Chương 4 “LỜI CỦA ALLEN DALLES. NHẠC CỦA RAISA VÀ MIKHAIN GORBACHOV. “CẢI TỔ”. NGƯỜI BIỂU DIỄN ĐẦU TIÊN”
Ai đã nghĩ ra cải tổ: các nhà khoa học hay một kẻ nào khác?
- Không, không phải các nhà khoa học. Những người này thường thử nghiệm trước tiên trên những con khỉ.
Tiếu lâm thời nay.
“Không, đấy không phải là cuộc thử nghiệm liều lĩnh. Đấy là một đường lối có cơ sở khoa học”.
B. N. Eltxin
Mật ước của “những nhà cách mạng cộng đồng”Hai đàn chim kền kền, của ta và của người, lượn vòng trên thân thể suy mòn của Tổ quốc. Những đàn chim này không bay riêng lẻ, mà chúng tụ tập thành một đàn.
Nikolai Leonid
Trước khi chúng ta đề cập tới khía cạnh này hay khía cạnh khác trong hoạt động chung của người Mỹ và của một bộ phận lãnh đạo cao cấp nước ta, cần nhớ tới việc hình thành những clann khác nhau ở Liên Xô. Ngoài những nhiệm vụ chung mang tích chất nội bộ hoàn toàn dễ hiểu mà giới lãnh đạo cao cấp đặt ra cho mình, họ còn lo tới vấn đề ban đầu là thiết lập mối quan hệ, sau là những việc đôi bên cùng có lới đối với các đối tác bên ngoài. Lúc đầu, như bao trường hợp khác đã xảy ra, các lợi ích có thể trùng hợp nhau một cánh tình cờ trên một số quan điểm, nhưng sau khi phạm vi các lợi ích mở rộng thì các đối tác chỉ còn mưu lợi riêng.
Nhân đây, vấn đề đặt ra là: Liệu âm mưu chống Liên Xô có phải là chiến dịch đầu tiên của liên doanh Xô – Mỹ “Kremli – Nhà Trắng” hay không? Cho đến nay và chắc chắn trong tương lai gần không hề có một lời xác nhận nào từ phía những kẻ chủ mưu. Có những bằng chứng rõ ràng, được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ, cho thấy “cải tổ” không phải là âm mưu đầu tiên của “liên doanh” có thực giữa các thế lực đen tối ở Liên Xô và phương Tây. Theo quan điểm lợi ích chung, ta có thể xem xét những vấn đề như: cuộc khủng hoảng ở Vịnh Caribe, hoạt động đen tối của Bộ Ngoại thương, cuộc chiến Afghanistan, việc bảo đảm tài chính của “các đảng công nhân và cộng sản anh em”, sự giúp đỡ cho “các dân tộc giải phóng”. đặc biệt là trong số những kẻ hiện nay chịu sự bảo trợ của Mỹ.
“Giải tỏa căng thẳng”, “Học thuyết Breznev”, … chỉ làm giảm bớt mức độ xung đột một cách hình thức. Trên thực tế, bắt đầu có sự nhượng bộ của phương Tây trong những lĩnh vực nguy hiểm nhất. Do mất cảnh giác, dân Liên Xô không hiểu rõ khuynh hướng của sự nhượng bộ này. Đấy thực chất là trận chiến đầu tiên có lợi cho các chính trị gia Mỹ. Ngay sau đó, họ tuyên bố tẩy chay Thế vận hội Olimpic ở Matxcơva do Liên Xô đưa quân đội vào Afghanistan, đồng thời tuyên bố Liên Xô là “Đế chế độc ác” (Trước đây, những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã từng gọi đế quốc Nga là “Nhà tù của các dân tộc”). Sau những bước tiến công khai, họ lại mang mặt nạ yêu chuộng hòa bình để tiếp tục những cuộc chiến “ngầm”.
Động cơ của người Mỹ rất rõ ràng. – các quan điểm trước đây đòi hỏi một sự hoàn tất lôgic. Hơn nữa, phương Tây đang đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn cầu: “chạy đua vũ trang… đã trở thành trò ngu xuẩn đối với chính Mỹ. Các nhà nghiên cứu chủ đạo của Mỹ đã đi đến kết luận rằng họ không thể giành được chiến thắng trong cuộc chạy đua vũ trang đối với Liên Xô”.
Theo những dự đoán của họ, nếu đến giữa thập kỷ 1990 không xảy ra những thay đổi căn bản, thì ở Mỹ sẽ có một sự bùng nổ lớn về chính trị và xã hội. Lối thoát duy nhất đối với các nhà cầm quyền Mỹ là phá hoại Liên Xô từ bên trong, tìm cho được những đòn bẩy cần thiết tác động vào đó”.
Các nhà nghiên cứu đã không sai lầm: sự phá sản của Liên Xô đã cứu nước Mỹ thoát khỏi một cuộc khủng hoảng và mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng mà trước đó họ chưa từng biết đến. Chính vào giữa thập kỷ 1980, khi Liên Xô rơi vào tình trạng lúng túng trong điều hành quốc gia Xô Viết và nền kinh tế quốc dân, phương Tây đã bắt đầu giải quyết thành công các vấn đề về cải cách cơ cấu kinh tế, giảm được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất, nâng cao rõ rệt mức sống cho dân chúng mà không bị lạm phát. Đây là điều mà phương Tây chưa bao giờ giải quyết được thành công đến thế. Phương Tây đã giải quyết được các vấn đề nội bộ của mình mà không bị bất kỳ một chấn động xã hội nào, không phải sử dụng tới nguồn lực hỗ trợ của tầng lớp giàu có trong xã hội. Điều này diễn ra tựa như những ngày khởi đầu của “Điều thần kỳ kinh tế Nhật Bản”. Tóm lại, phương Tây đã giải quyết được các vấn đề của mình nhờ sự sa sút của Liên Xô.
Vậy mối liên hệ giữa lãnh đạo cao cấp hai nước đã được thiết lập như thế nào? Việc thiết lập mối quan hệ chỉ là công việc bình thường của ngành tình báo. Đối với giới lãnh đạo chính thức, mối liên hệ được thiết lập trên cơ sở phụ thuộc vào mức độ cần thiết, không chính thức thông qua việc nối hệ thống liên lạc điện thoại từ văn phòng. Các kênh liên lạc này thường hoạt động tích cực nhất khi bắt đầu những hành động mang tính quyết định.
Những gì liên quan tới một trong số nhân vật được chúng ta chú ý – M. X. Gorbachov, là mối liên hệ không chính thức như vậy là rất rộng. Trên tờ báo “Den” (Ngày) số 22 năm 1993 đã đăng tải 4 bức ảnh với nội dung:
“Những bức hình này của Hãng thông tấn “Gama” (Pháp) do Efimov Abramovích, theo lời họ khẳng định, là nhân viên tình báo KGB đã chụp vào đầu thập kỷ 1970 tại Siciliana. Trong ảnh là Raisa Gorbachova (Phu nhân của Gorbachov). Trong thời gian này, tại Siciliana đang diễn ra cuộc gặp mặt “Những chính khách trẻ”. M. X. Gorbachov lúc đó đang là cán bộ đoàn, thủ lĩnh Đảng của Stavropol. Chính vào thời điểm này, mối liên lạc của “người cải tổ số 1” trong tương lai với giới lãnh đạo chính trị phương Tây được thiết lập, khắc ghi mối quan hệ đặc biệt “Gorbachov – Thatcher[6]“. Như nhiều cuộc tiếp xúc khác, mọi người biết rất ít về cuộc gặp tại Siciliana này. Tuy nhiên, những cuộc tiếp xúc này đã khởi đầu một đường lối “Tư duy mới” và điểm kết thúc là sự biến mất hoàn toàn của Liên Xô”. M. X. Gorbachov, khi là Bí thư phụ trách nông nghiệp, đã có thể công khai tiếp xúc với người Mỹ. Như, ngày 4 tháng 11 năm 1981, ông ta đã tiếp J. Cristal, theo thông báo chính thức, là chuyên gia về nông nghiệp và nhà hoạt động xã hội. Vào giữa tháng 11 năm 1983, cuộc gặp mặt như vậy lại được tổ chức. Lần gặp này, theo lời mời, còn có Phó vụ trưởng Vụ Quốc tế BCHTW ĐCS Liên Xô A. X. Chernaiev.
Thông qua con đường công khai và không công khai, M. X. Gorbachov đã từng tiếp xúc với người của RAND Coporation. ít nhất có một lần được ghi nhận: ngày 4 tháng 2 năm 1987, Đoàn đại biểu của Hội đồng Quan hệ quốc tế sang thăm Matxcơva. Trong số họ có John Brown Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong những năm 1977-1981 (Dưới thời Tổng thống Jimmy Carter), còn vào thời điểm đó đang là thành viên của Hội đồng Bảo trợ thuộc RAND Coporation.
Trong sử sách của chúng ta từng lưu ý tới việc phía Mỹ đã có ý định thiết lập mối liên hệ với M. X. Gorbachov trước khi khởi động công cuộc “cải tổ” không lâu. Năm 1984, – khoảng một năm trước khi M. X. Gorbachov lên nắm chính quyền -tại Geneve, trong quá trình diễn ra Hội nghị về giải trừ quân bị, lãnh đạo phía Xô Viết có Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô V. Israelian đã nhận lời mời của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Mỹ (Tại Hội nghị Geneve) Lewis Fields tới gặp mặt “trên cơ sở thông thường”. Theo chính V. Israelian thông báo lại, cuộc gặp đã diễn ra “…tại một nhà hàng ngoại ô thành phố. Trong khi ăn, người Mỹ không thông báo cho tôi điều gì đặc biệt. (…)
Khi tôi chuẩn bị chia tay với Fields, ông ta đã đề nghị tôi cùng đi thả bộ sau bữa ăn.
- Washinhton muốn thiết lập mối tiếp xúc công việc nghiêm túc với ban lãnh đạo Kremli, – Fields mở đầu. – Và Phó tổng thống Bush luôn sẵn sàng gặp một lãnh tụ Xô Viết trong thời gian công cán tại Geneve. Cuộc gặp cần phải mang tính chất riêng, kín đáo nhất. Trả lời câu hỏi của tôi, liệu phía Mỹ định gặp một ai cụ thể trong giới lãnh đạo Xô Viết, Fields đã nói thẳng rằng Phó tổng thống muốn được gặp M. X. Gorbachov với tư cách là một lãnh tụ chắc chắn trong tương lai của Liên Xô.
Tôi lập tức hỏi, tại sao lời đề nghị quan trọng như thế lại thông qua tôi, mà không theo những kênh ngoại giao thông thường – như qua Đại sứ quán của chúng tối tại Washinhton hay qua Đại sứ quán của các ngài tại Matxcơva. Fields không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, ông ta nói rằng mình chỉ thực hiện ủy nhiệm được giao. (…)
Vào đúng thời gian đó Bush đã có mặt tại Geneve. Bài phát biểu tại Hội nghị giải trừ quân bị được ghi nhận vào ngày 18 tháng 4, còn trước hôm đó Xadrudnin Aga Han[7] đã gọi điện thoại tới phòng tôi và bí mật thông báo rằng vào chiều ngày 17 ông ta muốn cùng tôi gặp “một người bạn chung của chúng ta”. Vốn là một nhà hoạt động có danh tiếng, suốt nhiều năm liên tục từng hoàn thành nhiều ủy nhiệm tế nhị và trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Aga Han đã nhiều năm gần gũi với Bush.
Chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện chỉ với hai người. Bush đề cập ngắn gọn mục đích chủ yếu chuyến đi sang Geneve của mình là đưa ra bản dự thảo hiệp ước về cấm vũ khí hóa học. Khi chúng tôi chuyển sang những vấn đề khác, Aga Han bỏ đi, chỉ còn lại tôi với Bush. Ông ta lập tức chuyển cuộc nói chuyện sang khả năng tiến hành cuộc gặp Xô – Mỹ không chính thức. Bush tái khẳng định ủy nhiệm của mình trao cho Fields và nói thêm rằng địa điểm và thời gian cuộc gặp có thể sẽ được xác định trên cơ sở nguyện vọng và khả năng của hai bên. Những gì liên quan tới nội dung cuộc nói chuyên, nếu tính tới tính chất không chính thức của cộc gặp theo đề nghị, thì mỗi bên tham gia có thể tùy ý đề cập tới bất cứ đề tài nào. với tư cách của người cùng nói chuyện với mình là lãnh tụ Xô Viết tương lai, ông ta chỉ nêu tên một người. “lãnh tụ sau đây của các ngài sẽ là Gorbachov”, – ông ta tuyên bố một cách tin tưởng. Những lời này đã khắc rất sâu trong trí nhớ của tôi. (…)
Tôi đã hứa với Bush báo cho Matxcơva về lời đề nghị của ông ta.
Một tuần sau, tại Matxcơva, ngay trong cuộc gặp đầu tiên với bộ trưởng, tôi đã báo cáo về lời đề nghị của Bush. Gromyko chăm chú nghe, không ngắt lời cũng không hỏi câu nào. Khi tôi kết thúc bản báo cáo, bầu không khí trong phòng trở nên nặng nề. Vị bộ trưởng nhìn đi đâu đó và suy nghĩ căng thẳng. Sau đó, ông ta quay về phía tôi, nói: “Thế công việc của anh tại Hội nghị giải trừ quân bị thế nào?”. Tôi hiểu là cuộc gặp đã kết thúc.
Các nhà viết sử của chúng ta đã lưu ý tới “cuộc gặp không tổ chức” này như một “dấu hiệu” của cải tổ. Chuyến viếng thăm “nổi tiếng” tại London, nơi M. X. Gorbachov và phu nhân đã có thể thiết lập mối quan hệ và “làm hài lòng” phương Tây thông qua trung gian M. Thatcher – một nét đặc sắc trong mối quan hệ này… sau đó, sau cái chết của K. U. Chernenko, “Thatcher đã chấp thuận chuyến thăm với một mục đích duy nhất – bày tỏ thái độ kính trọng của mình đối với M. X. Gorbachov. Họ đã có thể ngồi với nhau cả giờ liền, song cùng với họ còn có Chernenko, Andrei Gromyko và phu nhân Andrei Alecxandrov-Agentova, Cố vấn của Leonid Breznev về đường lối đối ngoại. Chẳng làm được gì nhiều”.
Theo thời gian, M. X. Gorbachov đã có nhiều cơ hội hơn. Năm 1991, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ, “M. X. Gorbachov đã kéo theo mình một số người tin cậy cùng nói chuyện với Bush. Tuy nhiên, trong toàn bộ cuộc nói chuyện họ mắt nhìn mắt, cố xa lánh mọi người ngay khi có cơ hội đầu tiên. Như một lần, sau bữa ăn, khi người phục vụ bàn đang chuyển cà phê cho mọi người, Mikhain Xergeievich đứng đậy, nói:
- Georger (Bush), đề nghị ngài cùng tôi đi dạo.
Họ rời bàn ăn, ra theo lối cửa sau cùng người phiên dịch, bỏ lại đoàn đại biểu của Kremli, bước ra Quảng trường Ivannov. Hai người đã thiết lập được mối quan hệ tin cậy và lúc này đang nói chuyện công khai”.
Người phiên dịch của M. X. Gorbachov là Pavel Palaxenko, – theo trách nhiệm buộc phải im lặng và không nghe – sau này đã được tưởng thưởng bằng cách trở thành thành viên của Quỹ M. X. Gorbachov và thành viên của Hội nghị Hòa bình.
Cuộc gặp mặt trực tiếp với Giáo hoàng Roma John Paul II[8], một người rất thạo tiếng Nga; và cuộc gặp tay đôi với Bush cha trên khoang chỉ huy trên một tàu chiến Mỹ tại Malta đã được mọi người biết đến.
Năm 1991, ngày 24 tháng 1, Đại sứ Mỹ Matlook đề nghị gặp M. X. Gorbachov. Ông ta mang ủy nhiệm thư của Tổng thống Mỹ… về vấn đề Litva và về cuộc chiến chống lại Saddam Husein đã bắt đầu. Cuộc gặp đã được tiến hành không có phiên dịch”. Cần phải nói rằng I. Matlook, như mọi đại sứ Mỹ khác, rất thạo tiếng Nga. Hãng thông tấn TASS đã ra thông báo về vuộc gặp này như mọi cuộc gặp chống Xô Viết công khai khác: “Ngày 3 tháng 1 năm 1991, Chủ tịch ủy ban An ninh quốc gia V. A. Kriuchkov đã tiếp Đại sứ Mỹ tại Liên Xô J. Matlook và đã có cuộc trao đổi với ông ta về rất nhiều vấn đề được hai bên quan tâm”; đã có những cuộc gặp của ba người, V. X. Pavlov đã thông báo về cuộc tiếp xúc với “rabb (ông thầy của mình) là Snaer, Chủ tịch Quỹ “Lời hiệu triệu của lương tâm”, đã từng được cấp cao Liên Xô tiếp, người sau này đã hoàn tất hàng loạt sứ mệnh, trong đó có liên quan tới đường lối kinh tế: “điều làm tôi ngạc nhiên là trong lịch sử Bộ Ngoại giao đã hoàn toàn bác bỏ việc này. Giữa M. X. Gorbachov – Iakovlev và một nhóm người Mỹ đã tồn tại một mối liên hệ độc lập đối với Quảng trường Smolenxk”.
Và đã có cả những cuộc gặp kín: “Theo tin tình báo, KGB có được những thông tin rằng có một nhân viên giàu kinh nghiệm của CIA đã vào Liên Xô với tiểu sử đã được thay đổi để gặp người đưa tin có thế lực trong số công dân Xô Viết. Cuộc gặp đó đã được tiến hàng tại Lêningrad, những Văn phòng đại sứ Mỹ ở Matxcơva phải chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh cho cuộc gặp này. Tất nhiên, cá nhân viên tình báo CIA đã được theo dõi từ sân bay quốc tế Seremechevo rất chặt chẽ. Mọi điều cần thiết đều đã được thực hiện để phát hiện điệp viên này và định vị ra địa điểm gặp. Tại Lêningrad, để hoạch định các biện pháp tìm kiếm, người ta đã cử một trùm phản gián phối hợp với các Chêka địa phương, thiếu tướng V. sau này đã kể với tôi rằng ông ta đã mắc một sai lầm không thể tha thứ được khi nói cho Kalugin biết mục đích chuyến công tác của mình.
- Tôi thật không thể ngờ rằng chính kalugin là một tình báo có nhiều công lao… thiếu tướng, Phó chỉ huy trưởng Cục Lêningrad, – ông ta cay đắng. – Tôi hoàn toàn không thể nghi ngờ anh ta…
Tuy nhiên, V. đã không phát hiện được hết mọi tình tiết của chiến dịch. Toán theo dõi Kalugin từ Matxcơva tới đã để mất dấu tay điệp viên người Mỹ. Hắn đã bí mật, nhanh chóng chuồn về Matxcơva và sau đó trở về Washinhton.
- Chuyện xảy ra vào hôm thứ tư, – Viên thiếu tướng V. kể. – theo kiểu tình báo truyền thống của CIA, điều đó có nghĩa là cứ thứ tư hàng tuần sau đó Kalugin phải tái khẳng định “tín hiệu nguy hiểm” để thông báo từ bỏ cuộc hẹn.
Kết hợp với nhóm điều tra theo dõi kalugin ở Matxcơva, vào thứ tư tuần sau đó, tại một nhà hát đã được người ta đặt dấu hiệu “một cuộc hẹn gặp ảo” với tay tình báo Mỹ đang làm việc dưới bình phong Tổng lãnh sự tại Lêningrad.
- Tôi có thể khẳng định 100% rằng tại nhà hát Kalugin sẽ sử dụng tín hiệu quy ước hoặc một vật nhất định trên trang phục để phát “tín hiệu nguy hiểm” nhằm thông báo cuộc gặp có thể rơi vào tầm ngắm của cơ quan phản gián. – Viên thiếu tướng V. kể lại.
Kalugin cũng hiểu được thế “dưới nơm” của mình. Chính “sơ xuất” của Tướng V. đã làm cho Kalugin hoảng sợ tới mức buộc phải thú nhận với KGB rằng tay điệp viên người Mỹ ở Lêningrad cần gặp chính mình, mà không ngờ chính tay điệp viên đó cũng đã phát tín hiệu nguy hiểm theo quy ước cho mình.
Ngay sau đó, Matxcơva đã ghi nhận được cuộc gặp giữa Kalugin với bạn cùng khóa tại Trường đại học tổng hợp Columbia (Mỹ), ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô A. N. Iakovlev. Theo lời của Tướng V., KGB cũng đã biết Iakovlev là điệp viên của CIA, song giả thiết này buộc phải loại bỏ vì cương vị quá cao của ông ta ở Quảng trường Xtaryi. Hơn nữa, kết quả cuộc gặp giữa hai “người Columbia” cũng khá bất ngờ.
Kalugin trở về Lêningrad và lập tức gửi thư tới hai địa chỉ (BCHTW ĐCS Liên Xô và KGB Liên Xô) buộc tội ban lãnh đạo Cục tình báo vượt thẩm quyền và cản trở công việc… Sau đó nộp đơn xin chuyển khỏi KGB.
Như vậy, hành động buộc phải diễn ra vào tháng 6 năm 1991, khi đáp lại lời phát biểu tại phiên họp thường kỳ của Xô Viết tối cao Liên Xô, Thủ tướng V. P. Pavlov có yêu cầu trao cho mình toàn quyền “… Thị trưởng Matxcơva Popov (…) đã yêu cầu người Mỹ nhanh chóng hỗ trợ để Xô Viết tối cao Liên Xô bác bỏ yêu cầu đối với Thủ tướng trao khả năng để ổn định trong nước. Để làm được điều này ông ta đã ngay lập tức một mình tới gặp Đại sứ Mỹ là Mr. Matlook. Như vậy có nghĩa là ông ta hiểu rằng mình phải có đồng hành cần thiết. Tôi nghĩ rằng Popov đã có khá đủ thông tin về mức độ ảnh hưởng đối với khối đại biểu và đối với một số nhà hoạt động chính trị uy tín khác của Liên Xô. Lời khẳng định hiện nay của ông ta là ông ta đến đấy chỉ để thông báo kịp thời cho Eltxin lúc đó đang ở Mỹ… Popov rất có ý thức khi trao thông tin này cho phía Mỹ bởi, với ông ta, nó tạo ra một sức ép cần thiết đối với những người nằm trong cơ cấu quyền lực của Liên Xô. Những toan tính của Popov cho thấy rằng người Mỹ rất cần tới cá nhân Gorbachov… Gorbachov xuất hiện, nói đủ điều như mọi khi, bằng những lời rực lửa mà chẳng về cái gì cả, rồi phán xét các vấn đề như kiểu ở trên trời. Điều đáng ngạc nhiên, nhưng là sự thật – Xô Viết tối cao Liên Xô không “gật” mà cũng chả “lắc”. Hội chứng – nói chung không thông qua quyết định nào hết, còn thảo luận”. M. X. Gorbachov, như chúng ta thấy, luôn xử sự phù hợp với thực tế điều hành những quyết định nửa vời, hệt như “chiếc xe cứu hỏa”, xuất hiện chỉ để dập tắt những âm mưu nhỏ nhất hòng loại bỏ ông ta ra khỏi quyền lực.
Một mối quan hệ khác: E. A. Sevardnadze – G. Baker. “Baker đã từng đề nghị thiết lập một kênh chính thức để “trao đổi” thông tin và những dữ liệu phân tích về các sự kiện nội bộ trong hai nước ở cấp bộ trưởng. Trên thức tế, bằng cách này Baker đã đề nghị một phương thức, để Xô Viết có thể sử dụng mà không bị mất mặt, là nhận từ Hoa Kỳ những khuyến nghị về tiến hành cải cách kinh tế. Một thái độ cởi mở hiếm có trong tư cách vô liêm sỉ của chú Sam.
Sau khi Liên Xô tan rã, những cuộc gặp chưa được phê chuẩn hoặc gặp mặt không có người chứng kiến dường như đã trở thành chuẩn mực. Bản thân Eltxin đi gặp có mặt cả người phiên dịch, nhưng người phiên dịch lại được người ta bố trí đứng ngoài cửa để đề phòng anh ta phải nghe thấy những điều thừa. Những cuộc gặp như thế cũng không phải hiếm trong quan hệ quốc tế.
“… Nguyên Thủ tướng Egor Gaida thường xuyên tới thăm đại sứ quán Mỹ tại Matxcơva và trò chuyện với ngài Đại sứ Matlook như một người bạn lớn của chính Gaida và của toàn thể nhân dân Nga. Về những chuyện gì thì không ai giải thích cho biết. Những thông tin trong các cuộc tiếp xúc như thế không được đăng tải trên báo chí. Nhưng vào thời điểm đó Gaida đã là một nhân vật chính thức.
Trung tướng an ninh N. X. Leonov đã lý giải “hiện tượng” này khi thông báo: “Trên toàn thế giới người ta chấp nhận kiểu trò chuyện này, nếu như anh có đủ tư cách là người chính thức hay là quan chức chính phủ. Hai bên đưa ra những vấn đề gì, chúng ta có trách nhiệm gì – những điều đó không còn là của cá nhân. Những người đầu tiên vi phạm điều này là Gorbachov và Sevardnadze. Họ thường xuyên tiến hành các cuộc đàm phán mà nội dung không được ghi vào biên bản. Họ thường không sử dụng phiên dịch người mình. Không một ai trong nước chúng ta biết được nội dung các cuộc trò chuyện của họ. Trong quá trình những cuộc trò chuyện như thế họ luôn tự do sử dụng trách nhiệm của quốc gia, nhưng lại không cho ai biết về nội dung của chúng.
Tuy việc đăng tải những tin tức như thế bị cấm, nhưng vẫn có một vài tư liệu đã được làm rõ, cho dù không có lợi cho những nhân vật cao cấp: “… Trong thời gian Gorbachov ở Đại sứ quán Mỹ thường có một số trí thức theo khuynh hướng tự do, những cốt cán tương lai của cải cách cũng được mời dự”, “Theo thông tin thu được của Washinhton từ một nguồn gần gũi với CIA, Thủ tướng Liên bang Nga Xtepasin, thông qua chương trình chính thức, đã có hai cuộc gặp bí mật không có phiên dịch tại một Vila (biệt thự) ở ngoại ô với (Tổng thống) Clinton…”.
Liệu có cần nhắc tới việc N. X. Khrusov, vào thời của mình, cũng đã có những kênh giao lưu “không chính thức” với phương Tây thông qua chàng rể A. I. Adzubei không?
Cũng có đôi khi, do áp lực tâm lý, chính họ đã nói ra sự thật. “vào tháng 5 năm 1993, Gorbachov trong một chuyến thăm Pháp đã trả lời các câu hỏi về khả năng “hỗ trợ bên ngoài” trong việc xóa sổ Liên Xô. Ngay từ đầu ông ta đã khẳng định rằng những ảnh hưởng bên ngoài có vị trí của nó nhưng chỉ như một yếu tố khách quan. Tuy nhiên, điều này cũng đủ để báo “Le Figaro” giật tít bài phỏng vấn Gorbachov rất kinh: “Cần đánh giá xứng đáng Ronald Reagan”.
Trong bài phỏng vấn này, – theo tuyên bố của phóng viên “Le Figaro”, – Gorbachov lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Reagan tại Reykjavik ông ta trao Liên Xô vào tay Hoa Kỳ. Nguyên văn của ông ta là: “Reykjavik thực sự là một vở kịnh, vở kịch lớn. Bạn sẽ nhanh chóng hiểu tại sao. Tôi cho rằng không có một cá tính mạnh mẽ như Ronald Reagan, tiến trình sẽ không thay đổi… trong cuộc gặp này ở cấp cao chúng tối, các bạn có biết chăng, đã tiến xa tới mức không thể quay trở lại…”. Người đầu tiên “soi sáng” thời điểm ấy là Ronald Reagan, đã kể lại trong hồi ký của mình rằng ông ta đã thực sự bị sốc vì vui mừng – thực ra ông ta đến cuộc gặp ấy mà không tin rằng tại Reykjavik Gorbachov đã trao sự đồng tình của một bộ phận chống Xô Viết của giới thượng lưu Matxcơva về việc phá tan Liên Xô.
Bên cạnh đó, vào tháng 6 năm 1983, có mặt tại lễ tang Tổng bí thư Enriko Berlinguer của BCHTW ĐCS Italia, M. X. Gorbachov, trong bài phát biểu của mình, đã từng nói: “Enriko thân mến, chúng tôi sẽ không bao giờ quên những lời khuyên của anh về sự cần thiết dân chủ hóa đất nước chúng ta”.
Quan điểm hệ thống về thất bại của Liên XôVề nhiều mặt, điểm này là hòn đá tảng trong mặt bằng phương pháp luận về những sự kiện đã diễn ra cũng như trong mặt bằng viết cuốn sách này. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này nó soi sáng những khái niệm về hệ thống, quan điểm hệ thống nói chung, quan điểm hệ thống đối với hệ thống xã hội nói riêng. Chúng tôi coi những đặc tính của Liên Xô như của một hệ thống xã hội nhằm làm rõ khả năng tan rã của hệ thống như thế nào sau khi đã mô tả tính liên tục của những hành động đã từng áp dụng nhằm làm rã hệ thống của đất nước.
Hệ thống là gì? Hiện có tới hàng chục định nghĩa khái niệm “hệ thống” – thuộc chuyên ngành hẹp hoặc triết học. Trong hàng loạt định nghĩa gắn phạm trù này với các chuẩn triết học, có những định nghĩa cơ bản, khởi đầu như:
“Hệ thống là tổ hợp các thành tố tương tác” (Liudvik phon Bertalanfly, 1901-1972, người đưa ra học thuyết chung các hệ thống đầu tiên vào khoa học hiện đại). Rất nhiều thành tố được sắp xếp theo một cách nhất định có quan hệ tương tác với nhau và tạo thành một số khối thống nhất toàn vẹn” (V. N. Xadovxki). “Hệ thống là rất nhiều thành tố tương tác hạn chế” (A. N. Avierniakov).Trong tất cả những định nghĩa này cùng chung những khái niệm “thành tố” và “tương tác” (“mối liên hệ”). Chất lượng của hệ thống được bao gồm bởi số lượng và bản chất các thành tố và đặc tính các mối liên hệ giữa các thành tố. Các chuyên gia theo quan điểm hệ thống thường coi hệ thống như một toàn thể. Như một đám đông tụ tập trên phố, mặc dù không có “những thành tố” được biểu hiện rõ, song vẫn có thể được phân tích dưới góc độ của quan điểm này để tách ra một yếu tố nào đó cấu thành hệ thống. Ngoài ra, còn có những định nghĩa khác của thuật ngữ “hệ thống” nữa.
Bất cứ một hệ thống xã hội – nếu tính đến sản phẩm do con người sản xuất ra, ta có thể gọi nó là “kỹ thuật – xã hội” hay “kinh tế – xã hội”, – cũng cấu thành gồm: trung tâm điều khiển – thông tin; các phân hệ, còn ở cấp độ thấp nhất của thang bậc (theo quan điểm này, không thể chia nhỏ hơn nữa các thành tố); tới lượt mình, phạm vi điều khiển bao gồm trong nó khách thể và chủ thể điều khiển (Chủ thể điều khiển còn được gọi là trung tâm điều khiển – thông tin), cũng như các kênh liên lạc và kho tàng ý niệm (thesaurus); những thành tố vùng biên – theo quan điểm hệ thống, được coi không chỉ là những định chế quốc gia đặc biệt – bộ đội biên phòng, hải quan, đại sứ quán, v.v…, mà còn là bất cứ thành tố nào vào thời điểm tiếp xúc với đại diện môi trường bên trong; các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, cũng như cơ chế quan hệ giữa các thành tố; việc phân phối các nguồn thông tin, tài chính, vật chất, … lợi cho nhóm này và hại cho nhóm khác, làm cho các mâu thuẫn bên trong tất yếu nảy sinh.
Những dấu hiệu cơ bản của một hệ thống xã hội là: tính phức tạp của hệ thống, sự hiện diện của việc sắp xếp mục tiêu của các phân hệ được lựa chọn tùy ý, của các thuộc tính; để sức sống cao hơn cần có tính linh hoạt của hệ thống trong quan hệ đối với các hệ thống như vậy từ bên ngoài, trong sự phát triển các hệ thống luôn có các quá trình và chu kỳ, các khuynh hướng hướng tâm và ly tâm đối với trung tâm, phương thức pháp áp dụng những thành tố khác và thông tin từ môi trường bên ngoài cùng phương thức Entropi[9].
Hệ thống Liên Xô cũng như vậy. Trung tâm của nó là bộ máy BCHTW ĐCS Liên Xô, nơi đưa ra toàn bộ thông tin và thông qua những quyết định về đường lối đối nội và đối ngoại, kinh tế, tư tưởng, quốc phòng và an ninh, cũng như một phần hạn chế về công việc của các nước Đông Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Phạm vi điều khiển này được hình thành từ thời I. V. Xtalin và được duy trì một cách hình thức.
Giữa môi trường hệ thống và môi trường bên ngoài tồn tại những mối quan hệ thương mại và chính trị. Phương Tây và Liên Xô đã tiến hành một sự trao đổi hàng hóa không bình đẳng, còn Mỹ thì đã đẩy “chiến tranh lạnh” tới ranh giới của nhất cuộc chiến tranh thông thường. Liên Xô vào lúc đó là một phân hệ của: 1- hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới (theo quan điểm chính trị); 2- Hội đồng Tương trợ kinh tế (theo quan điểm kinh tế); 3- Tổ chức Hiệp hước Varsava (theo quan điểm quân sự). Ở đây, cần lưu ý tới việc vào đầu những năm 1989-1990, các siêu hệ thống này đã bị phá vỡ, để rồi sau đó đến chính Liên Xô cũng tan rã.
Ở thang bậc thứ hai, dưới Liên Xô có 15 nước cộng hòa liên bang. Những phân hệ này khác biệt nhau cơ bản bởi truyền thống dân tộc. Trong đó, đến năm 1991 có tới 25 triệu người Nga đang sinh sống ngoài ranh giới nước cộng hòa của mình.
Đương nhiên, trong các mối quan hệ luôn tồn tại khuynh hướng lý tâm và hướng tâm, song xung đột rõ rết trên nền tảng này là ít, không đáng kể. Từ năm 1922 đến cuối năm 1985, xu hướng hướng tâm đã diễn ra rất rõ rệt, còn mọi khuynh hướng ly tâm thì đã bị chính quyền trong giai đoạn 1922-1953 trừng phạt rất khốc liệt. Trong khi đó, một bộ phận trong các nước cộng hòa lại luôn chịu những ảnh hưởng khác nhau từ bên ngoài: ba nước cộng hòa vùng Ban Tích và vùng Kalinigrad của Cộng hòa liên bang Nga hình thanh nên một phân hệ; Moldova thì chịu ảnh hưởng của nền cận văn minh phương Tây rất mạnh; vùng Trung Á, Kazakstan và Azerbaidzan lại chịu ảnh hưởng của nền cận văn minh phương Đông và Hồi giáo. nhiều clann quyền lực cũng được hình thành theo hướng phi trung tâm hóa như: Dnepropetrovxk (Kiep) – Ucraina; Xverdlovxk – Ural; Xtavropol – Bắc Kavkaz; Lêningrad; Matxcơva.
Liên Xô vốn là một hệ thống hướng tâm. Tuy nhiên, với mục tiêu tuyên bố là xây dựng chủ nghĩa cộng sản, nó đã mắc sai lầm vì tính trừu tượng.
Sự phân ly hệ thống đã diễn ra theo cách sau:
Giai đoạn “nhập vào – Liên Xô, năm 1985”, nó là một trung tâm mạnh, thống nhất. các phân hệ chỉ có mối quan hệ với mình nó. Các mối quan hệ bên ngoài là chung. Tồn tại đường biên giới thống nhất.
Để lật đổ hệ thống xã hội này cần phải chiếm được trung tâm điều khiển – thông tin. Kích thích những mâu thuẫn nội bộ, tăng cường khuynh hướng ly tâm – làm suy yếu khung hướng hướng tâm. Làm suy yếu trung tâm cú – tăng cường những trung tâm mới, kích động những khuynh hướng ly tâm mới xung quanh các trung tâm mới. Tiến hành phá hoại các mối quan hệ của các dòng thông tin, tài chính, vật chất từ trung tâm cũ. Hình thành nên những mối quan hệ mới: ban đầu chỉ cần ở mức không chính thức – không hợp pháp; sau đó, gắn cho chúng một hình thức hợp pháp. Cần nhận thức rằng, khi hệ thống ở trong tình trạng ổn định (các chỉ số của khuynh hướng hướng tâm luôn chiếm ưu thế đối với khuynh hướng ly tâm), thì xung đột với bên ngoài thường được duy trì ở mức cao nhất. Trong tình trạng xuất hiện khuynh hướng tan rã, xáo trộn (khuynh hướng ly tâm thống trị khuynh hướng hướng tâm) thì sẽ xuất hiện những hiện tượng độc lập: các xung đột giữa các phân hệ bị khoét sâu, nếu không ngăn chặn được, chúng sẽ tiến xa tới mức tan rã thành những thành tố riêng lẻ (Nguyên tắc “tất cả chống tất cả”). Đó là một “khuynh hướng xung đột hệ thống” đặc biệt. Thực hiện hiện tượng cộng hưởng để đưa đến phá tan hoàn toàn các mối quan hệ cũ. Phá tan hoàn toàn những mối quan hệ bên trong, lập ra các trung tâm mới mang hình thức hợp pháp, thiết lập những biên giới mới – tạo dựng ra các vụ xung đột với số lượng tối đa có thể, thiết lập mới những mối quan hệ độc lập với bên ngoài.
Giai đoạn “Tách ra – các nước SNG (Cộng đồng các quốc gia độc lập), năm 1991”. Mỗi trung tâm trong số các trung tâm đều có những mối quan hệ của mình với bên ngoài. Những biên giới mới với định chế biên giới cũ và mới vẫn giữ nguyên. Cần chú ý tới sự phân chia hệ thống sẽ dẫn nó tới tình trạng “số không hoàn toàn” – tình trạng “một tập hợp những hệ thống mới” mà một số trong đó không còn nguyên vẹn, nghĩa là những thông số bền vững nhất chỉ bình đẳng với hệ thống trước đó về tổng số hình thức.
Để làm rõ hơn tính chất hệ thống của sự phân chia Liên Xô, chúng ta cần thấy rằng, thứ nhất, nghiên cứu này của chúng tôi chính là nhằm hình dung ra việc một hệ thống như Liên Xô đã bị chia xẻ như thế nào; còn thứ hai, chúng tôi khắc họa tất cả đặc điểm của thảm họa như của tính chất hệ thống.
Đặc điểm thất bại của Liên Xô là nhân tố các nước cộng hòa đã đóng một vai trò rất to lớn so với các nhân tố khác. Các nước cộng hòa vốn đã có tất cả những đặc tính mang tính chất quốc gia từ trước khi chúng thành lập ra bộ ngoại giao của mình. Bên cạnh đó, các nước cộng hòa Liên bang Nga, Ucraina, Belorus đã có đại diện của mình tại Liên Hợp Quốc. Sức mạnh hỗ trợ cho sự tan rã của Liên Xô (cấp 1) thành 15 nước cộng hòa liên bang độc lập (cấp 2) là khuynh hướng ly khai trong nội bộ các nước cộng hòa tự trị (cấp 3) và khuynh hướng hình thành lãnh thổ khác trong từng nước cộng hòa. Để làm được điều này, người ta đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có cả những biện pháp “hợp pháp”: vào tháng 4 năm 1990, Xô Viết tối cao Liên Xô đã thông qua quyết định về tăng cường định chế thành tố tự trị lên mức cộng hòa.
Chúng ta còn nhận thấy rằng đối với Liên Xô còn có thể có theo những cách duy nhất khác như: bị các nước nuốt dần (tấm gương lịch sử đã từng diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII); phương án quân sự – trong trường hợp nếu giới cao cấp quân sự có một vai trò rõ rệt hơn (như ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX); phương án thuần túy sắc tộc với những thành tố phân chia theo các tín ngưỡng tôn giáo (như ấn Độ và Pakistan), khi đó sự phân chia sẽ diễn ra theo đường biên giới: vùng Ban Tích (gồm Latvia, Litva, Estoni), Đại Nga (gồm Nga, Ucraina, Belorus), ngoại Kavkaz (gồm Azerbaidzan, Armeni, Gruzia) và “Đại Tirana” (Kazakstan, Kirgizi, Tadzikistan, Turkmeni, Uzbekistan). Azerbaidzan hồi giáo có thể thuộc số này. Trong trường hợp này, vấn đề đối với Moldavi còn để mở. Liệu các bộ tham mưu của cải tổ bên kia đại dương có từng xem xét tới những phương án như thế không?.
Trung tâm điều khiển – thông tin đã bị đánh chiếm hoàn toàn. Các chuyên gia điều khiển dễ dàng nhất trí với sự thật này: trung tâm đã ngừng phản ứng đối với các đòi hỏi từ bên dưới hoặc toàn đưa ra những thông tin không phù hợp với tình hình thực tế.
Những khuynh hướng ly tâm đã xảy ra, những khuynh hướng hướng tâm bị suy thoái. Lần đầu tiên những khuynh hướng ly tâm được biểu hiện ra ở cấp độ các nước cộng hòa liên bang (Kazakstan, tháng 12 năm 1986).
Trong những năm 1988-1991, trong các nước cộng hòa liên bang đã diễn ra những quá trình hình thành của những tầng lớp thượng lưu mới về mặt chất lượng. Nhiều tầng lớp thượng lưu có sức mạnh hành chính khu vực, kinh tế (và cả tài chính thông qua các ngân hàng) đã hình thành. Nhiều nhóm đại biểu và quân nhân đã chuyển sang tuyên thệ với chính quyền mới. Tại Litva thậm chí đã xuất hiện cái gọi là Nghị viện Bảo vệ khu vực trước khi nó tuyên bố “độc lập”. Điều này cho ta liên tưởng tới sự hình thành các cơ cấu quốc gia của Israel – cơ quan tình báo MOSSAD được coi là “cao niên” hơn chính quốc gia này.
Chính tại Matxcơva cũng đã hình thành một trung tâm điều khiển độc lập từng thâu tóm cả những chức năng toàn liên bang – nó tồn tại như một trung tâm quyền lực song hành. giới thượng lưu ở các nước cộng hòa đã ngừng cung cấp nguồn lực, kể cả về tài chính vào ngân sách toàn liên bang. Vùng Ban Tích đầu tiên thiết lập hải quan của mình, và sau đó, để tránh không gây ra một vụ scandal không cần thiết, căn cứ vào “những cơ sở pháp luật”, theo Quyết nghị của Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ nhất về thử nghiệm kinh tế, nó đã thực hiện cả những phương thức khác. Nó ra sức thu nhận mọi nguồn lực từ ngân sách liên bang và giang tay trả lời Matxcơva rằng “không có nguồn lực”. Bởi giờ đây, những vấn đề mà trước kia bí thư thứ nhất khu ủy đã giải quyết ở Matxcơva, đã bắt đầu được giải quyết ở cấp thấp hơn.
Do tính chất trong cơ cấu nội bộ của Liên Xô, không hẳn sự ly khai của lý trí xã hội, mà chủ yếu sự thất bại của cốt lõi tạo nên hệ thống thống nhất là ĐCS Liên Xô[10] chính bằng con đường phê chuẩn sự đa đảng và để mất đi tính chính thống (ở Nga, tính chính thống được hình thành nên không phải thông qua những thủ tục pháp luật, mà thông qua quyền lực lịch sử đối với chính quyền; và ĐCS Liên Xô đã có quyền lực đó bằng lịch sử do thông qua cuộc đấu tranh chống chế độ nga hoàng trong thời kỳ bí mật, thông qua cách mạng, thông qua cuộc nội chiến, thanh lọc, những thành tựu trong công cuộc công nghiệp hóa và tập thể hóa, thông qua những nạn nhân của những năm chiến tranh vệ quốc, qua phục hồi kinh tế, thành tự vũ trụ và lá chắn hạt nhân).
Trong 1988 và vào nửa đầu năm 1991, trước hết là hệ thống vững chắc thông qua sự tụt hậu dần dần (còn gọi là cơ chế trượt dốc) đã dẫn đến tình trạng cân bằng không bền. Đến nay, tuy không có gì được coi là yếu, song chỉ bằng một đòn tấn công có tính toán chính xác vào hệ thống phức tạp này đã đủ loại nó ra khỏi tình trạng ấy. Để thực hiện được một hành động cần giải quyết một số nhiệm vụ, trong đó có việc thu xếp vị trí cho giới thượng lưu của trung tâm đang chống lại sự sụp đổ – đó là loại họ khỏi cuộc chơi, chấm dứt khả năng hành động của họ. Cần phải chuyển toàn bộ quyền lực sang trung tâm khác. Điều đó đã được hoàn thành vào tháng 8 năm 1991.
Vấn đề còn lại chỉ mang tính hình thức – “chia tay Xô Viết”, bắt đầu từ những phân hệ cộng hòa phía Tây, kết thúc những mối quan hệ còn lại, hoàn thành việc lập nên những trung tâm mới, khoác cho chúng một hình thức hợp pháp và cuối cùng là báo cáo với “kẻ làm thuê” – Mỹ.
Sự cân bằng của những khuynh hướng hướng tâm và ly tâm được xây dựng nên sao cho những hệ thống kém mạnh, sau khi tách ra khỏi trung tâm trước đó đang suy yếu, sẽ rơi vào phạm vi ảnh hưởng của những trung tâm khác mạnh hơn. trong trường hợp này, khi rời bỏ ảnh hưởng hướng tâm của Matxcơva, những quốc gia mới hình thành tất yếu sẽ rơi vào sự lệ thuộc thực dân của thế giới bên ngoài: những nước cộng hòa thuộc Ban Tích, Ucraina và Moldavi “nằm dưới” Berlin; những nước cộng hòa ở ngoại Kavkaz, Trung Á và Kazakstan – dưới Ankara (Thổ Nhĩ Kỳ) và Er-Riad (A rập xeud); còn tất cả và Nga – dưới Washinhton. Tuy nhiên, khuynh hướng hướng tâm, do mối quan hệ lịch sử lâu đời mạnh mẽ, đã “không chết hẳn” và thậm chí cho đến nay trong các phân hệ “bảo thủ” như: Pridnestrovie, Abkhaza, Nam Oseti, Belorusvẫn thể hiện sức mạnh hướng tâm về phía Matxcơva (dẫu nó đã thay đổi).
Vì sao điều đó lại thành công vào những năm 1985-1991? Chính bởi trước đó, từ những năm 1953-1985, đám kẻ thù giấu mặt đã chiếm lĩnh được những vị trí then chốt trong trung tâm điều khiển – thông tin, làm thay đổi những chức năng đã thành nền nếp theo hướng có lợi cho chúng, chiếm lĩnh lĩnh vực bảo hiểm, ngăn chặn các kênh thông tin và cung cấp nguồn lực vật chất, làm thay đổi cơ chế điều hành, kiểm soát, không cho phép các trung tâm yêu nước hình thành song song, trong khi chúng ra sức thiết lập các trung tâm của chúng.
Chính sự hiện diện của “yếu tố bên ngoài” có tính hệ thống sâu sắc cũng giữ một vai trò đặc biệt trong sự thất bại của Liên Xô. “Tính nội tại” của một hệ thống trong một hệ thống khác (ở đây chúng tôi chỉ phân tích theo kiểu “một chọi một” – đó là phương Tây – Liên Xô) chiếm tới một nửa trọng lượng trong mọi sự kiện, từ những sự kiện rõ ràng nhất cho đến những sự kiện chưa được biết tới, mà chính những tác giả “thâm nhập sâu” cũng không thể hình dung hết. Những người này không thể hình dung được hết vì họ không tiến hành âm mưu đó từ đầu mà chỉ tham gia vào m công đoạn nào đó, sau khi thực hiện các kế hoạch, họ có thể coi đó là hiệu quả tự nhiên. Những cuộc tiếp xúc bí mật trong khuôn khổ những cuộc gặp chính thức của M. X. Gorbachov với các thủ lĩnh phương Tây chính là những hiện tượng thuộc loại này vào giai đoạn 1985-1991: “Ông ta đã có những cuộc gặp cá nhân “dưới những ngọn cờ khác nhau”, những không một ai được biết về điều đó”. Những cuộc tiếp xúc như thế đã dẫn đến việc trong báo chí Xô Viết đã bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều những tư liệu về những kẻ thù hiển nhiên trước đây đang trở thành “những người bạn”, và điều đó lại hoàn toàn hợp pháp – không được phép bôi nhọ những người vẫn thường xuyên lui tới “làm khách” của chúng ta. những kẻ này, chắc chắn là không có ý định từ bỏ các học thuyết chính trị – quân sự trước đây của chúng, và những sự thay đổi trong mối quan hệ tương quan chỉ diễn ra ở phía khác. Sự mềm hóa chế độ đã diễn ra thông qua việc cho phép tiếp xúc với những thông tin mật của chúng ta chỉ bằng một giả thiết rằng “những cái đó họ đã công khai hết cả rồi!”. Một thí dụ hùng hồn khác là sự tấn công vào mặt trận văn học, văn hóa, du lịch (đối với một số người), truyền hình (tới tất cả mọi người), trong đó kể cả việc cho phép phát cầu truyền hình.
Rốt cuộc, trên sân khấu cũng xuất hiện cả những nhân vật trực tiếp làm việc cho CIA để điều tiết các tác động từ bên ngoài. Dần dần, “các thông tin tác động” đã thực sự chiếm được toàn bộ không gian thông tin, trong những điểm then chốt cần thiết nhất. Có một điều rất đặc sắc là chúng đã trình độ thăm dò dư luận xã hội về biểu hiện phản ứng của dân chúng đối với những khuynh hướng căng thẳng đang gia tăng. Để rồi, có điều gì vượt ra ngoài tầm kiểm soát, chúng lại đưa ra những lời cam đoan về tính đúng đắn của đường lối đã được lựa chọn nhằm xoa dịu. Trong số những thủ thuật thăm dò đó, có thể dẫn ra những bài phát biểu định kỳ trên truyền hình về thảm họa sắp tới, như bài phát biểu của Chủ tịch KGB Liên Xô, Đại tướng V. A. Kriuchkov vào tháng 12 năm 1990; hay lời hiệu triệu của nhóm những người hoạt động văn hóa “Lời gửi nhân dân”. Đáp lại – chỉ là sự thờ ơ của một bộ phận dân chúng đã cam chịu với sự tước đoạt và đã quen với suy nghĩ rằng “nội tình” đó dường như chỉ là kinh tế, địa lý, nhu cầu tiêu dùng. Trong xã hội đã xuất hiện những biểu tượng thù địch của chủ nghĩa xiônit, chủ nghĩa phát xit, Mỹ, hội tam điểm. Rốt cuộc, thay vì phải phản ứng, phẫn nộ – dân chúng đã tỏ ra cam chịu (tolerant).
Sự phân ly của hệ thống khác đã diễn ra thông qua các phân hệ bí mật đã tách ra khỏi hệ thống vật chất cơ bản cùng như các phân hệ khác ẩn sâu trong nó: thông qua giới lãnh đạo đảng – lớp thượng lưu quyền lực thường đưa ra các quyết định vụ lợi và tiếp xúc với bên ngoài nhiều hơn với chính nhân dân mình); thông qua KGB Liên Xô (những kẻ thực sự có những thông tin mật); qua những cán bộ khoa học (những kẻ có thông tin phương pháp mật); qua những kẻ có liên hệ mật thiết với israel; qua các nước vùng Ban tích (một phân hệ của văn minh phương Tây còn nằm dưới quyền tài phán Xô Viết), những kẻ dấu mặt trong xã hội Xô Viết và giới trí thức dân tộc. Tất cả những phân hệ đó là các chất xúc tác cho tiến trình, chúng kéo bộ phận dân chúng tích cực nhất vào quỹ đạo của mình thông qua giới báo chí.
Nhiều chuyên gia hệ thống đã đề cập tới những đối tượng “… có khả năng hoạch định những hành động khác nhau đang diễn ra trong hệ thống. Các đối tượng hoạch định của nhóm này có thể là đối tượng từ những nhóm khác nhau. (…) Trong thế giới động vật, trong xã hội con người, các đối tượng hoạch định và bị hoạch định đang được hình thành nên từ cùng một nhóm. Tuy nhiên, vẫn có những ngoại lệ. Trong đàn cừu, con đầu đàn có thể là con dê. Như mọi người vẫn nói mà không cần giải thích thêm.
Nhân vấn đề này, chúng tôi cần nêu ra một tra cứu khách quan về mtg bên ngoài và về mức độ chấp nhận sự thâm nhập của các thành tố bên ngoài vào hệ thống. áp dụng vào trong hệ thống xã hội phức tạp, về mặt nguyên tắc, không chỉ là có thể mà còn là cần thiết. Hơn nữa, sự thâm nhập của những thành tố bên ngoài không phải bao giờ cũng là có ý đồ độc ác nào đó (phương pháp luận biện chứng và xung đột học cũng xây dựng trên nền tảng này), đôi khi những thâm nhập ấy không với ý đồ độc ác mà thậm chí còn được một hệ thống đang phát triển thành công chủ động thu hút phần hữu ích của nó.
Hệ thống không thể đóng tuyệt đối, tách ra khỏi mọi hệ thống khác, nếu không nó sẽ chấm dứt khả năng sinh tồn, tự bóp chết mình. Một hệ thống hoạt động lý tưởng – đó là một hệ thống linh hoạt, và phải có cả một tập hợp các chỉ thị[11], không chỉ có thể làm rõ mức độ nguy hiểm từ sự thâm nhập của những thành tố lạ, mà còn có được ảnh hưởng đủ để buộc trung tâm điều khiển – thông tin có phản ứng thích hợp để loại bỏ những phần tử thù địch từ môi trường bên ngoài.
Vậy mà hệ thống “Liên Xô” đã không kiềm chế được sự thâm nhập đó, để rồi trở thành phụ bản (một phân hệ) của hệ thống “Mỹ” (Nói cách khác, trở thành bang thứ 51 của Mỹ). Người ta cần tới điều này để làm gì? Rất đơn giản, thông qua sự sáp nhập đó, thông qua kết quả trong các cuộc chiến tổ chức, thông tin, tài chính và những cuộc chiến khác, hệ thống “Mỹ” bắt đầu được hệ thống “Liên Xô” phụng sự.
Nói riêng, thì những gì chúng ta đã xem xét trên đây vẫn còn lâu mới là một bức tranh toàn cảnh về điều đã xảy ra, bởi chúng ta chỉ mới khai phá chủ yếu khía cạnh cơ cấu. Còn khía cạnh lịch sử: trên lãnh thổ Liên Xô đã từng có những quá trình mà sự phát triển của chúng bị ngăn chậm lại, bị đổi hướng – đã diễn ra điều mà phương Tây gọi là “sự rời bỏ chủ nghĩa cộng sản”. Còn về khía cạnh chức năng (hoạt động): bộ máy quốc gia mới hậu Xô Viết đã chấm dứt thực thi một số chức năng: trước hết, đó là chức năng an ninh, phát triển bền vững và tái sản xuất.
Như trong một phương ngôn nổi tiếng, “những gì được xây hàng thế kỷ – bị phá tán trong một giây, những gì được xây suốt nhiều năm – bị phá tán trong một giờ”. Thời điểm cơ bản của cuộc thử nghiệm “cải tổ” được cố định vào tính không thể đảo ngược của quá trình phá hoại. Nói một cách khách quan, cho đến hôm nay không phải chúng ta, không phải kẻ thù có khả năng tính toán ra được thời điểm bước ngoặt đó, để đúng thời điểm đó có thể chỉ ra, cũng như có thể chứng minh một cách thuyết phục rằng “quá trình đã đi” quá xa tới mức không còn đường nào khác cho sự thất bại của Liên Xô. Ở Mỹ, người ta cũng rất lúng túng về vấn đề này và đã cố giải thích nó trong những cuộc hội thảo (xemina) bí mật, trong các cuộc họp của giới lãnh đạo chính trị, hoặc công khai trong giới báo chí. Như: ngày 12 tháng 5 năm 1989, thành viên của cái gọi là Chính phủ thế giới – bao gồm trong nó 3 tổ chức tam điểm có ảnh hưởng nhất – một người trong ban lãnh đạo Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ là Đô đốc Scowcroft đã trả lời phỏng vấn:
“Còn quá sớm để vui mừng: Liên Xô, liệu các bạn có biết không, vẫn còn là một cường quốc quân sự như trước đây. Chúng ta còn nhiều vấn đề lớn với họ, hơn nữa, trong giai đoạn này, những cải cách vẫn chưa đạt tới mức độ không thể đảo ngược được”.
Nếu sử dụng quan điểm cá nhân, thì chúng ta chỉ còn cách đưa ra một giả thiết cơ bản rằng điều này có thể được xem như sự chuyển chính quyền từ M. X. Gorbachov ở mức quy mô toàn Liên Xô sang cho Tổng thống Cộng hoà Liên bang Nga B. N. Enxil ở Nga, cho Tổng thống Ucraina L. M. Kravchuk ở Ucraina, và v.v… (“Vào dịp hè năm 1990, Bush và Baker đã quyết định tìm hiểu nghiêm túc về những thủ lĩnh Xô Viết có tiềm năng nhất định khác thông qua Gorbachov”). Nếu điều này là chính xác, thì có thể nói rằng đó là sự sụt giảm uy tín lớn nhất của chính M. X. Gorbachov: “Lần đầu tiên sự sụt giảm uy tín của M. Gorbachov được ghi nhận vào tháng 7 năm 1989”. Trên mặt bằng đó có thể nhận thấy không chỉ những cuộc tiếp xúc riêng của Enxil với những người này ở Mỹ, mà cả việc những dòng thông tin và tài chính từ bên ngoài trở nên bằng với việc hướng vào Gorbachov và bộ sậu của ông ta (& K°). Thời điểm lịch sử cho thất bại không thể đảo ngược của Liên Xô trong trường hợp này có thể được chia ra cho các tuyến nhân vật. Tại những cuộc hội thảo có sự tham dự của tổng thống, người ta thường tranh luận về thời điểm mang tính không thể đảo ngược của các quá trình “cải tổ” và ngay hồi tháng 1 năm 1989, họ đã đưa ra kết luận cuối cùng rằng “Gorbachov đã bắt đầu quá trình mà chính ông ta không thể quay lại”. Bằng cách này bản án đối với ông ta như một tử thi chính trị đã được tuyên, đủ để gạt ông ta ra khỏi chính trường.
Nếu xem xét đề tài này theo quan điểm công nghệ tình thế, thì vào lúc đó không thể không công nhận rằng đó là thời điểm Liên Xô đã thực sự rơi vào vòng luẩn quẩn. Thời điểm đó vào khoảng những năm 1988-1989.
Khi nói về điều này theo quan điểm hệ thống, chúng tôi trước hết sẽ chỉ ra rằng tính chất không thể đảo ngược của các quá trình tan rã đã đạt được vào đúng thời điểm khi mà hệ thống đã bộc lộ tính chất tự huỷ về mặt tổ chức. Vào thời điểm đó sự phá huỷ mãnh liệt các mối quan hệ trực tiếp và quan hệ ngược giữa những phân hệ đã diễn ra. Trước thời điểm đó – điểm bước ngoặt – hệ thống vẫn còn có thể phục hồi tương đối dễ dàng để trở lại “con đường chân lý, còn sau đó – về mặt nguyên tắc là không thể, hoặc phải gánh chịu những tổn thất với cái giá thà buông trôi còn hơn là khắc phục, giống như nội chiến vậy.
Nhà nghiên cứu nổi tiếng X. G. Kara-Murza, khi nghiên cứu tỉ mỉ diễn biến của những quá trình cải tổ, cũng không thể bỏ qua vấn đề này và đã trả lời rằng: “Vật liệu gắn kết đã từng liên kết các dân tộc ở Liên Xô thành một quốc gia thống nhất là liên minh với nhân dân Nga. Chính sự hiện diện của hạt nhân (“Người anh cả”) có sức mạnh và uy tín này đã làm cân bằng hệ thống phức tạp đa dân tộc gồm một trăm năm mươi triệu dân này.
Bước đi chủ yếu mà giới cầm quyền cao cấp quốc tế chống Xô Viết đã làm được vào năm 1991 là chuẩn bị và triển khai “Tuyên bố về chủ quyền”. Những nhà dân chủ của Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết Nga tập hợp xung quanh Enxil đã có vai trò chủ yếu trong vấn đề này. Các nhà tư tưởng của văn bản này tiếp tục tán tụng và kỷ niệm ồn ào ngày “độc lập” nhân việc thông qua bản tuyên ngôn tiền định này.
Các quan điểm nguyên tắc của Tuyên ngôn là xóa bỏ những mối ràng buộc chủ yếu của Liên bang, đòi chia phần các thành tựu chung toàn dân, xóa bỏ tính toàn vẹn về trí tuệ, kinh tế và nguồn lực. Đó là một cuộc đảo chính “nhung lụa” mà phần lớn các đại biểu đã không kịp hiểu rằng người ta đã đưa cho họ thông qua văn