tới mức được mọi người coi là kẻ tham gia chiến tranh chứ không chỉ là những nhà nghiên cứu kinh viện.

Trên thực tế, hầu hết mọi phương pháp và hệ phương pháp đã được RAND Coporation trực tiếp soạn thảo hoặc được rất nhiều thành viên của nó sử dụng làm phương pháp luận nghiên cứu.

Bắt đầu từ năm 1963, RAND Coporation thường xuyên đăng tải thành những bài viết chuyên khảo, tuyển văn trong “Selected RAND Abstracts” dành cho các quan chức chính phủ, các nhà lãnh đạo của hãng và các trường đại học. Hàng năm, số lượng sách như thế được xuất bản là 30-40, có đề tài rộng khắp, như: những nghiên cứu của Liên Xô trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân; các vấn đề về hạn chế vũ khí chiến lược, tình hình ở Ba Lan; chủ nghĩa khủng bố quốc tế; nền chính trị Trung Quốc; khả năng cất cánh thẳng đứng của máy bay; các mục tiêu chiến lược của Liên Xô…

Các ấn phẩm xuất bản kết quả nghiên cứu của RAND Coporation còn có: Research Reports (báo cáo nghiên cứu) 1966-1970; RAND Coporation. Annual Reports (báo cáo thường niên của RAND) – Santa Monica (Califofnia) 1977, 1978, 1979, và nhiều năm tiếp theo.

Trong giai đoạn trước cải tổ, họ đã cho đăng nhiều công trình nghiên cứu Xô Viết học như:

- Nước Nga ở ngã ba đường: Đại hội XXVI ĐCS Liên Xô. Chủ biên X. Bialer và T. Gustafson. 1981, 223 trang.

- Perrot B. Sự phát triển thông tin trong khoa học và kỹ thuật Xô Viết. Việc nghiên cứu các kênh phát triển văn bản. 1981, 265 trang.

- Johnson A. Ấn tượng về chuyến đến Nam Tư “sau Titov”. 1981, 325 trang.

- Bennigsen A. Liên Xô và cuộc chiến tranh du kích hồi giáo trong những năm 1920-1981. 1981, 220 trang.

- Johnson A. Khủng hoảng ở Ba Lan. 1982, 186 trang.

- Leytes N. Phương thức tiến hành chiến tranh Xô Viết. 1982, 346 trang.

- Gosmer S. Đường lối Xô Viết và thực tế đối với các vụ xung đột ở “thế giới thứ ba”. 1983, 318 trang.

- Kurran S., Ponomorioff D. Yếu tố sắc tộc trong Lực lượng vũ trang Nga và Xô Viết. 1983, 204 trang.

- Winboos S. Những người lính Xô Viết đi từ Trung á tới Afghanistan. 1983, 204 trang.

- Bruner E. Những khuynh hướng hiện đại của nhân khẩu học và thành phần sắc tộc của những người được gọi nhập ngũ trong những năm 1980-1985. 1984, 338 trang.

- Winboos S, Alekxiev A. Yếu tố sắc tộc trong Lực lượng vũ trang Nga và Xô Viết. 1984, 186 trang.

Những công trình nghiên cứu không thuộc loại mật được phát hành rộng rãi tại 100 thư viện ở Mỹ và 50 thư viện nước ngoài.

RAND Coporation thường xuyên tổ chức các hội thảo, hội nghị với sự tham gia của nhiều quan chức chính phủ, các giáo sư, nhà báo, … để thảo luận những vấn đề cấp thiết.

Nó còn có hai phân viện; thứ nhất là Centrer for Study Soviet international behaviour, RAND – University of California, Los Angeles (Trung tâm nghiên cứu hành vi của Liên Xô ở nước ngoài của RAND Coporation và Trường đại học tổng hợp California, Los Angeles).

Trước hết, chúng tôi dẫn ra một số thông tin về trung tâm này cho phép giải thích tư duy của chính những thành viên RAND. Và chỉ có thể giải thích từ quan điểm hiểu biết hệ thống. Vấn đề là một hệ thống xã hội phức tạp như một quốc gia hiện đại như thế này thì không thể chỉ dừng lại trong khuôn khổ quốc gia của nó, mà còn được phản ánh vào trong bản đồ chính trị thế giới. Và Liên Xô không phải là ngoại lệ. Tại nhiều nước – tại Đông Nam á và trong “thế giới thứ ba” – “sự hiện diện Xô Viết” đã có một vị thế to lớn tới mức người ta không thể hình dung ra sự phát triển của các nước đó nếu thiếu Liên Xô của chúng ta. Và ngược lại, không thể hình dung về Liên Xô mà lại bỏ qua các quốc gia này. “Sự hiện diện Xô Viết” tựa như là bộ rễ của cái cây có tên gọi là “Liên Xô”. Nếu chặt bỏ được những cái rễ này, thì không cần đốn cái cây. Tất nhiên, tự thân những biện pháp này không bảo đảm cho thành công, song chúng có ý nghĩa to lớn là sẽ tác động tới toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tôi cho rằng chính hình ảnh này đã được trung tâm này xây dựng nên vào năm 1983, mặc dù, theo quan điểm chính thức của Donald Ris – Chủ tịch của RAND Coporation, – tiết lộ, đã có từ trước đó. Theo ông ta, do không đủ chuyên gia về đường lối đối ngoại và đường lối quân sự Xô Viết nên trung tâm buộc phải đào tạo họ. Ngoài ra, tâm điểm chú ý của các chuyên gia trong trung tâm là các mối quan hệ hữu cơ giữa những yếu tố bên trong và bên ngoài của chiến lược Xô Viết.

Giám đốc trung tâm là Arnold Horelic, trước đó từng làm lãnh đạo Nhóm nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu của RAND Coporation. Đồng Giám đốc là Andge Kobonxki.

Hướng nghiên cứu chính của trung tâm là đào tạo các chuyên gia cao cấp cho bộ máy chính phủ và các phương tiện thông tin đại chúng; đào tạo tiến sĩ nghiên cứu về vai trò của Liên Xô trong nền chính trị thế giới; quan hệ giữa Liên Xô và các nước Đông Âu; nền chính trị – kinh tế đối ngoại Xô Viết; quan hệ Mỹ – Liên Xô; những nhân tố bên trong của nền chính trị đối ngoại Xô Viết; đường lối Xô Viết trong lĩnh vực quốc phòng. Ngoài ra, họ còn nghiên cứu về mối quan hệ giữa đường lối đối nội và đối ngoại Xô Viết. Ngoài ra, trung tâm còn đặc biệt quan tâm tới hoạt động của các Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ Ngoại thương, ủy ban quốc gia về quan hệ kinh tế đối ngoại của Liên Xô.

Phân viện thứ hai – thủ phủ: RAND Coporation, Washington office.

Trong phân viện có khoảng 40 chuyên gia khoa học và 40 chuyên gia khoa học – kỹ thuật, được chia thành 4 ban: những vấn đề đối nội; chế tạo tầu thuyền dân sự; an ninh quốc gia (theo kế hoạch của nghị viện); an ninh quốc gia (theo kế hoạch của RAND Coporation)

Những vấn đề được nghiên cứu ở đây là: bảo đảm hậu cần cho hoạt động của Lực lượng Không quân Mỹ; khoa học ứng dụng và công nghệ; phòng thủ chiến lược và lực lượng vũ trang; nguồn nhân lực; hệ thống thông tin và v.v… Hàng năm phân viện gửi đi hàng trăm báo cáo các loại, văn bản ghi nhớ tới các cơ quan quân sự, các hãng hoặc tới 300 thư viện.

Ngoài ra, phân viện này còn có một bộ phận khác tại thành phố Dowton (bang Ohio), gần Căn cứ Không quân Right-Patterson.

Trong những năm cải tổ mọi người không thể quên RAND Coporation khi mọi sự được bắt đầu từ việc Giám đốc CIA Wiliams Casy “buộc phải thỏa thuận với cựu chủ tịch của RAND Coporation là Henrry Rouen lãnh đạo Hội đồng quốc gia về vấn đề tình báo để tuyển Gerb Maier Tổng biên tập tạp chí “Fortun” làm trợ lý chuyên môn. Còn ông ta, bằng mối quan hệ với Nhà Trắng, thì tuyển nhà kinh tế học Davis Wight, người đã lập ra hệ thống kiểm soát mức ngoại hối cố định vào Liên Xô và qua xuất khẩu. Đó là những chuyên gia phân tích về kinh tế Liên Xô. Tay nghề chuyên môn của những người được Casy tập hợp quanh mình đã nói lên mối quan tâm của ông ta”.

Các nhà Xô viết học

Các nhà Xô Viết học hàng đầu của Mỹ được chúng tôi dẫn ra trong Phụ lục số 3. Chúng tôi điểm danh những nhà phân tích, Xô Viết học và những người lãnh đạo họ cùng những người khác chỉ để có thể trả lời chính xác cho câu hỏi: “Ai trong số họ là người chiến thắng chủ yếu trong “thế giới thứ ba”.

Nếu từ phía lãnh đạo Xô Viết, thắng lợi trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại được dựa trên mối liên hệ Xtalin (động viên mọi nguồn lực toàn quốc gia, mối quan hệ đối nội và đối ngoại, đào tạo cán bộ, lãnh đạo khối chính trị, hiệp đồng các hoạt động lớn trên mặt trận) – Zukov (các trận đánh và chiến dịch chiến lược thành công nhất), thì về phía Mỹ, kẻ “chủ chốt” trong “chiến tranh lạnh” không được xác định rõ.

Trong suốt những thập kỷ 1950-1980 các nhà Xô Viết học của kế hoạch tuyên truyền đã làm việc trong suốt thời gian đó, còn các nhà Xô Viết học nghiên cứu làm việc vì tương lai. Nói về nhóm thứ hai, ta có thể thấy rằng một nhà nghiên cứu bình thường chỉ có thể tiến hành những hành động riêng lẻ nhằm phá hoại Liên Xô. Ví dụ, một nhà kinh tế học chỉ có thể đưa ra những khuyến nghị trong khuôn khổ một chiến dịch chống Liên Xô, chứ không phải cho toàn cục. Thất bại tổng thể chỉ có thể từ những công nghệ mang tính hệ thống.

Trong cách nhận định này, thành công trong việc phá hoại Liên Xô không chỉ thuộc về kẻ gián điệp có ảnh hưởng và sự bảo đảm về tri thức của nó, mà có một phần lớn đáng kể thuộc về sự phân tích của các bộ tham mưu “cải tổ” từ bên kia đại dương.

Giữ một vai trò đặc biệt là những người xuất thân từ Liên Xô với những tin tức “tươi sống” khi họ vừa rời bỏ đất nước và hoàn toàn tự nguyện giúp đỡ Mỹ.

Trong vấn đề này chúng tôi hiểu được rằng trong số các nhà Xô Viết học không thể thiếu những người xuất thân từ Nga, không chỉ bởi họ hiểu biết về đất nước này hơn bất cứ ai khác, mà còn bởi uy tín của những nhà nghiên cứu Nga luôn rất cao. Trong số những người này, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau để rời bỏ đất nước, song đặc biệt cũng có kẻ ra đi theo “làn sóng thứ ba”, bị các cơ quan tình báo lập kế hoạch đưa họ rời Liên Xô, hay nói theo một thuật ngữ thời thượng là “Chảy não” (các chuyên gia bỏ ra nước ngoài).

Chúng tôi xin dẫn ra dưới đây một số nhà Xô Viết như vậy.

Avtorkhanov Abdurkhman Ginazovich, 1908-1909?, người Chêchen, giáo viên, sau vào khu ủy. Năm 1937 tốt nghiệp Viện Giáo học. Từng làm việc tại BCHTW ĐCS, hai lần bị bắt giam, vào tháng 1 năm 1943 bỏ trốn ra nước ngoài. Đã từng giảng dạy tại Học viện Nga của Quân đội Mỹ. Sau sống tại ngoại ô Munchen (Cộng hòa Liên bang Đức). Thành viên ngoại quốc của Viện Hàn lâm khoa học các khoa học tự nhiên Liên bang Nga. Các tác phẩm: “Đế chế Kremli”, “Xtalin đương quyền”, “Công nghệ quyền lực”, “Bí ẩn của cái chết Xtalin. Âm mưu của Beria”, “Sức mạnh và sự bất lực của Breznev”, …

Birman Igor Iakovlevich, sinh năm 1928, người Do Thái. Đã từng làm lãnh đạo Ban phương pháp toán – kinh tế của một viện hàn lâm ở Matxcơva. Năm 1974 di cư sang Mỹ. Tác phẩm có “Chương trình hóa tối ưu”.

Voslenxki Mikhain Iakovlevich, sinh năm 1920. Tốt nghiệp khoa lịch sử Trường đại học tổng hợp Matxcơva (MGU), từng học cùng với con gái của I. V. Xtalin là X. I. Alliulueva. Từng làm phiên dịch tại Tòa án quốc tế Newremberg và tại Hội đồng Kiểm soát đồng minh ở Đức. Từ năm 1950 là cộng tác viên của Văn phòng Thông tin Xô Viết trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Sau đó công tác tại Hội đồng Hòa bình thế giới, tại Viện Kinh tế thế giới và Các quan hệ quốc tế của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Năm 1972 đi giảng bài tại Trường đại học tổng hợp Munchen (Đức), từ tháng 4 năm 1974 – tại Viện do Vaitzeker lãnh đạo. Năm 1976 bị tước quyền công dân Liên Xô. Là Giám đốc Viện Nghiên cứu các vấn đề thực tiễn Xô Viết. Tác phẩm: “Giới thượng lưu”.

Zemtxov Ilia Grigorevich, sinh năm 1941, người Do Thái. Từng làm việc tại Ban Thông tin trực thuộc BCHTW ĐCS Azerbaidzan. Bỏ sang Israel. Đã từng là một trong số các nhân vật thiết lập những cuộc tiếp xúc bí mật đầu tiên giữa Israel với Gorbachov vào năm 1990. Tác phẩm: “Đảng hay Maphia? Một nền cộng hòa bị đánh cắp”, “Tan rã một thời đại” (hai tập).

Zinoviev Alecxandr Alecxandrovich, sinh năm 1922, người Nga. Theo lời ông, năm 1938 đã từng bị bắt giam vì hoạt động chống Xô Viết. Từng tham gia Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Tốt nghiệp MGU, tiến sĩ triết học, giáo sư. Năm 1976 bị buộc nghỉ việc, bị KGB theo dõi vì đưa in tác phẩm “Những đỉnh cao rạn nứt” ở phương Tây. Đã từng sống tại Munchen. Tác giả của rất nhiều cuốn sách. Có nhiều bằng chứng và lý luận về sự thất bại của Liên Xô.

Kalmykov Igor Borixovich, sinh năm 1918, người Nga. Tốt nghiệp Trường đại học Bách khoa Novocherkaxk, dự thính tại Trường đại học Ngoại ngữ quân sự. Sau chiến tranh làm phiên dịch và kỹ sư Trưởng Ban Công nghiệp điện Cục Hành chính quân sự Liên Xô tại Đức. Đảo ngũ sang vùng do phương Tây chiếm đóng vào tháng 1 năm 1947. Cộng tác viên của Dự án Harward, giảng bài trong Trường Tình báo, làm việc tại Đài phát thanh “Tự do”. Tác giả của nhiều cuốn sách làm mất uy tín các tổ chức an ninh Xô Viết. Nổi tiếng dưới tên gọi là Klimov Grigori Petrovich.

Sevchenko Arkadi Xemenovich, sinh năm 1930, người Ucraina. Tốt nghiệp Học viện Ngoại giao bằng ưu và được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh. Là một nhà ngoại giao đầy hứa hẹn, cương vị sau cùng – Phó tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Từ năm 1971 thực hiện các nhiệm vụ của CIA, vào tháng 4 năm 1978 trở thành kẻ không thể hối cải. Giảng môn đường lối đối ngoại Xô Viết tại Trường đại học tổng hợp Harward. Sách: “Nổ tung cùng Matxcơva”.

Sliapentokh Vladimir Emmanuilovich, người Do Thái, chuyên gia Xã hội học, từng công tác tại Viện Xã hội học và viết bài cho báo “Sự thật” (Pravda). Di tản năm 1976. Làm giáo sư tại Trường đại học tổng hợp Michigan. Sách: “Những vấn đề về độ tin cậy của thông tin thông kê trong các nghiên cứu xã hội học” (1973), “Làm sao hôm nay nghiên cứu ngày mai” (1975), “Những vấn đề lựa chọn cố tình và vô tình thông tin trong xã hội học”(1976).

Thật vô cùng dễ hiểu là phương Tây không chỉ quan tâm tới các công dân Liên Xô mà cả các nhà khoa học khác ở các nước Đông Âu. Sau năm 1991, số “các nhà Xô Viết học” được tăng lên và có thêm những nhân vật rất đặc biệt.

Kalugin O. D. “Có thời gian tôi đã giảng bài tại Trường đại học tổng hợp Thần học ở Washington, chuyên về đường lối đối ngoại Xô Viết. Hợp đồng kết thúc, tôi tổ chức ra một hãng tư vấn. Hàng ngày chúng tôi xuất bản tờ tin về tình hình ở Nga trên cơ sở phân tích chi tiết báo chí Nga và báo chí nước ngoài. Số người đặt mua rất nhiều, doanh số hàng năm lên tới 900 USD. Tên tôi khá nổi tiếng ở Mỹ và có nhiều doanh nhân Mỹ tìm kiếm các thông tin ở chỗ chúng tôi, khi họ muốn đầu tư vào nền kinh tế Nga. Thực chất, đó là một công việc có lợi cho nước Nga… Mới đây chúng tôi bắt đầu mở rộng sang tất cả các nước SNG, kể cả Gruzia và Moldova”.

Khrusov X. N. Dưới thời xa xưa của Xô Viết đã từng làm chuyên gia chế tạo tên lửa. Từ đầu năm 1992 làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu chính trị đối ngoại của trường đại học Tổng hợp Braun (thành phố Providens, bang Rod-Island) với tư cách là một nhân viên khoa học trong Dự án “Con đường duy nhất phát triển các quốc gia hậu Xô Viết”.

Sản phẩm của “Những trung ương thần kinh”: các học thuyết và công nghệ trí lực

Vậy thì “Những trung ương thần kinh” được thành lập ra để làm gì? Hay nói theo ngôn ngữ của điều khiển học: Chúng có “đầu ra” như thế nào?

Ngay từ những năm 1950, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã soạn thảo những kế hoạch áp dụng vào phạm vi điều hành của Liên Xô nhằm mục tiêu làm thay đổi chế độ này, hoạch định ra mối quan hệ quốc tế cho phép thực hiện việc can thiệp vào công việc nội bộ của Liên Xô và của các nước xã hội chủ nghĩa. Những học thuyết vạch ra những cơ sở cho hành động trong tương lai của Mỹ nhằm vào hệ thống Xô Viết… Trong số đó, có hiệu lực lớn nhất là Chỉ lệnh N°20/1 của Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) được dẫn ra trong Phụ lục 4.

Các học thuyết ở giai đoạn hành động của Mỹ đối với Liên Xô được gọi là “Kiềm chế chủ nghĩa cộng sản”[5].

Mỹ là một đất nước kỳ lạ. Chỉ nó là có nhiều hành động hợp pháp liên quan tới các nước khác, thậm chí liên quan tới vấn đề sống hay chết của các quốc gia này. Chúng ta thường chú ý nhiều tới cái gọi là “Đạo luật về các dân tộc bị áp bức” (P.L. 86-90 được thông qua ngày 9 tháng 7 năm 1959). Văn bản này được Phó giáo sư Lev Dobrianxki Trường đại học tổng hợp Georgetown (Washington) soạn thảo: “Vì bắt đầu từ năm 1918, đường lối xâm lược và đế quốc của chủ nghĩa cộng sản đã dẫn tới việc kết nên một đế chế rộng lớn, gây nên mối đe doạ đặc biệt ác độc đối với nền an ninh của Hoa Kỳ và của tất cả các dân tộc tự do trên thế giới, và…

Vì đường lối đế quốc của nước Nga cộng sản, bằng con đường xâm lược trực tiếp hay gián tiếp, đều dẫn tới sự bóc lột và tước đi nền độc lập dân tộc của Ba Lan Hungari, Litva, Ucraina, Látvi, Estoni, Belorus, Rumani, Đông Đức, Bungari, Trung Hoa đại lục, Armeni, Azerbaizan, Gruzia, Iden-Uran (vùng Volzxk- Uranxk), Tibeta, Kazaktan, Turkestan, Bắc Việt Nam và của nhiều nước khác, …

Vì vậy, những dân tộc bị áp bức này trông chờ vào Hoa Kỳ như một thành trì của tự do nhân loại, họ tìm kiếm người chèo lái cho sự nghiệp giải phóng của mình… Chính chúng ta phải bằng con đường chính thức chỉ rõ cho các dân tộc này thấy một sự kiện lịch sử rằng nhân dân Hoa Kỳ đang chia sẻ ý nguyện giành lại tự do và độc lập của họ.

Tổng thống Hoa Kỳ có toàn quyền và được mọi người đòi hỏi ban hành bản thông báo tuyên bố tuần thứ 3 của tháng 7 năm 1959 là “Tuần lễ của Các dân tộc bị áp bức” và hiệu triệu nhân dân Hoa Kỳ tổ chức kỷ niệm tuần lễ này bằng những lễ nghi và những bài phát biểu, Tổng thống được mọi người yêu cầu hàng năm phải ban hành bản thông báo tương tự như thế cho tới khi nào chưa giành được tự do và độc lập cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới… Việc chấp thuận cuộc cách mạng này – một bộ phận của chiến dịch nhằm chống lại chủ nghĩa cộng sản và có mục tiêu giáng một đòn vào những vị trí dễ tổn thương của chủ nghĩa cộng sản – kiểm soát các nhóm dân tộc khác nhau”.

Sau khi phân tích bài phát biểu của những kẻ theo khuynh hướng phân liệt diễn ra vào giai đoạn tích cực phá tan Liên xô, có thể nhận thấy rằng hầu hết bọn chúng đã hành động dựa trên chính cơ sở “Đạo luật” của một đất nước thù địch với chúng ta này.

“Học thuyết Giải phóng” hiện thực hay còn gọi là Học thuyết Reagan trực tiếp nhằm đánh bại Liên xô này được các chuyên gia trong các trung ương thần kinh và các tổ chức Xô Viết học có nhiều kinh nghiệm soạn thảo vào đầu thập kỷ 1980. Các nghiên cứu của “Các trung ương thần kinh” “được dựa trên nền tảng của kế hoạch gây mất ổn định cho đối thủ của mình (Liên Xô) do Chính quyền Reagan soạn ra vào đầu thập kỷ 1980 dưới tên gọi “Cho mọi phương hướng của chúng ta”.

Các động cơ của nó “… được bắt nguồn từ việc Liên Xô, đối với Mỹ, là kẻ cạnh tranh địa chính trị, là vật cản duy nhất trong sự nghiệp thiết lập một trật tự thế giới theo kiểu Mỹ. “Học thuyết” này bào gồm một danh sách dài những tài liệu mật mang một tên gọi chung là “Quyền uỷ trị” và từng được điều chỉnh 4 năm một lần trước khi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống mới tiếp theo. Vào năm 1980 và năm 1984 nó được chuẩn bị cho Tổng thống Reagan; vào năm 1989 – cho Tổng thống Bush, và sau đó là cho Tổng thống B. Clinton. Reagan – kẻ tuyên bố “cuộc thập tự chinh” chống Liên Xô – đã coi “Quyền uỷ trị” là sách gối đầu giường của mình bởi trong tài liệu này, từ thời đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ của Liên Xô đã được các nhà chiến lược Mỹ đánh giá là nguồn tiềm năng bảo đảm sự sống còn cho Mỹ trong tương lai của thế kỷ XXI. Không phải ngẫu nhiên trong các tài liệu hiện nay có dùng phạm trù “Quyền uỷ trị”, và nước Nga đã rơi vào danh mục “Nước có khả năng xuất khẩu tài nguyên đặc biệt”.

Những kiềm chế liên quan trực tiếp tới Liên Xô và các nước Đông Âu được đề cập trong “Quyền uỷ trị-3”, chúng tôi dẫn ra trong Phụ Lục số 5.

Những gì liên quan tới kế hoạch này, theo R. Pips công nhận, rằng Reagan đã ký một loạt tài liệu chính trị mật xác định hướng chủ yếu của đường lối Mỹ trong quan hệ với Liên Xô: đẩy đất nước này theo hướng tự do hóa nội bộ. Lời thú nhận này rõ ràng nói tới Chỉ lệnh NSDD-32 (tháng 3 năm 1982) là nhằm “trung lập hoá” ảnh hưởng của Liên Xô tại các nước Đông Âu và trước hết là ở Ba Lan; NSDD-66 (tháng 10 năm 1982) là phá hoại nền kinh tế, trong đó thông qua việc hạ giá nguyên liệu, trước hết là đối với dầu mỏ (thông qua sự ép buộc tương ứng đối với các nước Cận Đông), rút cuộc điều này đã dẫn tới sự giảm sút đáng kể việc chuyển ngoại tệ vào Liên Xô. Trong Chỉ lệnh NSDD-75 (tháng 1 năm 1983) tiếp theo đã được bổ sung là nhằm phá hoại những nền tảng cơ bản của hệ thống Xô Viết; Chỉ lệnh NSDD-166 (tháng 3 năm 1985) đã định hình ra những mục tiêu chủ yếu của cuộc chiến tranh Afghanistan trong bối cảnh chiến lược chung, tăng cường những yếu tố Islam (Hồi giáo), sự phân hoá ở Trung Á, “chế áp” các đơn vị quân đội Xô Viết ở Afghanistan. Những văn bản này không có trong các nguồn công khai, nên chúng tôi chỉ dẫn ra bằng chứng của các nhân vật thạo tin.

NSDD (Chỉ lệnh về bảo vệ an ninh quốc gia) N°32, tháng 3 năm 1982.

“… Tổng thống đã ký NSDD Chỉ lệnh về bảo vệ an ninh quốc gia N°32, phê chuẩn một loạt các biện pháp bí mật về đối ngoại và kinh tế nhằm “trung lập hóa những nỗ lực của Liên Xô để nắm giữ trong tay họ các nước Đông Âu. Trên bình diện thực tế, tại Ba Lan đã tiến hành những chiến dịch nghiêm túc nhất trong số các chiến dịch bí mật được thông qua. Những mục tiêu chủ yếu của Chỉ lệnh số 32 là: gây mất ổn định trong Chính phủ Ba Lan bằng cách thực hiện các chiến dịch bí mật bao gồm tuyên truyền và tổ chức hỗ trợ Công đoàn “Đoàn kết”; thổi phồng vấn đề về nhân quyền, đặc biệt cần liên hệ với tình hình của công nhân và thiên chúa giáo; gây áp lực kinh tế; tiến hành cách ly ngoại giao của chế độ cộng sản. Trong tài liệu nhấn mạnh cần thiết bảo vệ những nỗ lực nhằm thực hiện các cải cách dân chủ trên toàn bộ đế chế Xô Viết, cùng như ra lệnh tăng cường tuyên truyền và các buổi phát thanh bí mật ở Đông Âu. Điều này, theo trợ lý của Reagan và của những kẻ chống đối ở Đông Âu, là đặc biệt có lợi để phá tan quan niệm về khả năng không bị tổn thương của Xô Viết”.

Chỉ lệnh “đã khuyến nghị “trung lập hóa ảnh hưởng Xô Viết ở Đông Âu và áp dụng các biện pháp bí mật, các phương pháp vững chắc hỗ trợ cho những tổ chức chống Xô Viết. (…) Sau đó vài tuần đã xuất hiện thêm một tài liệu mới do Richard Pips và người được ủy quyền là W. Klarc soạn thảo. Tài liệu này tỏ ra rất cương quyết: “Mục tiêu của Hoa Kỳ – “trung lập hóa những nỗ lực nhằm duy trì quyền lực của Liên Xô tại Đông Âu. (…) – được xem là quan điểm tích cực và đã cắt đứt với quá khứ (nghĩa là, một mặt nó đã hủy bỏ cả Hiệp ước Ialta và Hiệp ước Helsinhky). Ronald Reagan đã thể hiện rõ quan điểm của Hoa Kỳ không chấp nhận ưu thế của Xô Viết ở Đông Âu. Chúng ta cố tạo ra một chiến lược quy mô lớn với mục tiêu làm suy yếu ảnh hưởng Xô Viết, cũng như nhằm củng cố các lực lượng bản địa đang đấu tranh vì tự do ở khu vực này. So với các quốc gia như Bungari, Rumani và Tiệp Khắc, thì Ba Lan đã tạo nên một cơ hội to lớn chống đối chế độ. Điều đó có nghĩa rằng tại các nước còn lại chúng ta cũng tìm được những khả năng để công khai hoặc ngấm ngầm làm suy yếu ảnh hưởng của Matxcơva. (…) “NSDD-32” đã đặt ra một s?