← Quay lại trang sách

Chương 2 Tìm ổ làm giả đồ gốm ở Trịnh Châu

Đây là một nghĩa trang gần ngoại ô, nằm dưới chân núi Linh thành phố Tam Hà, tỉnh Hà Bắc, cách Bắc Kinh hơn 50 kilomet, phong thủy không đẹp lắm, được cái vắng vẻ. Giờ không phải lễ tết gì nên rất ít người lai vãng, vô cùng yên tĩnh. Ánh nắng rải khắp khu nghĩa trang yên ả, gió lùa qua hai hàng cây nửa vàng nửa xanh bên đường tạo thành tiếng xào xạc sâu thẳm bình yên. Tôi mua hai bó cúc, thong thả băng qua nghĩa trang.

Việc thụ lý vụ Mắt Trố về sau đều giao cho Phương Chấn, tôi một mình quay về Bắc Kinh trước, đến thẳng đây.

Góc râm mát gần sát rừng cây nhất, có hai tấm bia đá vuông vức trông rất tầm thường, chính là chỗ của gia đình tôi. Hai tấm bia đặt cạnh nhau này, một là tôi mua cho bố mẹ. Năm xưa họ nhảy xuống hồ Thái Bình, tro cốt bị thu nhặt qua quýt bỏ vào hũ, mãi tới bảy tám năm trước, tôi mới mua một miếng đất ở đây, chuyển họ tới. Còn tấm kia là của ông bà tôi, sau khi giải quyết xong vụ đầu Phật ngọc ở minh đường Tắc Thiên, rửa oan cho ông nội Hứa Nhất Thành, tôi bèn đưa cả ông và bà nội tới đây chôn cạnh bố mẹ, để đôi bên ở dưới kia cũng tiện chăm sóc cho nhau.

Tiếc rằng xương cốt ông tôi đã chẳng còn, tôi đành thay bằng cuốn Tố đỉnh lục viết tay của ông, coi như mộ gió.

Tất cả người thân của tôi đều nằm ở góc nghĩa địa này. Mỗi lần tôi đến đây tảo mộ, coi như một lần cả nhà đoàn tụ. Từ năm mười mấy tuổi trở đi, gia đình sum họp đã trở thành ước mơ xa xỉ mãi mãi nằm ngoài tầm tay với của tôi. Mỗi lần đến đây, tôi đều bần thần nhìn những bức ảnh và tên tuổi trên bia mộ thật lâu, tưởng tượng ra cảnh bố mẹ càm ràm, ông bà dìu nhau đi ra, xoa đầu tôi, có lúc cứ nghĩ mãi nghĩ mãi, nước mắt lại ứa ra.

Tôi nhẹ nhàng đặt hai bó cúc xuống trước mộ, định cúi xuống nhổ cỏ, bỗng kinh ngạc “ồ” lên một tiếng.

Trước bia mộ, chẳng biết ai đã đặt hai bát hương xinh xắn. Tôi nhận ra đây là loại hai tai ba chân bằng gốm xanh, tuy không phải đồ cổ, nhưng chất lượng khá tốt, cũng coi như đồ mỹ nghệ thượng hạng. Bên trong còn cắm mấy nén nhang, trước mộ ông tôi có tám nén, trước mộ bố tôi có sáu nén, đều đã cháy quá nửa, khói xanh bảng lảng tỏa mùi ngòn ngọt. Dù không hiểu về nhang, tôi vẫn nhận ra loại nhang này không phải tầm thường. Nhìn độ dài tàn nhang, chắc đã thắp được chừng hơn mười phút.

Tôi nhíu mày đứng dậy nhìn quanh, trông thấy hai người đứng ở đầu kia lối đi đang nhìn sang bên này. Một người ngoài năm mươi, phong thái quan chức, bên cạnh là một ông cụ râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy mây, dẻo dai quắc thước như tùng bách. Hai người này tôi đều quen biết, một là cục trưởng Lưu, hai là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa hiện nay, cụ Lưu Nhất Minh đứng đầu Hồng môn.

Tôi không vội sang chào mà ngồi xuống nhổ hết cỏ dại quanh mộ trước, lau sạch vết bẩn trên bia rồi quỳ xuống.

“Ông bà, bố mẹ...” Nói tới đó, mũi tôi chợt cay cay, lâu lắm không gọi bốn chữ này, chính tôi cũng thấy ngượng miệng, “Lão Triều Phụng gây thù chuốc oán với cả ba đời nhà mình đã lòi đuôi ra rồi. Nợ máu của nhà mình, con nhất định bắt lão hoàn trả, đừng ai hòng ngăn cản. Nhà họ Hứa chúng ta từ đời tổ tiên đã trừ giả giữ thật mấy trăm năm, chưa bao giờ sinh ra hạng con cháu hèn nhát, con quyết không đi ngược lại truyền thống cha ông. Xin mọi người hãy phù hộ cho con.”

Dứt lời tôi khom lưng dập đầu mấy cái. Mãi tới khi hương sắp tàn, tôi mới vẩy nước cho tắt hẳn, xách hai bát hương lên đi về phía hai người kia.

“Nghĩa trang quy định không được thắp lửa.” Tôi đưa bát hương cho cục trưởng Lưu, vẻ không vui.

Cục trưởng Lưu cười khà nhận lấy, “Mấy lão già này định thắp nén nhang cho lão chưởng môn để tỏ lòng thôi mà. Tôi đã có lời với quản lý nghĩa trang rồi, họ sẽ thông cảm cho đồng chí già này thôi.”

“Hừm, ai dám không thông cảm.” Tôi mắng thầm. Cục trưởng Lưu giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ, tai mắt thấu trời, bảo một tay quản lý nghĩa trang linh động chút chút, thật dễ như trở bàn tay.

Nói thực lòng, tôi không muốn người của Minh Nhãn Mai Hoa đến đây. Ông nội và bố mẹ tôi đều chết vì Minh Nhãn Mai Hoa, tôi chỉ muốn họ được yên lòng an nghỉ, không bị những chuyện nhiễu nhương này quấy rầy. Thế nên tôi mới lẳng lặng đưa ông nội về chôn ở đây. Có điều cục trưởng Lưu thế lực nhường ấy, muốn tra được cũng chẳng có gì khó. Hôm nay họ đến đây, tôi không lấy gì làm kinh ngạc.

Như đã đi guốc trong bụng tôi, Lưu Nhất Minh chống gậy bước lên một bước, nhìn thẳng vào mắt tôi, “Cậu đừng trách tôi đa lễ. Năm môn phái trong Minh Nhãn Mai Hoa như cây liền cành, Hứa chưởng môn năm xưa ngậm oan mà chết vì đại nghĩa dân tộc, thầy Hứa Hòa Bình ẩn nhẫn giữ bí mật bao năm. Hai người đều có công lớn với Minh Nhãn Mai Hoa, tám nén là thờ, sáu nén là kính, về lễ về tình, lão đều phải đích thân thắp cho họ mấy nén nhang.”

Lưu Nhất Minh đã nói thế, tôi cũng chẳng tiện càm ràm, đành khom người vái lão một vái theo lễ người dưới. Lưu Nhất Minh cười khà, xoay xoay cây gậy trong tay nói, “Được rồi, được rồi.” Đoạn quay người đi khỏi. Người nhà họ Lưu lúc nào cũng có thói thích úp mở, ăn nói mập mờ, ra vẻ thâm sâu khó dò, chẳng bao giờ chịu nói thẳng.

Thấy tôi vẫn đứng yên tại chỗ, cục trưởng Lưu bất ngờ kéo tay tôi, “Cậu Nguyện, ông cụ nhà tôi có mấy lời muốn nói.”

“Ông ấy nói luôn ở đây không được sao?”

“Nghĩa trang ẩm thấp, ông cụ không ở lâu được, đến nhà rồi nói chuyện.”

Đừng nhìn cục trưởng Lưu tươi cười vui vẻ mà lầm, thực ra ông ta luôn tính toán đâu vào đấy, nắm chắc mười phần mới lên tiếng, nên người ta thường không cách nào từ chối được. Lưu Nhất Minh là hội trưởng Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, lại đích thân đến thắp hương cho ông nội và bố tôi, nể mặt gia đình tôi như thế, dĩ nhiên tôi không thể khước từ.

Tôi đành theo hai người kia rời nghĩa trang, lên một chiếc Santana. Lần này cục trưởng Lưu không ra vẻ bí hiểm nữa, dọc đường mở toang rèm xe, tha hồ ngắm phong cảnh. Nhưng tôi cứ miên man nghĩ mãi không biết Lưu Nhất Minh tìm mình có việc gì, lòng đầy tâm sự, nên chẳng còn bụng dạ đâu ngắm cảnh.

Xe chạy chừng nửa tiếng thì tới một ngôi biệt thự gạch đỏ gần Tiểu Thang Sơn. Nhìn bề ngoài, biệt thự được xây theo phong cách Liên Xô, song cách trang trí bên trong lại đầy vẻ cổ kính. Tôi theo hai người kia đi thẳng tới phòng đọc sách. Thấy trên cửa phòng treo tấm biển đề ba chữ “Tứ Hối Trai”, tôi khựng lại. Cục trưởng Lưu thấy tôi kinh ngạc bèn giải thích đây là do Lưu Nhất Minh mới viết, vừa treo lên được vài ngày.

Đáng ngạc nhiên là, bên trong phòng đọc sách bài trí rất đơn giản. Ngoài một trà kỷ và mấy chiếc đôn tròn trong góc phòng, chỉ có chiếc bàn làm việc bằng gỗ trắc rộng thênh thang kê cạnh cửa sổ, bên trên bày văn phòng tứ bảo và một lọ cúc trắng, cùng một tờ giấy viết dở. Cạnh bàn dựng tấm bình phong bằng trúc, bên trên chạm đôi câu đối: “Biết đủ ắt vừa lòng, không cầu tự thanh cao”. Mấy thứ này thoạt trông sơ sài, song lại toát lên vẻ cao nhã. Một con mèo mướp béo ú đang nằm dài ra bàn ngủ khò, chiếc đuôi xù thỉnh thoảng lại phất qua giá treo bút, khiến hàng bút lông sói to lông dê nhỏ lay động, càng thêm phần đầm ấm thư nhàn.

“Hà hà, thằng oắt này nuông quá hóa hư rồi, đuổi cũng không đi.” Lưu Nhất Minh cười đầy trìu mến, xua tay làm bộ đuổi. Con mèo ú ngáp dài, như ở chỗ không người. Lưu Nhất Minh cầm tờ giấy viết dở trên bàn lên, lắc đầu, “Chữ theo tiếng lòng. Lòng không tĩnh, bức chữ này cũng hỏng.” Dứt lời bèn vò tờ giấy lại, ném vào sọt giấy. Cục trưởng Lưu đùa, “Đem bức chữ này ra chợ bán, bét cũng được mười nghìn tệ, cụ vo viên vứt đi như thế, coi như vứt mấy cái ti vi màu đi rồi.” Lưu Nhất Minh trừng mắt nạt, “Anh ra ngoài suồng sã thế nào thì tùy, đừng đem thói con buôn ấy vào đây.”

Chúng tôi lần lượt ngồi xuống đôn. Lưu Nhất Minh gác cây gậy mây sang một bên, nhắm mắt dưỡng thần một lúc mới mở ra bảo tôi, “Người một nhà cả, ta cứ nói thẳng ra nhé. Lẽ trời vần chuyển, biến ảo là thường. Giờ xã hội biến động, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa cũng đang ấp ủ ý định cải cách thay đổi, chính là lúc dùng người. Cậu Nguyện, tôi hy vọng cậu sẽ quay về giúp đỡ Hội.”

Trước lời mời của Lưu Nhất Minh, tôi lắc đầu, “Tôi nhàn nhã quen rồi, trình độ cũng chẳng ra sao, e rằng không giúp được các vị.”

Sau vụ án đầu Phật, về danh nghĩa nhà họ Hứa đã chính thức quay về, nhưng tôi chỉ có một thân một mình, không quyền không thế, ngành buôn bán kim thạch cũng đã bị mấy môn phái khác xâu xé, ai cũng có lợi ích bên trong, vô cùng phức tạp. Tôi chẳng muốn tranh giành với họ nên vẫn tự mở cửa hiệu của mình, giữ quan hệ khi gần khi xa với Minh Nhãn Mai Hoa, cũng như Nhị Lang thần ở Quán Giang khẩu*, chỉ nghe lệnh không nghe tuyên.

“Hà hà, cậu không giúp được, hay không muốn giúp?”

Lưu Nhất Minh nheo mắt, nói không nhanh không chậm.

Tôi bị nói trúng tim đen, không khỏi ngượng ngùng, tay bất giác hơi vươn ra, bấy giờ mới nhớ từ lúc bước vào phòng, Lưu Nhất Minh còn chẳng cho lấy một chén trà, khiến tôi không có cả cơ hội bưng chén trà lên nhấp để che giấu nữa.

Thực ra tôi vẫn để bụng oán nhà họ. Vụ việc đầu Phật và nhà họ Hứa chúng tôi quay về Minh Nhãn Mai Hoa, đều do người nhà họ Lưu giật dây đằng sau. Tuy kết quả tốt đẹp, rửa được oan cho ông tôi, nhưng suốt quá trình tôi đã mấy phen thập tử nhất sinh. Trong khi bọn họ chỉ ngồi thả lưới, mà lại vớt được một mẻ lớn. Huyền môn tổn thất nặng nề, Hoàng môn không gượng dậy nổi, chỉ còn Thanh môn tay lẻ khó vỗ, cả Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chẳng còn ai lay chuyển nổi thế lực nhà họ. Tôi luôn cảm thấy mình bị họ lợi dụng, nên lúc nào cũng giương cao cảnh giác.

Dĩ nhiên những điều này tôi giữ kỹ trong lòng, không hề nói ra. Huống hồ tôi còn một lý do nữa, không thể không từ chối. “Cụ Lưu, không phải tôi không muốn giúp, mà còn một việc chưa làm xong nên tôi không muốn phân tâm.”

“Lão Triều Phụng ư?” Lưu Nhất Minh dường như đã đoán được tôi sẽ nhắc tới chuyện này.

“Đúng thế, lần này khó khăn lắm mới lần ra được manh mối, tôi nhất định không thể bỏ qua. Tôi đã thề trước mộ ông nội, quyết phải tóm được lão già ấy.” Tôi nói rành rọt từng chữ.

Lưu Nhất Minh và cục trưởng Lưu nhìn nhau, rồi cục trưởng Lưu lên tiếng, “Phương Chấn đã báo cáo vụ Mắt Trố với tôi rồi. Có điều giờ đang giai đoạn nhạy cảm, phải từ từ đã.”

“Giai đoạn nhạy cảm là sao?”

“Ông cụ vừa nói đấy thôi. Hội đang ấp ủ kế hoạch cải tổ, ắt sẽ động tới đủ mọi thế lực trên mọi phương diện, thậm chí có thể gây ra xáo trộn lớn trong toàn giới cổ vật, rất nhiều người đều nhìn vào. Thế nên lúc này không thể tùy tiện làm bừa, gây thêm phiền toái.”

Nghe đến đây, tôi bật cười giễu cợt, “Ra là sợ tôi làm phiền các vị à. Các vị yên tâm. Tôi điều tra dưới danh nghĩa cá nhân, quyết không gây phiền hà cho tổ chức, chẳng liên quan gì tới Minh Nhãn Mai Hoa hết.” Lưu Nhất Minh thấy tôi tỏ thái độ, vội giơ tay lên vuốt xuôi, “Cậu Nguyện à, người một nhà trò chuyện, đừng kích động như thế, bình tĩnh đi.”

Tôi không dằn được cơn giận, đứng phắt dậy, “Hai đời nhà họ Hứa đều chết vì lão, lão còn giết mấy người bạn của tôi, giữa chúng tôi đã kết thù sâu như biển rồi. Tôi bất cần biết người khác thế nào, riêng tôi sẽ không bao giờ dừng tay đâu!”

Lưu Nhất Minh thở dài, “Lão Triều Phụng xảo quyệt như hồ ly, tàn nhẫn như lang sói, nhiễu nhương như chuột, đấu với Minh Nhãn Mai Hoa bấy nhiêu năm mà chưa một ai biết được thân phận thật của lão. Việc này quan hệ trọng đại, phải suy xét kỹ lưỡng, đừng nhất thời nôn nóng. Chờ Hội cải tổ đâu vào đấy, tôi sẽ dốc hết nhân lực Minh Nhãn Mai Hoa giúp cậu tìm lão ta, được chưa nào?”

“Xin lỗi, tôi không muốn mượn tay người ngoài để báo thù nhà.” Tôi lạnh lùng đáp.

Tôi không tin lời hứa của Lưu Nhất Minh, lẽ nào các hội đó mười năm không cải tổ thì tôi cũng phải đợi mười năm không báo thù? Huống hồ Lão Triều Phụng giờ chắc đã ngoài chín mươi, có thể qua đời bất cứ lúc nào, lỡ tôi chưa lần ra lão đã chầu trời thì sao? Lưu Nhất Minh rõ ràng đang giở kế hoãn binh, Minh Nhãn Mai Hoa không đi bắt kẻ làm giả, còn khuyên tôi ngừng tay, hễ nghĩ tới tôi lại giận sôi lên.

“Cái thật mới bền bỉ, cái giả chẳng dài lâu, trời ắt có báo ứng.” Lưu Nhất Minh tiếp tục khuyên. Tôi đốp lại ngay, “Tôi không đợi được báo ứng, phải tự mình ra tay thôi.”

Lưu Nhất Minh liếc tôi, “Giờ cậu đang kích động, nóng ruột nóng gan, làm sao đấu được với lão?”

“Minh Nhãn Mai Hoa ngọa hổ tàng long mà mãi không bắt được lão. Một mình tôi có thể lật lại vụ án đầu Phật, chưa chắc đã không đấu được với lão.” Tôi nói vẻ giễu cợt.

Không khí trong phòng bỗng chốc trở nên gượng gạo. Lưu Nhất Minh cũng chẳng lấy làm điều, chỉ nhướng đôi mày bạc, giơ ngón tay trỏ tôi, nửa cười nửa không, “Một người lòng dạ thế nào suy nghĩ ra sao, cổ vật sẽ nhìn thấu suốt nhất. Con người giám định cổ vật, cổ vật cũng có thể giám định con người, cậu nôn nóng hay không, chúng ta tìm một món đồ cổ kiểm tra là biết.”

“Được thôi.” Tôi ngẩng đầu, không mảy may chịu lép. Xưa nay tôi chỉ nghe nói người giám định đồ, chưa nghe đồ giám định người bao giờ. Tuy trình độ tôi kém xa Lưu Nhất Minh, nhưng tôi không sợ.

Lưu Nhất Minh phẩy tay áo, trỏ nghiên mực trên bàn, “Nghiên mực hình dạng vuông vắn, cứng rắn bền chắc, từ xưa đã được coi là quân tử. Để nó giám định cho cậu đi.” Tôi vốn chẳng hiểu gì về giám định thư họa, có điều nghiên mực cũng được liệt vào hàng kim thạch, coi như chuyên ngành của Bạch môn nhà tôi. Đề bài này của Lưu Nhất Minh cũng không phải làm khó dễ.

Tôi cầm nghiên mực lên xem qua, không khỏi thầm khen lạ.

Chiếc nghiên này thuộc loại nghiên Đông Lỗ Giá màu xanh mai cua. Còn được tạo hình cổ cầm thu nhỏ, khác hẳn những chiếc nghiên thông thường. Lòng nghiên hơi trũng để đựng mực, từ đầu đến cuối khắc hình bảy dây, nhạc sơn và các huy, vô cùng tinh xảo, nhìn như mặt đàn thật vậy. Lưng nghiên khéo léo dùng hộ chẩn và yến túc làm đế, khiến chiếc nghiên trông hệt như một cây đàn. Tại long trì ở đáy đàn, tôi còn thấy một lời đề bằng chữ triện: “Đi vào núi thẳm, đẽo lấy đá này, đem về mài giũa, thành đàn bảy dây.” Lạc khoản là... Phóng Ông?

Lục Phóng Ông? Lục Du? Tay tôi hơi run.

Lỗ Giá tức huyện Tứ Thủy, Sơn Đông ngày nay, có một nơi là khe Giá, chất đất trong lòng khe rất hợp để làm nghiên gốm. Tiếc rằng công nghệ làm nghiên Giá từ thời Nam Tống về sau đã thất truyền, số lượng nghiên mực truyền lại cực ít. Đã là nghiên Đông Lỗ Giá lại được Lục Du đề tựa, có thể coi là một vật phi phàm, có lẽ chỉ hội trưởng Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa như Lưu Nhất Minh mới có thể sở hữu.

Tôi đặt nghiên mực vào lòng bàn tay ước chừng, thấy trọng lượng vừa phải, còn trơn nhẵn mát lạnh. Lại dùng ngón tay nâng đài nghiên gõ nhẹ, thấy chất nghiên đặc quánh. Tôi đưa mắt nhìn Lưu Nhất Minh, thấy ông ta khẽ gật đầu. Bèn nhặt một thỏi chu sa trâm ngọc trên bàn, thong thả mài vào lòng nghiên. Chu sa từ từ tan chảy, khẽ động đã loang đều. Cái này tên gọi là “sen mực hứng sương”, ý nói giống như lá sen hứng sương, chú trọng như tan mà chưa tan, như ngưng đọng mà chưa ngưng đọng.

“Sen mực hứng sương” đã xuất hiện, tôi biết chẳng cần kiểm tra các điểm khác nữa, bèn đặt nghiên xuống, nói với Lưu Nhất Minh, “Là hàng tốt.” Lưu Nhất Minh đáp, “Cậu đừng nóng vội, cứ xem tiếp đi.”

Thấy ông ta lại ra vẻ bí hiểm, tôi nghi hoặc lật đi lật lại ngắm nghía, chẳng nhận thấy gì khác lạ, bụng nghĩ chắc là lại lừa mình, bèn đặt nghiên xuống, bảo Lưu Nhất Minh, “Ông là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, đồ vật trong nhà ông, tôi chẳng thấy có gì không ổn cả.”

Lưu Nhất Minh thở dài lắc đầu, “Cậu trước giờ đâu có ẩu như thế, xem kỹ lại lời đề nghiên đi.” Tôi nhìn lại, thấy vẫn là mười sáu chữ “Đi vào núi thẳm, đẽo lấy đá này, đem về mài giũa, thành đàn bảy dây”. Câu này chẳng có gì khó hiểu, chủ yếu nói về chuyện thợ đá đi vào núi sâu, đẽo đá từ mỏ, chế thành nghiên mực dạng như cây đàn, tóm lại là không dễ dàng gì. Bất luận thể chữ hay thủ pháp chạm trổ đều không có gì đặc biệt. Tôi thậm chí còn nhớ láng máng hai câu “Đem về mài giũa, thành đàn bảy dây” được trích từ bài “Phú đàn” của Kê Khang.

“Có vấn đề gì?” Tôi sốt ruột hỏi lại.

Lưu Nhất Minh thoáng thất vọng, “Vội sẽ lơ là, giận ắt sơ suất. Cậu còn bảo mình không nôn nóng à? Vấn đề lồ lộ như vậy mà cũng không để ý.” Ngừng một thoáng, ông ta khẽ nhắc, “Nghiên Đông Lỗ Giá phải đẽo đá bao giờ?”

Tôi “a” lên, suýt nữa làm rơi chiếc nghiên xuống đất, nhận ra mình đã phạm phải một sai lầm cực kỳ ngu xuẩn và hiển nhiên. Nghiên Đông Lỗ Giá thuộc loại Trừng Nê, một dạng nghiên làm bằng gốm, được nung mà thành, sao lời đề nghiên có thể nhắc tới quá trình gian khó khi đẽo đá được? Lục Du là danh gia một đời, dĩ nhiên không lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia như vậy, chiếc nghiên này rõ ràng là giả.

Đây vốn là thường thức, song tôi giám định qua loa lại sơ ý bỏ qua.

Lưu Nhất Minh lắc đầu, “Đến nghiên mực này cũng nhìn ra lòng cậu đang nôn nóng. Cậu làm sao đấu với Lão Triều Phụng được?”

“Đồ ông bày trong thư phòng, tôi nghiễm nhiên coi là của báu, đây là do ấn tượng ban đầu.” Tôi cãi cố. Song Lưu Nhất Minh đã nghiêm giọng, “Thư phòng của tôi thì sao? Thật là thật, giả là giả, liên quan gì đến người dùng? Lẽ nào tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thì không sợ gặp phải hàng giả nữa à? Cậu nhìn người đoán vật là hỏng rồi.”

Dứt lời Lưu Nhất Minh đi đến trước bàn, tay phải cầm nghiên, tay trái giơ lên xoa nhẹ. Lúc này ông ta đã chẳng còn phong thái bình thản thoát tục nữa, thay vào đó là vẻ buồn bã của người già, môi dưới run run kéo theo cả mấy nếp nhăn trên mặt, như đang cảm khái chuyện xưa, thương tâm vô hạn. Tôi cũng nhất thời chạnh lòng, không dám chen vào.

Lưu Nhất Minh xoa một hồi mới đặt lại nghiên xuống bàn, quay người bảo tôi, “Chiếc nghiên này hồi tôi còn trẻ đã thay một ông bạn già giám định. Bấy giờ tôi đương lúc đắc chí, nhất thời chủ quan lơ đễnh nên đã nhìn lầm giống như cậu vậy. Kết quả để kẻ thù của tôi tóm được sơ hở, truy tra đến cùng, tôi suýt nữa mất hết thanh danh đã đành, còn làm lụy người bạn kia tan nhà nát cửa. Về sau tôi dùng đủ cách tìm cho được nó, giữ bên người luôn luôn để tự răn mình. Cậu phải biết Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta xây dựng trên cơ sở ‘theo đuổi cái thật’, chữ ‘Thật’ này rất khó đạt được. Lúc thì thật dễ, lúc lại thật khó, nếu không cẩn thận, danh tiếng trăm năm có thể tan tành sau một lần giám định. Thế nên tôi mới bảo cậu phải bình tâm tĩnh trí, không chỉ vì cậu, mà còn vì cả Minh Nhãn Mai Hoa.”

Nghe ông ta lên giọng thuyết giáo, tôi đành gật đầu cho qua chuyện. Lưu Nhất Minh thấy tôi chẳng để vào tai, bèn thở dài, “Tôi thấy hôm nay cậu không nên quyết định gì vội, về nghỉ ngơi trước đi. Tôi cũng không ép cậu, khi nào nghĩ thông thì lại đến tìm tôi.”

Cuộc nói chuyện đến đây là kết thúc, Lưu Nhất Minh quay vào nhà nghỉ ngơi, cục trưởng Lưu tiễn tôi ra cửa, bảo tài xế đưa tôi về. Trước lúc đi, ông ta cầm tay tôi cười nói, “Ông cụ mọi ngày hiếm khi nói nhiều thế này nên hơi mệt. Cậu thông cảm nhé.” Nghe vậy, tôi chợt nghĩ, xem ra về vấn đề này, cách nghĩ của cục trưởng Lưu và Lưu Nhất Minh cũng không hoàn toàn đồng nhất.

Nhưng ẩn ý của cục trưởng Lưu quá mơ hồ, cả đám bọn họ lúc nào cũng có lối úp mở mập mờ như thế. Tôi còn mải lo tìm Lão Triều Phụng, chẳng bụng dạ nào suy đoán mấy chuyện râu ria, chỉ ậm ừ vâng dạ cho qua.

“Hứa với tôi, đừng hành động bộp chộp.” Cục trưởng Lưu lại dặn.

“Được.” Tôi đáp.

Rời biệt thự ở Tiểu Thang Sơn, tôi về thẳng cửa hàng của mình ở Lưu Ly Xưởng, vừa đẩy cửa đã thấy Hoàng Yên Yên ngồi vắt vẻo trên giường xếp xem ti vi.

Cô là cháu gái Hoàng Khắc Vũ của Hoàng môn, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong lúc điều tra vụ án đầu Phật, giờ là... ừm... quan hệ giữa chúng tôi rất khó miêu tả, chưa phải người yêu, nhưng lại thân thiết hơn bạn bè bình thường. Cô gái này hơi giống mèo, nếu tôi nịnh nọt lấy lòng, cô ta sẽ hờ hững phớt lờ nhưng nếu tôi rụt lại, cô ta bèn ngon ngọt dịu dàng, khiến tôi cũng chẳng biết đâu mà lần.

Có người hỏi tôi làm sao quen được người đẹp như Hoàng Yên Yên, tôi bèn kể lại câu chuyện đầu Phật, song họ không tin, nói rằng chuyện cũng coi như ly kỳ, song phần tình cảm xây dựng kém quá. Tôi nói không phải là xây dựng, họ bèn nói vậy là do cậu kể chán quá.

Cũng phải, người ta yêu đương đều là trước hoa dưới trăng, đi xem phim hay tặng hoa gì đó. Song tôi có lẽ bẩm sinh đã thiếu dây thần kinh lãng mạn, không biết mấy chiêu mùi mẫn đó, ngày ngày ru rú trong cửa hàng ở Lưu Ly Xưởng, có ra ngoài thì chỉ đến Phan Gia Viên dạo một vòng, người ta có lấp lửng cũng dễ hiểu thôi... Bạn xem, hôm nay tôi đi tảo mộ, nhờ cô trông hộ cửa hàng một hôm. Nếu là người khác, có khi đã cho tôi một bạt tai rồi.

Thấy tôi bước vào, Hoàng Yên Yên tắt phụt ti vi, rót chén trà bưng đến. Tôi đón lấy uống một hơi cạn sạch, quẹt mồm rồi hỏi cô hôm nay buôn bán thế nào. Yên Yên đáp chẳng bán được gì hết. Tôi cười nói, thế là bình thường, bình thường. Sau đó ngồi phịch xuống giường xếp, sát cạnh cô. Yên Yên cũng không tránh, tiếp tục cắn hạt dưa.

Tôi đang lưỡng lự không biết có nên quàng vai cô cho tình cảm chút không thì Yên Yên đột nhiên hỏi, “Nghe nói anh đến chỗ ông Lưu hả?” Tôi thầm nhủ, Minh Nhãn Mai Hoa đúng là như cây liền cành, chẳng giấu được chuyện gì, bèn thuật lại cuộc gặp Lưu Nhất Minh. Nghe xong, Hoàng Yên Yên thoáng trầm tư, “Tuy ông Lưu thâm sâu khó lường, nhưng lần này ông nói rất đúng.”

Tôi ngạc nhiên, “Em cũng thấy anh không nên hành động nóng vội ư?” Nên biết rằng ông nội Hoàng Yên Yên là Hoàng Khắc Vũ vẫn luôn đối đầu với Lưu Nhất Minh, từ sau kháng chiến, lịch sử phát triển của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa là lịch sử đấu đá của Hồng môn và Hoàng môn. Thường ngày cô vẫn hay chế nhạo nhà họ Lưu, hiếm khi thấy nói tốt cho Lưu Nhất Minh.

Yên Yên liền giải thích, “Ông Lưu không lừa anh đâu, gần đây Hội quả thực đang rục rịch cải tổ, mọi người đều tăng cường hoạt động, gây dựng thế lực khắp nơi.”

“Cải tổ thế nào?”

“Ông Lưu muốn thâu tóm tất cả nguồn lực ở thủ đô, liên kết giới sưu tầm, giới buôn đồ cổ, các trường đại học, viện bảo tàng, Cục Quản lý hiện vật văn hóa và các ban ngành liên quan lại để ổn định thị trường cổ vật.”

“Gớm thật,” tôi tặc lưỡi trầm trồ. Quả là bước cải tổ không nhỏ.

“Nếu chuyện này thành, sẽ gây ra xáo trộn lớn trong giới. Người mấy phái còn lại cũng đang tất bật lo liệu đấy. Lần cải tổ này tuy chỉ thâu tóm các nguồn lực ở thủ đô, nhưng vẫn có ảnh hưởng rộng khắp cả nước. Bởi vậy mấy hôm nữa em phải tới Nam Kinh một chuyến, đằng đó có mấy bậc tiền bối trong giới quen biết ông em, người nhà cử em đi nhờ họ giúp đỡ.”

“Em đi bao lâu?”

“Chắc cũng phải hơn nửa tháng.” Dứt lời Yên Yên chìa tay xoa mặt tôi, “Em biết anh nóng lòng nhưng để anh một mình đi điều tra, em không yên tâm được. Anh cũng biết Lão Triều Phụng nguy hiểm thế nào rồi đấy. Chỉ cần hơi sơ ý, ta sẽ bị một vố đau. Anh đừng quên chuyện Dược Bất Nhiên chứ.”

Nghe Yên Yên nói vậy, khóe miệng tôi giần giật. Cái tên Dược Bất Nhiên này tôi đã khắc cốt ghi tâm. Tôi từng coi gã là bạn thân, chẳng ngờ gã lại là tai mắt Lão Triều Phụng cài cắm, suýt nữa đã hại chết tất cả chúng tôi. Tôi thề quyết tìm ra Lão Triều Phụng để trả thù, một nửa là vì ân oán gia tộc, phần còn lại là bởi Dược Bất Nhiên.

Thấy tôi biến sắc, biết cái tên kia đã chạm trúng chỗ đau trong lòng tôi, Yên Yên dịu dàng nắm lấy tay tôi, thủ thỉ khuyên, “Thế nên anh phải cố kiên nhẫn, đợi em về đã. Em sẽ nói với ông một tiếng, huy động nhân lực của Minh Nhãn Mai Hoa, còn sợ không bắt nổi lão ư?”

Tôi ậm ừ, đoạn tươi nét mặt, “Được rồi, nghe em hết. Nhưng anh không chịu nghe suông đâu.” Nói rồi tôi cười khi quay sang định hôn lên môi cô. Nào ngờ thân hình cô nhoáng một cái, nhanh nhẹn lách người né tránh. Tôi cũng chẳng làm gì được, dẫu sao Hoàng Yên Yên võ nghệ cao cường, nếu đánh nhau tôi hoàn toàn không đấu lại cô. Hoàng Yên Yên cười khanh khách, xách chiếc túi đỏ đi thẳng.

Hoàng Yên Yên đi rồi, tôi ngồi một mình trên giường xếp, châm một điếu thuốc, nụ cười tan dần trong làn khói thuốc. Mọi người đều khuyên tôi đừng đi tìm Lão Triều Phụng, nhưng tôi không thể chỉ vì một câu “đừng đi” mà buông tay được.

Mấy ngày tiếp theo tôi quanh quẩn trong Tứ Hối Trai, chẳng đi đâu hết, chỉ gọi mấy cú điện thoại. Hôm Yên Yên đi Nam Kinh, tôi đưa cô đến ga tàu. Yên Yên nói đâu phải sinh ly tử biệt, đưa đến cửa soát vé là được. Tôi cãi lại vậy sao tỏ được tấm lòng, khăng khăng mua một vé vào ga, tiễn cô lên tận toa, cất túi du lịch lên giá để hành lý rồi mới xuống.

Xuống tàu rồi, tôi vẫn chưa đi mà quanh quẩn ở sân ga nhìn vào toa tàu qua lớp cửa kính, thấy Hoàng Yên Yên nói gì đó với mình, còn áp tay vào tai nghiêng nghiêng đầu, nhìn khẩu hình có lẽ ý bảo đến Nam Kinh sẽ gọi điện vào di động cho tôi. Tôi cười gật đầu, ra dấu bảo cô cứ yên tâm.

Tôi đứng yên tại chỗ nhìn theo đoàn tàu từ từ rời ga. Tới khi nó biến mất đằng xa, tôi mới vờ đi vài bước về phía đường hầm, giả bộ cúi xuống buộc dây giày để quan sát xung quanh. Lúc này những người đưa tiễn trên sân ga đã tản đi hết, chỉ còn mấy xe đồ ăn, dăm người bán hàng túm tụm lại tán gẫu. Thấy không ai để ý đến mình, tôi lỉnh ra sau cây cột xanh lá ở cuối sân ga, nhìn con tàu ở đường ray bên kia.

Sân ga này có hai mặt, bên kia cũng có một đoàn tàu khác sắp khởi hành, nhìn bảng hiệu là tới Quảng Châu. Theo quy định, sân ga chỉ có thể khởi hành một chiều, chuyến này đi rồi mới đến chuyến khác. Đợi tàu đi Nam Kinh chuyển bánh, tàu đi Quảng Châu mới mở cửa soát vé. Tôi giơ tay nhìn đồng hồ, thấy đã sắp đến giờ. Quả nhiên ít lâu sau từ đường hầm vang lên tiếng chân dồn dập, rồi cả toán hành khách lỉnh kỉnh mang vác hành lý tràn lên sân ga, ai nấy đều phấn khởi, hẳn là định đi miền Nam đào vàng. Nhân viên nhà tàu lần lượt đi đến trước cửa các toa, chuẩn bị đón khách.

Tôi ném đầu mẩu thuốc lá xuống đất di nát, bám theo một hành khách đeo túi vải dù to. Nhân viên nhà tàu chìa tay hỏi vé, tôi bèn vung vẩy tấm vé vào ga trong tay rồi trở vào dòng khách phía trước, không nói câu nào, thế là chen được lên toa. Sau khi lên, tôi lẹ làng ra đứng cạnh bồn rửa tay chờ đợi. Đợi những người đưa tiễn xuống hết, tàu vừa chuyển bánh, tôi chủ động tìm nhân viên nhà tàu, xin mua thêm một vé nằm.

Nhân viên nhà tàu hỏi tôi đi đâu, tôi nhìn ra cửa sổ đáp ngay, “Trịnh Châu.”

Đúng vậy, Trịnh Châu.

Tôi phải tới Trịnh Châu.

Địa chỉ của Lão Triều Phụng mà Mắt Trố cho tôi nằm ở Trịnh Châu.

Lưu Nhất Minh cũng thế, Hoàng Yên Yên cũng vậy, đều là người trong Minh Nhãn Mai Hoa, xét việc luôn nhìn từ đại cục, đặt lợi ích của Hội lên hàng đầu. Nhưng tôi thực chẳng có thiện cảm gì với Minh Nhãn Mai Hoa, tôi có ơn với họ chứ không phải họ có ơn với tôi. Mối thù của nhà họ Hứa, người khác cho qua thì cho, nhưng tôi sẽ không bao giờ bỏ qua.

Dĩ nhiên tôi đã hứa với cục trưởng Lưu và Yên Yên, tạm thời không đi tìm Lão Triều Phụng thì sẽ giữ lời. Có điều tôi không hứa sẽ không điều tra các manh mối vòng ngoài.

Tôi vốn định thế này: Âm thầm điều tra ở Trịnh Châu, hễ phát hiện được manh mối sẽ lập tức ngừng tay, tới khi Hội có thời gian lại tiếp tục điều tra. Trước khi đi tôi đã sắp xếp ổn thỏa mọi việc ở Tứ Hối Trai, đóng kín cửa giả, nói là đi lùng hàng. Tôi tính đến Trịnh Châu cùng lắm một tuần, thần không hay quỷ chẳng biết, chỉ cần về trước Yên Yên là được.

Mắt Trố sa cơ bị bắt, có lẽ chẳng bao lâu nữa Lão Triều Phụng sẽ biết tin. Nếu lần lữa mấy ngày để đứt manh mối này thì có hối cũng đã muộn.

Tôi nằm trên giường nghĩ ngợi miên man rồi thiếp đi. Chừng mười tiếng sau, nhân viên nhà tàu lay tôi dậy, nói đã đến ga. Tôi dụi mắt nhìn ra ngoài thấy sân ga ngoài cửa sổ dựng một tấm biển to tướng, hai chữ “Trịnh Châu” màu đen nổi bần bật trên nền trắng.

Tôi thầm nhủ, coi như bước vào trại giặc rồi đây.

Người chơi đồ cổ đều biết, Hà Nam là vựa đồ cổ lớn, ba vùng Khai Phong, Lạc Dương, An Dương tạo thành thế chân vạc. Đồ cổ ở cả ba vùng này đều tụ về tỉnh lỵ Trịnh Châu. Trịnh Châu từ xưa đã là cửa vào bảy quận, năm lối thông nhau, là nơi tập kết và lưu thông văn vật quan trọng, tự hình thành lề lối riêng. Muốn được chia một miếng bánh trong thị trường văn vật Hà Nam, ở Trịnh Châu tất phải nắm giữ đầu mối then chốt. Vì vậy các tai to mặt lớn trong giới đều có thế lực tại đây, phe phái chồng chéo phức tạp, không kém gì thủ đô. Nghe nói Minh Nhãn Mai Hoa mấy lần Nam tiến hòng thu Trịnh Châu vào dưới trướng, cuối cùng cũng chỉ được kết quả bằng mặt không bằng lòng, đủ thấy nơi này khó nhằn nhường nào.

Rời khỏi ga Trịnh Châu nhộn nhạo, tôi sà vào quán ven đường ăn ngay một bát mì cay ú ụ. Món này nhìn cứ tưởng nấu kiểu tả pí lù, thực ra mùi vị rất ngon, hớp một thìa nước dùng cay sè, cả người sẽ tê tê như chạm phải công tắc điện, dễ chịu vô cùng. Tôi chiêu thêm hai chiếc bánh rán, húp hết bát mì cay, thấy tinh thần phấn chấn hẳn, bao mệt mỏi vì nằm tàu suốt đêm đều bốc hơi qua lỗ chân lông hết.

Lần này đến Trịnh Châu, tôi giấu nhà họ Lưu nên cũng chẳng nhờ vả được người của Minh Nhãn Mai Hoa, đành độc lập tác chiến. Nghĩ đến đó, tôi chẳng những không sợ, mà còn thêm phần hào khí. Ân oán ba đời giữa Lão Triều Phụng và gia đình tôi giờ đã đến lúc phải đặt dấu chấm hết, dù sống dù chết, tôi cũng không hối hận.

“Thư kia đến đúng lúc lắm thay, trời giúp Hoàng Trung lập công này, đứng giữa nha môn cao giọng nói, ba quân tướng sĩ gắng nghe đây...” Tôi cao hứng cất giọng hát mấy câu trong vở Núi Định Quân * rồi ợ một tiếng, rút mẩu giấy nhỏ và bản đồ trong túi áo ra.

Mảnh giấy này tôi đã lén chép lại trong lúc thẩm vấn Mắt Trố, ghi địa chỉ của Lão Triều Phụng. Có lẽ Phương Chấn đoán được ý tôi nên xem rất kỹ biên bản khai nhận, không cho tôi đụng vào. Tôi phải giở đủ mọi mánh lới mới trộm được từ cậu cảnh sát ghi biên bản.

Tôi mò mẫm dò bản đồ tìm đường đến địa chỉ trên giấy, đổi mấy chuyến xe buýt, cuối cùng cũng tới được một ngã tư. Đây là khu nhà cũ, phóng mắt trông ra toàn nhà cấp bốn ngói xám, ngõ ngách ngoằn ngoèo, xa xa là mấy công trường đang xây nhà cao tầng, nhưng ngày một ngày hai vẫn chưa thể thay đổi được diện mạo cả khu. Giữa những căn nhà lúp xúp, nổi lên một gò đất dài, cỏ mọc lơ thơ.

Tôi hỏi thăm xung quanh mới biết đó là di tích tường thành thời nhà Thương, không khỏi ngắm nghía thật kỹ. Đúng là Trịnh Châu, đâu đâu cũng thấy di tích từ thời thượng cổ. Tường thành từ mấy ngàn năm trước lại nằm lù lù giữa khu dân cư hỗn tạp, hay thật.

Địa chỉ ghi trên giấy nằm cuối con ngõ gần đó, là một căn nhà cấp bốn bình thường, tường thành đời Thương chạy qua phía sau, trông như núi tựa cho nhà này. Tôi đến trước cửa, thấy khóa trái, ngoài cửa còn treo một thùng thư xanh biếc màu mực, bên cạnh là hòm đựng sữa tươi, trên viết nguệch ngoạc số nhà bằng phấn.

Tôi chưa vội gõ cửa mà thận trọng đi vòng quanh nhà xem xét, tìm được một tiệm tạp hóa ngay đầu ngõ. Chủ tiệm là một bà béo, thoạt đầu khá hờ hững, song thấy tôi móc tiền ra mua hai vỉ pin năm hào và một cuộn phim Lạc Khải thì vồn vã hẳn. Tôi thừa dịp lân la hỏi han về người nhà nọ.

Hỏi chuyện là kỹ năng thiết yếu của dân chơi đồ cổ, tục gọi là lưỡi đào, uốn ba tấc lưỡi là đào bới được chuyện cần biết. Một phụ nữ trung niên bình thường như bà chủ tiệm hẳn không hề đề phòng tôi nên chỉ dăm ba câu tôi đã hỏi được tường tận về người sống trong nhà kia.

Chủ nhà đó họ Diêm, tên Diêm Sơn Xuyên, là nhà báo, vợ làm cô giáo dạy Văn ở trường trung học, có một đứa con bảy tuổi. Có điều theo lời bà béo thì Diêm Sơn Xuyên là phóng viên kinh tế, cô vợ cũng thuộc dạng yên phận, chẳng nghe nói họ có dính dáng gì đến đồ cổ hay văn vật cả.

Dĩ nhiên những điều này chẳng nói lên được gì. Nếu họ có qua lại với Lão Triều Phụng cũng chẳng để người ngoài biết được. Tôi chào bà béo, mua một chiếc tua vít ở cửa hàng kim khí gần đó, nhân lúc ngõ đang vắng, lén cạy thùng thư nhà Diêm Sơn Xuyên. Trong thùng chỉ có một tờ Tin ngày Hà Nam , một tờ Tin chiều Trịnh Châu , đều là báo hôm nay, bên trên cũng không có ký hiệu gì.

Tôi nhét lại báo, đóng kín thùng thư rồi lẳng lặng ra khỏi ngõ, tạt vào một nhà trọ tên Ái Dân gần đó nghỉ tạm. Sáng sớm hôm sau, tôi mua một chiếc ống nhòm đồ chơi ở hàng rong, trèo lên di chỉ tường thành đời Thương. Đứng từ đây có thể nhìn thẳng xuống nhà Diêm Sơn Xuyên, thấy hết động tĩnh người ra kẻ vào.

Tôi quan sát suốt ba ngày, đã nắm được đại khái thời gian biểu của gia đình nọ. Diêm Sơn Xuyên mỗi sáng sáu giờ rưỡi rời nhà, đến bảy giờ thì cô vợ dẫn đứa con đi, trưa cũng chẳng ai về nhà. Năm giờ chiều con nhà họ tan học tự về nhà lấy chìa khóa mở cửa. Sáu giờ cô vợ lỉnh kỉnh xách cá thịt về nhà nấu cơm, Diêm Sơn Xuyên thông thường phải sau bảy giờ mới về. Bưu tá đưa báo mỗi ngày đúng hai giờ chiều sẽ đưa tới hai tờ báo, không có bưu thiếp hay thư từ gì, đến tối vợ Diêm Sơn Xuyên về nhà sẽ mở thùng thư ra lấy.

Trước tình hình ấy, tôi rất lấy làm khó hiểu.

Theo Mắt Trố khai, y mua chiếc bình thời Minh dởm từ Lão Triều Phụng với giá hai trăm năm mươi tệ, vậy có lẽ Lão Triều Phụng lời chừng trăm tệ. Tỷ suất lợi nhuận thì cao, nhưng lượng sản phẩm lại không lớn. Lão Triều Phụng muốn kiếm tiền bằng đường này, ít nhất một ngày cũng phải đẩy đi được mười hai mươi món, chứ như điểm nhận đơn hàng này, suốt ba hôm chẳng được nổi một đơn thì ăn thua gì.

Tôi thầm nghĩ, lẽ nào trong nhà giấu giếm bí mật gì? Phải nghĩ cách lẻn vào xem mới được.

Người nhà họ Diêm đi vắng cả ngày, nhưng nhà họ khá gần đường cái, người qua kẻ lại luôn luôn. Huống hồ bà hàng xóm đã biết mặt tôi, đường đột lẻn vào lỡ người ta tưởng là trộm cắp bắt lại thì lợi bất cập hại. Nghĩ vậy, tôi bèn đổi ý, nhằm vào con trai nhà họ. Diêm Tiểu Quân, con trai Diêm Sơn Xuyên học lớp hai, mỗi ngày sau khi tan học sẽ cùng các bạn xếp hàng về nhà, tới đầu đường mới rời hàng, móc chìa khóa ra mở cửa.

Đây quả là một điểm đột phá tuyệt vời. Tôi kiếm một chiếc mũ phóng viên và áo jacket, lại tới cửa hàng đồ chơi mua một robot biến hình hai trăm tệ, còn là loạt robot hợp thể biến hình Devastator. Xong xuôi, tôi cầm hộp đồ chơi đợi sẵn đầu ngõ. Sắp đến năm giờ, thấy một đoàn học sinh xếp hàng rồng rắn đi về nhà, tôi liền bước lên gọi to, “Diêm Tiểu Quân!”

Nghe tiếng gọi, một đứa bé trong hàng tức thời quay lại. Nó quan sát tôi, thấy không phải người quen, liền lộ vẻ bối rối, nhưng vừa nhác thấy con robot biến hình trong tay tôi, thì không rời mắt nổi nữa.

Trẻ con mê robot biến hình không kém gì thư pháp gia si mê thiếp Lan Đình bản gốc. Tôi cố ý chìa hộp robot biến hình ra, cười hỏi, “Tiểu Quân quên chú rồi à? Chú làm cùng cơ quan với bố cháu, hồi xưa còn bế cháu đấy. Bố mua robot cho cháu này, bố có việc, nhờ chú đem về cho cháu trước.”

Tôi cố ý nói thật to, khiến đám bạn học của thằng bé đổ dồn mắt lại nhìn đầy thèm muốn. Trẻ con rất nhạy cảm, Diêm Tiểu Quân chẳng còn bụng dạ nào nghi ngờ tôi nữa, háo hức nhận ngay bộ robot, ôm khư khư không rời. Tôi cười khà, làm bộ trách: chưa cảm ơn chú Nguyện à, nó vội đáp cảm ơn chú Nguyện, không quên vênh vang quay lại liếc nhìn đám bạn.

Tôi xoa đầu nó nói lát nữa bố cháu sẽ về, để chú đưa cháu về nhà rồi ngồi đợi bố luôn nhé. Diêm Tiểu Quân đang mê tít con robot, chẳng còn nghi ngờ gì, ngoan ngoãn rút chìa khóa ra mở cửa cho tôi vào nhà.

Bước qua cửa là tới phòng khách nhỏ, kê một bàn tròn bằng nhựa. Bên trong chia làm hai gian, một gian cho người lớn, gian còn lại cho trẻ con, đều che màn vải hoa mai. Trên kệ tủ búp phê đặt giữa phòng khách là chiếc ti vi màu 21 inch và bộ dàn karaoke. Xa hơn là giá sách, cạnh đó bày cây đàn organ Yamaha, trên bức tường bên cạnh treo ảnh cưới của hai vợ chồng, có vết nứt.

Xem ra gia cảnh Diêm Sơn Xuyên cũng khá, song nhìn mãi vẫn chẳng thấy có quan hệ gì với giới cổ vật cả. Tôi nhìn lướt qua giá sách, thấy xanh đỏ lòe loẹt, không phải tạp chí hay sách tham khảo thì là mấy loại sách về cổ phiếu, thời trang, cũ nhất cũng chỉ là sách những năm 70, 80.

Tôi gọi Diêm Tiểu Quân lại, hỏi thăm hằng ngày bố mẹ nó ở nhà làm gì, nó đáp rằng vật nhau. Tôi nghe mà phì cười, thằng bé này đúng là bạo mồm bạo miệng... Tôi lại hỏi ngoài vật nhau còn gì không, Tiểu Quân đáp rằng cãi vã. Tôi kiên nhẫn gọi chuyện, bảo nó nghĩ kỹ xem nhà đã bao giờ nhận được thư từ hay chai lọ bình hoa gì không?

Diêm Tiểu Quân sáng mắt lên khoe bố cháu có cái này hay lắm, giấu trong thùng các tông dưới gầm giường phòng cháu. Tôi nén kích động, rủ nó cho mình xem. Thằng bé này cũng vô tâm vô tư, dẫn ngay tôi vào phòng, chổng mông cúi xuống lôi dưới gầm giường ra một thùng các tông to tướng, dán băng dính kín mít.

Muốn gỡ băng tốt nhất là xông hơi nước, không để lại dấu tích. Nhưng tôi xem đồng hồ thấy đã sắp sáu giờ, sợ vợ Diêm Sơn Xuyên về, cái khó ló cái khôn, bèn lật úp thùng lại. Quả nhiên đáy thùng không dán băng dính, chỉ có bốn mép gập lại cài vào nhau. Tôi xua Diêm Tiểu Quân đi chơi robot, bảo rằng ở đây có chú rồi. Thằng bé lập tức chạy đi ngay, hẳn là sốt ruột lắm.

Khui thùng ra, tôi tức thì hộc máu. Thì ra bên trong là một xấp tạp chí Long Hổ Báo của Hồng Kông, ngay ngoài bìa đã thấy ảnh người mẫu nữ khỏa thân õng ẹo tạo dáng. Tôi hiểu vì sao Diêm Sơn Xuyên giấu chúng ở đây, có điều đây rõ ràng không phải thứ tôi muốn tìm, vội cất ngay vào thùng, trả về chỗ cũ.

Vừa quay lại phòng khách, tôi đã nghe tiếng chuông xe đạp leng keng, nhìn ra ngoài thì thấy mẹ Diêm Tiểu Quân xách thức ăn về sớm. Tôi thầm than trong lòng, kéo Diêm Tiểu Quân lại, vờ như đang dạy nó chơi robot. Vợ Diêm Sơn Xuyên đẩy cửa vào, thấy người lạ trong nhà thì giật nẩy mình. Tôi vội đặt con robot xuống, tươi cười chìa tay ra bắt, vồn vã chào hỏi, giới thiệu mình là đồng nghiệp của Diêm Sơn Xuyên, có người tặng Diêm Tiểu Quân đồ chơi nên Diêm Sơn Xuyên nhờ tôi mang về hộ.

Rơi vào cảnh này nhất định không thể bỏ đi ngay được, nếu bỏ đi là lòi đuôi ngay. Oan gia ngõ hẹp, ai cứng thì khỏi bẹp, bạn phải chủ động thao thao nói chuyện, không cho đối phương thời gian suy nghĩ, mới có thể chớp thời cơ ra tay trước. Thấy tôi đon đả chào hỏi, cô vợ Diêm Sơn Xuyên ngớ ra, không kịp phản ứng. Thừa thắng xông lên, tôi bồi thêm một câu, “Anh Xuyên đã cho em xem ảnh, nhưng nhìn ngoài mới thấy chị đúng là trẻ quá đi mất.” Câu này trước là giải thích việc chúng tôi chưa từng gặp nhau, lại tiện thể nịnh đầm, gạt bỏ nghi ngờ. Vợ Diêm Sơn Xuyên bị tôi quay mòng mòng, bèn đặt thức ăn sang một bên, ngượng ngập đáp, “Cái anh Xuyên này, chẳng báo trước cho tôi gì cả, biết trước tôi đã mua thêm thức ăn rồi.”

“Không cần đâu, thằng em có việc phải đi ngay đây.” Tôi xua tay, song không hề cất bước. Vợ Diêm Sơn Xuyên vừa nghe nói tôi phải đi, vội giữ lại nói cậu mất công đến tận đây đưa đồ, ít ra cũng phải ở lại ăn bữa cơm đã chứ. Nói được câu này, chứng tỏ cô ta đã bớt nghi ngờ quá nửa, tiếp theo đây tôi chỉ cần khăng khăng đòi ra về, cô ta sẽ đãi bôi mấy câu rồi tiễn tôi ra ngoài, thế là coi như qua ải. Dân buôn đồ cổ ít nhiều đều có năng khiếu diễn xuất, mấy mánh lới này đem ra lừa người thường dễ như bỡn.

Tôi thầm thở phào nhẹ nhõm, nhẩm tính xem lúc nào đứng dậy ra về thì vừa. Ngờ đâu ngoài cửa lại có tiếng lạch cạch, tôi và vợ Diêm Sơn Xuyên nhất loạt quay ra nhìn thì thấy một người trung niên mở cửa bước vào, chính là Diêm Sơn Xuyên.

Lần này dù tôi tâm lý vững, cũng không khỏi phát hoảng. Ông trời thật khéo trêu ngươi, mọi ngày vợ chồng nhà này lúc nào cũng đúng giờ, sao hôm nay lại nối nhau về sớm thế cơ chứ.

Thấy trong nhà có người lạ, Diêm Sơn Xuyên liền dừng bước, nhìn tôi chằm chằm. Tôi biết nếu để anh ta có thời gian suy nghĩ thì chưa đầy hai giây, tôi sẽ nguy to. Cái khó ló cái khôn, tôi săm soi anh ta như xem đồ cổ, thấy mặt anh ta đỏ gay như vừa uống rượu, bèn nghĩ ngay ra một cách, bước tới cao giọng nói, “Sơn Xuyên! Anh mãi không bỏ được thói rượu chè, thảo nào bao năm không lên chức nổi!”

Nghe câu này, Diêm Sơn Xuyên rùn vai, lộ vẻ ngượng ngập, quả nhiên đã bị tôi nói trúng tim đen.

Thực ra chuyện này rất dễ thấy. Trong nhà bày khá nhiều bình rượu, ảnh cưới còn bị rơi vỡ, lại thêm vừa rồi Diêm Tiểu Quân nói bố mẹ hay cãi vã, chứng tỏ vợ chồng nhà này xung đột liên miên. Một nhà báo trung niên làm trong cơ quan nhà nước mà lại sống trong căn nhà cấp bốn bé bằng lỗ mũi thế này, rõ ràng là ở cơ quan cũng chẳng có vai vế gì. Nỗi bất đắc chí của Diêm Sơn Xuyên, dù không phải nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn gia đình, song cũng góp một phần không nhỏ. Giờ mới sáu giờ, Diêm Sơn Xuyên đã uống tây tây quay về, nhất định không phải là do thù tạc tiếp khách, mà rất có khả năng tự đi uống rượu giải sầu.

Tổng hợp các manh mối lại, tôi đánh bạo dấn thêm một bước, đánh trúng ngay chỗ yếu của anh ta. Được đà, tôi rảo bước đến gần, nói nửa như khuyên nhủ, nửa như trách móc, “Chị nhà vất vả nuôi Tiểu Quân lớn ngần này, anh là trụ cột trong nhà, cũng phải cố mà phấn đấu chứ.”

“Cậu là..” Diêm Sơn Xuyên ngớ ra. Tôi vội vàng cắt ngang, không để anh ta nói hết, “Phải, tôi là người ngoài, nhưng có những lời phải để người ngoài nói mới được!” Đoạn tôi ghé tai Diêm Sơn Xuyên nói nhỏ, “Bà chị phát hiện ra đống tạp chí dưới gầm giường rồi đấy.” Diêm Sơn Xuyên trợn mắt, cuống cà kê, lắp bắp nói là do Đại Chung đưa. Vợ anh ta nhướng mày, đã đánh hơi thấy mùi không ổn. Tôi thở dài trỏ chị vợ nói, “Anh đi mà giải thích với chị ấy, tôi xin chịu.”

Câu này cực ác, bởi tôi cố tình ăn nói lập lờ, nếu vợ chồng họ đang sẵn mâu thuẫn thì sẽ tự động vận vào. Quả nhiên chiêu “dẫn lũ về Đông” phát huy tác dụng, vợ Diêm Sơn Xuyên sầm mặt, chưa chừng đã nghĩ tới chuyện cũ nào đó. Diêm Sơn Xuyên định giải thích, song chẳng biết phải nói từ đâu. Tôi chớp thời cơ hầm hầm đi thẳng ra ngoài, còn cố ý sập cửa thật mạnh.

Ra khỏi đó rồi, tôi cắm cúi đi thẳng một mạch về nhà trọ Ái Dân, chẳng dám quay đầu lại nữa. Bước vào phòng, tôi ngồi phịch xuống ghế, giờ mới thấy lưng đã ướt đẫm mồ hôi. Nói thực lần này tôi cũng hơi ác, tôi và tay họ Diêm đó xưa chẳng thù nay không oán, vậy mà lại lôi anh ta ra đỡ đạn thay mình, song chẳng làm sao khác được, đành xem sau này có cách nào đền bù lại không thôi.

Tôi ngồi thừ ra xô pha, chờ cho hơi thở bớt dồn dập mới đứng dậy cầm phích rót lấy một cốc nước ấm, bình ổn lại tâm trạng.

Hôm nay cũng không thể nói là không thu hoạch được gì. Quan sát phản ứng của ba người nhà họ Diêm khi thấy tôi thình lình xuất hiện, có thể thấy họ không liên quan gì tới Lão Triều Phụng hay đường dây làm giả đồ cổ.

Hoặc là Mắt Trố cố tình cho địa chỉ giả, hoặc là Lão Triều Phụng xảo quyệt, thấy có biến đã rút ngay trạm tiếp nhận ở đó về. Bất luận thế nào thì manh mối này cũng đã trở nên vô giá trị. Lưu Nhất Minh và Yên Yên nói không sai, Lão Triều Phụng quả là xảo quyệt như hồ ly, tàn nhẫn như lang sói, nhiễu nhương như chuột. Nói không chừng chính việc Mắt Trố sa lưới đã đánh động lão thu hết mọi hoạt động lại.

Tôi ngán ngẩm lắc đầu. Đã đánh liều mò đến đây, bất chấp bị Minh Nhãn Mai Hoa lẫn Yên Yên trách cứ, vậy mà lại tay trắng về không. Ăn mắng là chuyện nhỏ, quan trọng là Lão Triều Phụng đã rút vào bóng tối, chẳng biết đến bao giờ mới lại tóm được đuôi lão lần nữa.

Ngày nào chưa nhổ được cái dằm này, nhà họ Hứa chúng tôi còn chưa thể yên ổn.

“Ông ơi, bố ơi, con phải làm gì đây?” Tôi nhìn lên trần nhà lẩm bẩm. Trần nhà loang lổ vết nước ố, vừa giống hoa văn khắc chìm trên đồ đồng vừa giống gương mặt già nua đầy nếp nhăn của ông tôi. Tôi cứ nhìn mãi nhìn mãi, hy vọng nhìn ra đáp án từ đó, mí mắt nặng dần, rồi từ từ chìm vào giấc ngủ... Ngủ suốt một đêm, chẳng có ai báo mộng cho tôi. Sáng hôm sau tôi dậy sớm, định bắt chuyến tàu gần nhất về Bắc Kinh. Nhà trọ Ái Dân nhận mua hộ vé tàu nên tôi đưa tiền cho phục vụ rồi ngồi trên xô pha cạnh quầy tiếp tân đợi lấy vé. Tiện tay tôi rút một tờ báo trên giá, bồn chồn giở ra đọc. Mới đọc được hai mẩu tin thì nghe tiếng xôn xao bên ngoài.

Tôi ngẩng lên nhìn, thấy một gã Loắt Choắt mặc jacket đỏ lê lết chạy vào, trông còn khá trẻ, cổ đeo máy ảnh lủng lẳng. Loắt Choắt nhớn nhác, vừa vào đã luôn miệng giục báo cảnh sát. Lễ tân đang định thò đầu ra hỏi han thì rụt ngay lại, vì thấy bốn năm gã tóc dài, cởi trần mặc quần bò đang đuổi riết theo sau. Thấy lễ tân không dám phản ứng, Loắt Choắt phát hoảng, sơ ý vấp phải cây lau nhà ngã nhào, đồ trong túi áo lăn ra rơi xuống đất đánh xoảng.

Nghe tiếng rơi, tai tôi bất giác dỏng lên. Âm thanh này tôi đã quá quen, là tiếng đồng, hơn nữa còn là đồng ròng! Thời cổ đồng được gọi là thanh kim, dễ phát ra tiếng nhất trong số năm thứ kim loại, nhà họ Hứa chúng tôi thuộc Bạch môn, chuyên nghiên cứu kim thạch, nên tôi đã nghe âm thanh này rất nhiều lần. Tôi đặt tờ báo xuống, nhìn xuống đất, nhận ra đó là một lư hương đồng ba chân có tai, màu đen, khá nhỏ, trông khá giống đồ cổ.

Thấy lư hương rơi ra, Loắt Choắt hốt hoảng cúi xuống nhặt lên nhét vào ngực áo. Chỉ chậm lại mấy giây, vậy mà đám người kia đã đuổi kịp, tóm lấy vai cậu ta, bắt giao đồ ra. Loắt Choắt vùng vẫy dữ dội, “Tôi là phóng viên, buông tôi ra!”

Mấy tên kia nổi giận, đạp cho cậu ta hai cái, “Phóng viên là cái thá gì! Mau nôn đồ mày thó ra trả chúng ông!”

“Cái này là tôi mua mà!” Loắt Choắt hét lên.

“Chúng ông không bán!” Tên cầm đầu móc ra một cọc tiền ném xuống đất rồi lệnh cho đồng bọn soát người cậu ta. Loắt Choắt cứng đầu nằm bò ra đất, liều mạng ôm khư khư cái lư hương, “Các người bán hàng giả. Đây là chứng cứ, không thể trả lại được!” Nghe hai chữ “hàng giả”, tôi nhíu mày, đưa mắt nhìn sang. Vừa hay chạm phải ánh mắt một tên trong bọn, hắn săm soi tôi một thoáng rồi bước đến gằn giọng hỏi, “Nhìn gì mà nhìn?”

“Liên quan quái gì đến mày?” Hắn đã làm căng, dĩ nhiên tôi cũng chẳng chịu lép.

“Còn một thằng bố láo nữa này!” Hắn vừa gọi, lập tức hai tên từ bên kia hùng hổ chạy sang, vây lấy tôi định đánh. Tôi sực nhận ra mình vẫn đang mặc nguyên bộ đồ nhà báo đến nhà Diêm Sơn Xuyên hôm qua, chắc chúng hiểu lầm rằng tôi cùng một bọn với cậu phóng viên nhỏ thó kia. Thấy tôi ngồi im trên xô pha, chúng tưởng tôi sợ, bèn chỉ mặt mắng, “Ngồi im đấy cho bố mày, không chúng bố đập cả mày đấy!”

Vốn dĩ tôi cũng chẳng định ra tay giúp đỡ cậu kia, nhưng đám khốn kiếp này đã chọc đến tôi, tôi cũng chẳng cần khách sáo nữa. Phân biệt đồ giả, nhận biết hàng dỏm là chức trách của Minh Nhãn Mai Hoa. Trước lúc đi tôi tiện tay hành hiệp trượng nghĩa một lần, cũng không uổng tới Trịnh Châu chuyện này.

Nghĩ vậy, tôi gạt tay hắn ra, cười nhạt đáp, “Giữa ban ngày ban mặt, chúng mày cướp giật ở nhà trọ Ái Dân, đồn ra không sợ lau mâm à? Người ta đã không đảo chắn, chúng mày cũng chớ ép người quá đáng, bằng không đừng trách tao đào chày lên đấy.”

Đây đều là tiếng lóng trong giới chơi đồ cổ, “lau mâm” là bẽ mặt, “đảo chắn” là người bị lừa quay lại đòi tiền, “đào chày” ý nói người trong nghề phá cho sập tiệm. Nghe những lời này, hẳn chúng sẽ nhận ra tôi là người trong nghề. Quả nhiên, tên cầm đầu dịu hẳn đi, trỏ Loắt Choắt bảo, “Thằng này thó đồ của bọn tao, bị bắt tận tay. Chú mày đừng can thiệp vào, đôi bên khỏi va chạm.”

“Cái lư hương kia ấy à?”

“Lò Tuyên ba chính hiệu đấy! Mày bảo tội nó có to không?” Tên kia dõng dạc đáp. Nghe vậy, tôi phì cười.

Lò Tuyên ba ý chỉ đồ đồng đúc ra vào năm Tuyên Đức thứ ba thời Minh. Bấy giờ hoàng đế Tuyên Đức đích thân giám sát, dùng đồng nhập từ Xiêm La, tinh luyện cả thảy mười hai lần, chất lượng cực thuần. Tổng cộng đúc ra được ba nghìn món đồ đồng, không hơn không kém, dân sưu tầm gọi là “lò Tuyên ba”. Lò Tuyên Đức mà chúng ta hay gọi, nói đúng ra chính là lò Tuyên ba. Tuy người đời sau vẫn luôn làm phỏng theo, nhưng chẳng bao giờ đạt đến trình độ chế tác như năm ấy. Bởi vậy những thứ còn lưu truyền đến ngày nay đều là báu vật hiếm thấy. Thế mà gã này cũng dám há miệng ra nói là lò Tuyên ba.

Loắt Choắt nằm bò dưới đất hét lên, “Nói láo! Chúng bán hàng giả, tôi mua về làm chứng cứ định vạch mặt nên chúng muốn cướp lại.”

Tôi gật đầu. Thực ra vừa rồi nghe tiếng rơi, tôi đã biết là hàng giả. Lò Tuyên Đức thật chất đồng cực thuần, khi rơi sẽ rất vang, trong khi đồ giả thường phát ra tiếng trầm đục. Huống hồ lò Tuyên Đức chính hiệu bề ngoài sẽ xỉn màu, thu liễm vào trong, giống như chỉ thấy ánh lửa trong lò chứ không bốc ra ngoài. Trong khi chiếc lò cậu chàng kia ôm lại sáng bóng, nhìn giả hết biết.

Nhưng quan trọng là, phải nói thế nào mới được. Giới cổ vật xưa nay không gọi là “giả”, mà gọi là “không cũ”, “còn mới”, bởi không muốn đắc tội với