← Quay lại trang sách

Chương 3 Thanh minh thượng hà đồ trong bảo tàng Cố cung là giả?

Sân nhà nông bình thường đều đặt chuồng lợn chuồng gà, hoặc chất đống rau củ và nông cụ. Vậy mà sân nhà này lại chồng chất toàn những đồ gốm. Quả thực là chồng chất, không khoa trương chút nào. Đống bát chiết yêu chồng lên bát cống, cạnh đám lọ lục bình là cả mớ bình hồ lô, từng chồng đĩa sứ Thanh Hoa chân cao xếp ngất nghểu như trong chậu rửa bát ở hàng ăn, ngả nghiêng chực đổ. Góc tường còn có hai chiếc bình có nắp theo lối tháp Tứ Linh. Dưới ánh trăng chỉ thấy trắng phau một màu, trông mà lóa mắt. Từng này hàng đủ khiến bảo tàng Cố cung ở Bắc Kinh và Đài Bắc phải hổ thẹn.

“Đống... đống đồ gốm này thành tinh rồi à?” Chung Ái Hoa lắp bắp hỏi.

“Ta tìm tiếp xem.”

Sang nhà hàng xóm, cảnh tượng cũng y hệt, vẫn là đồ gốm ngổn ngang đầy sân. Hơn nữa những thứ này đều lấm lem đất cát. Cạnh đống đồ gốm dựng một cái lều sơ sài bằng vải bạt và thanh gỗ, bên trong lổng chổng nào nồi sắt, que sắt, búa, mấy tờ giấy ráp và nửa thùng bùn khô. Nực cười nhất là ba bình sứ Thanh Hoa cỡ đại in hình nhân vật nào đó không nhìn rõ, đặt trong lều, bên trên kê tấm gỗ, vắt dăm bộ quần áo bẩn và lăn lóc mấy chiếc bánh bao cứng đanh, hẳn là được trưng dụng làm bàn làm ghế.

“Mấy thứ kia để làm gì thế?” Chung Ái Hoa hoa cả mắt.

“Nồi sắt để đun axit, que sắt và giấy ráp để mài mép, búa để tạo vết sứt mẻ, thùng nhựa kia đựng bùn để bôi lên. Đồ gốm ra lò, trước tiên phải ngâm axit, sau đó mài cho cũ, nếu cần còn phải làm sứt mẻ một góc, tạo thành món đồ không hoàn chỉnh. Xong xuôi thì bôi bùn lên, vùi vào đất hầm mộ để ủ, thế là lừa được phần lớn người mua. Thế nên chúng cần rất nhiều đất hầm mộ, phải chở từng xe tới đây.”

Chung Ái Hoa há hốc miệng, không sao tin nổi. Trong tưởng tượng của cậu ta, xưởng làm đồ giả phải là phòng thí nghiệm đầy máy móc khoa học tiên tiến, hoặc là nơi thâm sơn cùng cốc đầy vẻ cổ kính được truyền lại từ ngàn xưa, đâu ngờ lại là sân một nhà nông bình thường, còn dùng toàn những công cụ và biện pháp thô sơ.

“Những đồ gốm lưu hành ngoài chợ đều được làm giả thế này à?”

“Làm cũ.” Tôi cải chính.

“Chúng ngang nhiên phơi đầy đồ giả trong sân thế này không sợ bị sờ gáy sao?”

“Người ta không gọi làm giả, mà là làm hàng mỹ nghệ phỏng cổ.” Tôi nói vẻ chế nhạo, “Nhà nước đâu cấm nung đồ gốm, cũng đâu cấm làm cũ đồ gốm.”

“Nhưng nếu đem bán cho người khác chẳng phải là phạm pháp à?”

“Chú có thể hiểu đây là chợ đầu mối đổ buôn hàng giả. Những kẻ tới đây mua hàng đều giống tên Mắt Trố, không phải mua về dùng mà là để bán sang tay lừa gạt người ta. Chúng thực hiện giao dịch buôn bán hàng mỹ nghệ phỏng cổ hợp pháp tại đây, còn mua về làm gì thì không liên quan đến chợ này. Chú bảo cảnh sát quy vào tội gì mà bắt được?”

“Đúng là đê tiện.”

Chung Ái Hoa lẩm bẩm rồi gỡ máy ảnh ra, bắt đầu chụp tanh tách. Mặc cho cậu ta chụp, tôi chỉ đút tay túi quần, nhìn ra những căn nhà ngói đen ngòm dưới trăng, đăm chiêu suy nghĩ.

Trong sân các nhà quanh đây, có lẽ đều chất đầy đồ gốm. Chung Ái Hoa còn kinh ngạc, chứ tôi đã lường trước cả rồi. Nghề làm giả đâu phải gần đây mới có, những ngôi làng thế này ít ra cũng có thâm niên trăm năm làm đồ giả, còn là nghề gia truyền, nhà nào cũng có sở trường riêng. Làng Trịnh năm xưa của Trịnh Quốc Cừ chính là nơi chuyên làm giả đồ đồng, còn ngôi làng này hẳn là chuyên làm giả đồ gốm, hơn nữa không chỉ một nhà, mà cả làng cùng làm.

Tôi áng chừng đồ gốm trong sân hai nhà này đã lên đến vài trăm món, nếu gộp cả làng lại sẽ là một con số khổng lồ. Một lò gốm cá nhân không thể có sản lượng lớn thế được, nên trong làng nhất định còn có một phân xưởng lớn, đầy đủ cả dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh nào đá mài, phôi gốm, men tráng, lò nung, thậm chí có thể còn không phải là xưởng thủ công, mà đã được cơ giới hóa một nửa.

Gớm thật, đúng là một con cá lớn. Tôi xoa xoa cằm, lòng vui phơi phới.

Quy mô sản xuất lớn thế này, hẳn là một trong các căn cứ quan trọng của Lão Triều Phụng. Quy mô càng lớn thì càng khó giấu giếm, dễ lộ sơ hở. Muốn lần ra dấu vết của lão, hẳn cũng sẽ dễ hơn.

“Chung Ái Hoa!”

“Sao thế anh?”

“Tiết kiệm phim đi, chúng ta đi tìm xưởng sản xuất của chúng.”

Nghe vậy Chung Ái Hoa hết sức hào hứng, luôn miệng hỏi tìm bằng cách nào. Tôi giậm chân một cái cho bụi đường bốc lên rồi nói, “Đây có biển chỉ đường này.”

Chung Ái Hoa cúi xuống nhìn, dưới ánh trăng, thấy mặt đường quả thật có phần là lạ, nhưng lạ ở đâu thì cậu không nói ra được. Tôi ngồi xuống, dấp nước bọt vào đầu ngón tay quệt xuống đất rồi giơ lên nhìn kỹ. Đường sá ở đây đều là đường đất vàng, hễ mưa là lép nhép bùn lầy, nếu lại có xe đạp hoặc máy kéo chạy qua, sẽ càng gồ ghề mấp mô. Song bùn đất cạnh vết bánh xe lẫn những hạt đất li ti màu trắng, trông như rắc thìa đường kính vào bát tương vậy.

Tôi bèn gọi Chung Ái Hoa lại trỏ cho xem. Muốn rèn luyện cậu ta nên tôi không nói đáp án ngay, mà bảo cậu ta phân tích thử. Chung Ái Hoa rọi đèn flash nín lặng quan sát hồi lâu, đến nỗi chóp mũi cũng lấm tấm mồ hôi.

“Đặc trưng thổ nhưỡng vàng trắng đan xen này chỉ có quanh vết bánh xe, hơn nữa phần nhiều đều nằm trên bề mặt, chú nghĩ đến cái gì nào?” Tôi hỏi.

“Ừm... Đây có lẽ là bột phấn rơi ra trong quá trình vận chuyển.”

“Đúng, sân các nhà quanh đây đầy đồ gốm, vậy thứ bột phấn trắng ấy nói lên điều gì?”

Chung Ái Hoa vắt óc nghĩ một lúc lâu rồi ré lên, “Hóa ra chúng không những làm đồ giả, mà còn buôn ma túy à?”

“…”

Tôi chỉ muốn táng cho thằng này một cái, can tội đầu đất, song vẫn nén giận giải thích, “Trong giới đồ cổ có câu rằng, làm giả phải gần thật. Xưởng làm đồ giả thông thường đều ở quanh khu vực sản sinh ra đồ thật. Có vậy mới bảo đảm chất đất và điều kiện tự nhiên giống nhau để mô phỏng được ở mức độ cao nhất. Làng này làm đồ gốm, chứng tỏ gần đây phải có lò gốm cổ nổi danh nào đó để bảo đảm chất lượng hàng đồng nhất. Bước đầu tiên khi nung gốm là nghiền mịn cao lanh ra rồi lọc, rây thành bột, sau đó mới nặn thành phôi gốm. Khâu này sẽ sinh ra một lượng lớn bột phấn, bay khắp mọi nơi. Thế nên khi xưởng cho chở đồ gốm cần làm cũ tới đây, dọc đường khó tránh bột phấn vương vãi.”

“Nghĩa là chúng ta lần theo dấu bột sẽ tìm đến được xưởng gia công của chúng?”

“Chính xác.” Tôi nhìn theo con đường nhỏ dẫn vào sâu trong làng. Đêm nay trăng sáng, chỉ cần nhìn kỹ sẽ nhận ra dấu bột phấn rắc dọc đường.

“Tìm thấy xưởng gia công rồi, chúng ta phải đi ngay để tránh nguy hiểm.” Tôi dặn trước Chung Ái Hoa. Cậu ta hơi tồ nhưng không ngốc, liền tán thành ngay.

Hai chúng tôi lần theo dấu phấn vòng vèo qua hàng loạt ngõ hẻm trong làng, có lúc thậm chí còn phải bò lồm cồm dưới đất để nhìn cho rõ. Dưới ánh trăng bàng bạc, hai bóng người lom khom đi giữa hang cùng ngõ hẻm làng cổ âm u, trông cực kỳ rùng rợn.

Càng đi sâu điều tra, tôi càng thêm ngạc nhiên và mừng rỡ. Làng xóm thông thường đều là mạnh họ nào họ nấy làm, họ nào cũng có lò riêng, có ngón nghề riêng. Song hiện giờ các dấu hiệu thu được đều cho thấy làng này lại sản xuất tập trung, quản lý thống nhất, chứng tỏ họ đã bị một thế lực nào đó cưỡng chế hợp nhất, gộp chung mối thu mua và tiêu thụ, như thế hiệu suất sẽ càng cao. Có thể làm được như vậy, ngoài Minh Nhãn Mai Hoa ra, chỉ còn mình Lão Triều Phụng.

Tôi không hy vọng tìm được Lão Triều Phụng ở đây, nhưng cơ nghiệp lớn thế này, dù lão thận trọng đến đâu, cũng nhất định để lộ sơ sót. Đột nhập vào xưởng có nghĩa là tôi lại tiến gần mục tiêu thêm một bước.

Mò mẫm trong làng một lúc lâu, lại trải qua mấy phen mất dấu, đến hơn hai giờ sáng, chúng tôi mới tìm được xưởng gia công.

Xưởng nằm trên đường nối dài với con sông nhỏ ở mé Đông làng, nhìn từ xa như một khoảnh đất hoang, tới gần mới nhận ra là vùng trũng, hình dạng như con thoi, hẹp và cao dần về phía Đông, tới khi ngang bằng mặt đất thì nối liền luôn với một góc làng. Các công trình xây dựng ở đây đều một mình một kiểu riêng. Xa nhất là mỏ khai thác đất dựa lưng vào núi, có lẽ đất sét để làm đồ gốm đều được lấy từ đây, còn có một hồ nước trong vắt vuông vắn, càng củng cố thêm suy đoán nơi này gần lò gốm nổi tiếng của tôi. Ngay sát chỗ khai thác đất là mười mấy gian nhà mái bằng, nằm xen kẽ, cách nhau không xa, mấy căn quây lại thành một khoảnh sân, trong sân rất nhiều máy móc và nguyên vật liệu chất đống. Tiếp theo là chừng mười lò bánh bao, mang tên bánh bao song thực ra kiểu lò có mái vòm và xây gạch bao quanh như vậy giống nấm mồ hơn, khác chăng là phía sau trổ thêm một ống khói, giờ vẫn đang ùng ục nhả khói.

Mấy gian nhà cạnh lò gốm vẫn sáng đèn, hẳn là có người trực đêm. Đi ra vòng ngoài là mấy nhà kho rộng và một bãi đậu xe, ấy là chưa kể những kho hàng lộ thiên, đá và màu men chồng chất, thậm chí có cả một sân bóng rổ. Khu vực này thoạt trông tưởng như thuộc về làng, thực ra lại riêng rẽ, các công trình chức năng đầy đủ, quy hoạch gọn gàng, chẳng khác nào một khu công nghiệp thu nhỏ.

Ở chỗ giáp ranh với làng có một ngôi nhà hai tầng, trông rất mới, trước cửa treo tấm biển đề “Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu”. Thoạt nhìn qua, tôi đã vỡ lẽ.

Thì ra đây là Thuận Châu, thảo nào.

Tôi vẫn nghi ngờ nơi này phải gần một vùng gốm nổi danh nào đó, xem ra chủ yếu bọn chúng làm giả gốm Nhữ!

Nghe người họ Dược của Huyền môn nói, nhà nước vẫn luôn có chính sách chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật làm đồ gốm. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã cho thành lập viện nghiên cứu tại các vùng gốm có tiếng, chuyên nghiên cứu phục dựng các sản phẩm gốm cổ. Gốm Nhữ đứng đầu trong năm loại gốm danh tiếng, cực kỳ quý giá, có câu “gia tài vạn quan chẳng bằng một mảnh gốm Nhữ”, nên đã trở thành mục tiêu nghiên cứu trọng điểm. Nếu tôi nhớ không lầm, năm 1958, một xưởng gốm Nhữ ở Nhữ Châu đã nung được một mẻ gốm Nhữ phỏng cổ, đến năm 1983 thậm chí còn làm ra được men thiên thanh, không kém gì gốm đời Tống. Từ sau cải cách mở cửa, những kỹ thuật này truyền ra dân gian, trở thành kỹ thuật bổ trợ cho việc làm hàng giả.

Thuận Châu nằm cạnh Nhữ Châu, chất đất gần giống nhau, đồ gốm nơi này thường cố tình nhận là gốm Nhữ. Làng này có lẽ thuộc phạm vi Thuận Châu, nên mới núp dưới danh nghĩa viện nghiên cứu gốm Nhữ, giương cao ngọn cờ hợp pháp để ngang nhiên làm hàng giả.

Chẳng biết đám sưu tầm hễ nghe nhắc đến gốm Nhữ là sáng mắt lên, gặp cảnh tượng này sẽ cảm thấy thế nào.

“Được rồi, rút thôi.” Tôi nói.

Phải biết rằng cả làng này cùng làm đồ giả, nhất định sẽ hết sức cảnh giác, không dễ để người ngoài bén mảng. Một khi trời sáng, hai kẻ lạ mặt chúng tôi sẽ bị dân làng phát hiện ngay. Dân Hà Nam hung hãn, lại liên quan đến lợi ích sinh tồn, có khi chúng tôi chẳng còn toàn mạng ấy chứ.

Lần này tôi đến Trịnh Châu đã thu hoạch vượt mức rồi. Bằng chứng về xưởng làm đồ giả này còn sát thực hơn Công ty Tân Trịnh Đồ Lương nhiều. Công ty che mắt kia bỏ của chạy lấy người rất dễ, nhưng làng xóm và nhà xưởng thì chẳng chạy đi đâu được. Sau khi quay về tôi có thể dẫn người của Minh Nhãn Mai Hoa và cảnh sát trở lại, bây giờ chẳng cần mạo hiểm làm gì.

Chung Ái Hoa giơ máy ảnh lên rồi lại hạ xuống, nói rằng chỗ này cách xưởng quá xa, đèn flash cũng không có hiệu quả, muốn lại gần hơn để chụp. Tôi hơi lo, sợ tay trực ban kia phát hiện, nhưng thấy Chung Ái Hoa đã lom khom đi về phía nhà xưởng, tôi chẳng dám gọi to, đành thở dài bám theo.

May sao Chung Ái Hoa không ngốc đến nỗi lẻn vào theo cổng chính, mà đi đường vòng, men theo con sông. Hai chúng tôi khom người nín thở rón rén đi, như bộ đội chui vào hầm trú ẩn ngày xưa vậy. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã leo lên một ngọn đồi nhỏ cạnh con sông, bên kia chân đồi chính là dãy lò bánh bao lớn có nhỏ có.

Xưởng sản xuất này của Lão Triều Phụng tuy núp bóng Viện nghiên cứu gốm Nhữ nhưng lại làm hàng giả phân phối toàn quốc, đồ loại nào thời nào cũng có, nên cách nung cũng khác nhau. Sức nóng của những lò bánh bao này thông thường vào khoảng một nghìn ba trăm độ, dù vách lò dày, hơi nóng vẫn tỏa ra xung quanh hầm hập, con người không thể quanh quẩn bên cạnh lâu được. Lẻn vào xưởng qua lối này là an toàn nhất.

Tôi thò đầu ra nhìn, thấy bên dưới không có ai, bèn ra hiệu cho Chung Ái Hoa. Gò đất này không cao lắm, nhưng rất dốc. Hai chúng tôi bám cỏ tranh trên triền dốc, đặt chân vào những chỗ lõm, khẽ khàng tụt xuống. Được nửa đường, Chung Ái Hoa thình lình trượt chân, máy ảnh đeo trên cổ đu đưa, cả người chới với. Tôi vươn tay giữ cậu ta lại theo phản xạ, kết quả cả hai đều mất thăng bằng, lăn lông lốc xuống dưới.

Thực ra chúng tôi chẳng còn cách mặt đất bao xa, ngã xuống cũng không chết được. Nhưng trong lúc ngã tôi vô tình nhìn xuống, buột miệng hét lên cái đệt! Thì ra nơi này nằm sát bên cạnh lò gốm, còn giăng bốn năm giá gỗ phơi đầy đồ gốm chờ nguội bớt, la liệt đủ hình dáng kích cỡ. Hai chúng tôi rơi vào giữa đống đồ gốm, chẳng khác nào hai con bò điên xông vào tiệm gương, lập tức xô ngã núi vàng, hất đổ cột ngọc, giá gỗ đổ sập, vô số bát sứ, bình sứ, lọ sứ, chén sứ, ly sứ vỡ loảng xoảng. Nếu tất cả đều là hàng thật, e rằng tổn thất kinh tế tôi gây ra đã đủ mua cả vùng đất rộng bằng một tỉnh rồi...

Tiếng đổ vỡ chẳng khác nào tràng pháo giữa đêm, tức thì mấy căn nhà xa xa đồng loạt sáng đèn, bóng người thấp thoáng, còn nghe văng vẳng tiếng chó sủa. Tôi và Chung Ái Hoa dáo dác tìm đường chuồn, song xung quanh trống trải, trừ chui vào lò gốm hơn nghìn độ ra thì chẳng còn chỗ nào để nấp cả.

Tôi thầm hối hận, nếu rút lui ngay lúc ở trong làng thì đâu tới nông nỗi này. Muôn nghìn dặn lòng nhủ bụng, vẫn không thắng được thói tham lam. Mặt Chung Ái Hoa cắt không còn hột máu, là phóng viên bản xứ, cậu ta biết rõ dân nơi này hung hãn nhường nào, lại dính đến lợi ích bản thân, bọn chúng có giết người diệt khẩu cũng chẳng lạ.

Hai chúng tôi lặng đi chừng mười giây, Chung Ái Hoa bỗng nhét máy ảnh vào tay tôi rồi nói, “Anh cầm máy ảnh trốn vào nhà kia đi. Đằng đó không bật đèn, chắc là không có ai.”

Đối diện cửa lò gốm, cách chừng 50 mét là dãy tường bao thấp, hai cánh cổng gỗ mở toang, bên trong là nhà gạch mái bằng, tối om. Tôi lắc đầu, “Xưởng này rộng như thế, nấp vào đó chẳng phải để chúng bắt ba ba trong rọ ư?” Chung Ái Hoa thuyết phục, “Chúng không biết anh em mình có hai người. Anh trốn vào đó, em chạy ra ngoài, chắc chắn chúng sẽ đuổi theo em, không soát nhà đâu.”

“Đợi đã, ý chú bảo chú định chạy đi làm mồi nhử hả?” Tôi suýt kêu lên thành tiếng.

Chung Ái Hoa nhớn nhác nhìn sang phía đám người đang chạy đến, vội vàng nói, “Anh Nguyện, em là người vùng này, còn có thẻ phóng viên, chúng sẽ không làm gì quá đáng đâu. Nhưng anh không thể gặp bất trắc được!”

“Chuyện này quyết không thể được!”

“Em biết bơi, có thể nhảy xuống sông chuồn đi. Anh còn dùng dằng nữa thì chúng mình chết cả nút đấy!”

Chung Ái Hoa quát lên, xô tôi về phía căn nhà kia rồi quay người chạy theo hướng ngược lại, vừa chạy vừa cố ý đá đổ các đồ gốm sứ vỡ loảng xoảng. Tôi nhìn theo bóng cậu ta, vành mắt nóng rực. Đến nước này, tôi cũng đành tin lời cậu ta, vội vã khoác máy ảnh lên, núp bóng các lò gốm mà chạy. Xộc qua cửa gỗ, vào đến sân, tôi mới thấy nơi này trừ căn nhà gạch rộng rãi giữa sân ra, bốn bề đều là tường bao, chỉ có duy nhất một lối vào. Mà cửa vào lại nhìn thẳng ra lò gốm, bất cứ ai đứng đó nhìn sang cũng có thể quan sát được động tĩnh trong sân. Tôi chẳng dám nấn ná lâu, vừa mò được tay nắm cửa lập tức xoay nhẹ, thấy cửa không khóa, vội hé cửa lẻn vào rồi sập ngay lại.

Căn nhà này nằm sấp bóng, ánh trăng không soi vào được. Tôi vừa đóng cửa, trong nhà đã lại tối om. Tôi chẳng nhìn thấy gì, lại không dám mở đèn flash, đành thở hồng hộc giơ hai tay ra dò dẫm tìm đường. Chợt nghe “keng” một tiếng, chân đụng phải bát sứ hoặc đồ đạc gì đó, làm tôi giật bắn mình, đứng đờ ra tại chỗ không dám động đậy, chỉ sợ người bên ngoài phát hiện.

Nghe âm vọng của tiếng “keng” mà suy thì căn nhà này trần rất cao, diện tích cũng rộng, thậm chí có thể nói là thênh thang. Tôi đứng bất động trong bóng tối, thị giác hoàn toàn vô dụng, nhưng các giác quan khác lại trở nên nhạy bén lạ thường. Tôi nhắm nghiền mắt lại, bắt đầu cảm nhận. Tai tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng hô hoán và tiếng sành sứ đổ vỡ, cùng tiếng nhịp tim mình đã dần bình ổn lại; mũi tôi ngửi thấy một mùi thoang thoảng trong không khí; thậm chí tôi còn cảm giác được da hơi ngưa ngứa, đó là do tác động của luồng khí lưu chuyển trong phòng.

Thình lình một giọng nữ nhẹ bẫng cất lên sau lưng, khiến da đầu tôi bất giác tê rần, “Ai đó?”

Tôi sởn cả tóc gáy, vội quay lại, nhưng tối như hũ nút đâu thấy được gì. Chỉ nghe loạt soạt như tiếng chân phụ nữ, lại cũng giống rắn bò qua bụi cỏ, còn có tiếng leng keng khe khẽ, tôi giơ máy ảnh lên, nơm nớp nhìn quanh. Ít ra cầm chiếc máy nặng trịch trong tay, tôi cũng vững dạ hơn. Đúng lúc này giọng nói kia lại vang lên, lần này đã ở một vị trí khác, “Đừng sợ, cậu bỏ thứ trong tay xuống đi đã.”

Tôi thầm thở phào, nhưng ngay sau đó đã thấy không ổn. Căn phòng này tối om, người bình thường sao có thể thấy động tác của tôi được? Trừ phi kẻ kia không phải... Vừa nghĩ đến chuyện kẻ kia đang bay lơ lửng sau lưng, cúi xuống nhìn chằm chằm vào mình, tôi đã sởn cả gai ốc. Tuy là người duy vật, nhưng gặp phải tình cảnh này, tôi cũng không thể không sợ hãi.

“Tôi chỉ đi ngang qua đây, không có ác ý đâu. Nếu có oan khuất gì cứ nói với tôi, có tâm nguyện gì tôi cũng sẽ giúp.” Tôi lắp bắp, tay vẫn giữ khư khư máy ảnh, mồ hôi lạnh túa ra đầy lưng. Hai chúng tôi giữ thế giằng co một lúc thì bên ngoài vang lên tiếng đập cửa, còn có tiếng gọi, nghe rõ mồn một giữa đêm. Tim tôi lại hụt mất nửa nhịp, nếu đám người kia mở cửa ra, tôi sẽ bị tóm ngay tại trận, đến cơ hội chạy cũng chẳng có. Đúng là đã nghèo còn mắc cái eo, trước sói sau hổ, phải làm sao đây?

Tôi đang trù trừ chưa quyết thì giọng nữ kia lại vang lên bên tai, “Nghe giọng hình như cậu không phải người làng Thành Tế?” Tôi thầm nghĩ hóa ra làng này tên Thành Tế, rồi gật đầu lia lịa. Kẻ kia lại hỏi, “Họ đang đuổi bắt cậu à?” Tôi lại gật đầu. Đột nhiên một bàn tay đặt lên vai tôi, may mà còn âm ấm chứ không lạnh toát, là hơi ấm của con người, “Không muốn bị bắt thì bước lên ba bước.”

Nếu là ma chắc chẳng hơi đâu để ý đến giọng tôi. Tôi bất giác thở phào, quyết định đánh liều tin kẻ kia một lần, dù sao cũng chẳng thể tệ hơn được nữa, bèn bước lên ba bước. Lại nghe giọng nọ nói, “Rẽ phải bốn bước, rồi rẽ trái hai bước, ngồi xuống.”

Đến nước này đành trông vào vận may thôi. Tôi răm rắp theo lời ngồi thụp xuống, hai tay mò mẫm xung quanh, sờ thấy mấy chiếc bình chiếc bát lớn nhỏ lộn xộn, cảm giác hơi ram ráp, như chưa được tráng men vậy. Giờ tôi mới hiểu kẻ nọ bảo mình đi như thế là để tránh đống bán thành phẩm la liệt trong nhà.

Quy trình làm đồ gốm trước tiên là thái đất sét thành từng thanh dài sau đó nặn, nén, chuốt thành hình dạng nhất định, gọi là xương gốm hoặc phôi gốm. Phôi gốm phơi cho thật khô, trang trí tráng men lên, rồi đưa vào lò nung. Trong nhà nhiều phôi gốm như vậy, hẳn là nơi trang trí và tráng men, nhưng tối thế này sao người phụ nữ kia nhìn thấy được mà làm?

Đột nhiên cánh cửa ken két hé ra một nửa, ánh sáng lờ mờ chiếu vào, rọi đúng chỗ tôi đứng vừa nãy. Tôi nheo mắt thấy bóng một phụ nữ đứng trước cửa, vừa gầy vừa bé, lưng còng gập xuống, xem chừng cũng đã có tuổi. Mấy gã thanh niên mặc đồ rằn ri ùa vào, lễ phép hỏi, “Chị Tố, vừa rồi có nghe thấy gì không?”

Người phụ nữ được gọi là chị Tố thản nhiên đáp, “Nghe tiếng ai đó đá vỡ đồ sứ, rồi chạy về phía kia.” Bà ta trỏ hướng Chung Ái Hoa bỏ chạy.

“Bọn em cử người đuổi theo rồi, chỗ chị không có chuyện gì chứ?”

“Không đâu, có trộm à?” Chị Tố dấn lên một bước, chắn luôn tầm nhìn giữa tôi và chúng.

“Ai biết được, nửa đêm nửa hôm cũng chẳng để người ta yên. Chị Tố khóa kỹ cửa vào. Thằng Trụ, mày bật hết đèn lên cho tao, phải bắt cho được đồ chó ấy!” Tên nọ oang oang ra lệnh rồi gọi những kẻ kia đi.

Cửa lại đóng vào, lần này tôi nghe rõ tiếng chân bà ta đi đến, rồi dừng lại rất gần mình. Tiếng chân ấy khá đặc biệt, chậm rãi mà đứt quãng, hơi giống cách đi của các bà các cô bó chân thời xưa.

Lúc này bên ngoài tạch tạch mấy tiếng rồi đèn cả khu xưởng bật hết lên, bốn bề sáng rực như ban ngày. Căn nhà này chỉ có một cửa sổ, nhờ ánh sáng hắt vào, tôi mới nhìn rõ được gương mặt chị Tố. Là một bà lão, tướng mạo bình thường, song trên mặt không hề thấy nếp nhăn, chỉ hiềm sắc mặt trắng bệch phát sợ. Mái tóc bà ta chải gọn gàng, quấn trong khăn vuông, người mặc áo dài tay bằng sợi tổng hợp, tuy đã cũ nhưng được giặt sạch sẽ, hai cánh tay còn đeo ống tay bằng vải hoa nhí.

Quanh chị Tố, tôi thấy la liệt những phôi gốm, cạnh đó còn mấy giá gỗ bày đầy bán thành phẩm mới được vẽ màu hoặc chưa vẽ màu. Đầu kia giá kê một chiếc ghế và một bàn làm việc, trên bàn có mười mấy ô sắt tây, đựng đủ loại phẩm màu, mỗi màu một ô, sắp thành hàng, ngay ngắn như màu vẽ trong hộp. Quả như tôi đoán, đây là nơi vẽ trang trí phôi gốm.

Bà già này nửa đêm không ngủ, một mình ở trong phòng, chẳng biết định làm gì.

“Sao bà không nộp tôi ra?” Tôi tò mò hỏi. Hành vi của chị Tố hết sức lạ lùng. Vừa rồi hai chúng tôi đứng trong bóng tối, đến mặt còn chưa thấy, chỉ nói được hai câu, sao bà ta lại bao che cho một kẻ lai lịch bất minh nửa đêm đột nhập?

“Tôi nhớ vừa rồi cậu nói sẽ giúp tôi rửa oan và hoàn thành tâm nguyện.” Giọng chị Tố cứ đều đều không lên không xuống, chẳng bợn mảy may sắc thái tình cảm, như canh rau cải không nêm mắm muối vậy.

Tôi ngượng ngập gãi đầu, “Lúc ấy tôi sợ quá nên nói lung tung, bà đừng để ý.” Chị Tố lại tiếp, “Một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi.” Giọng bà ta đều đều, khiến tôi không đoán nổi bà đang chế giễu mình hay thực sự tin vào những lời kia, đành hỏi, “Bà không sợ tôi là kẻ xấu à?”

“Cậu nói giọng Bắc Kinh. Một người từ Bắc Kinh chẳng nề vượt ngàn dặm xa xôi đến làng này, nhất định phải có mục đích, hơn nữa còn là mục đích không tầm thường. Tôi chẳng biết cậu là người tốt hay xấu, chỉ cần cậu gây khó dễ cho làng Thành Tế này là đủ.”

Phải thừa nhận rằng tư duy của bà lão này rất rõ ràng mạch lạc, chỉ nghe giọng mà đoán ra được bao nhiêu chuyện. Tôi quan sát kỹ gương mặt bà ta, cảm thấy trong vẻ bình thản phảng phất nét gì đó kỳ lạ, nhưng không sao nói rõ được lạ ở đâu.

“Vậy bà muốn tôi giúp rửa oan chuyện gì?” Tôi đánh bạo hỏi. Song bà ta không đáp lời, mà hỏi vặn lại, “Cậu giải thích vì sao lại lẻn vào đây trước đã?” Tôi nghĩ ngợi giây lát, quyết định giấu chuyện Lão Triều Phụng đi, chỉ nói là phóng viên ở Bắc Kinh, cùng Chung Ái Hoa tới điều tra về xưởng làm giả đồ cổ. Chị Tố thản nhiên nhận xét, “Tôi nghe ra được cậu đang nói dối.” Tôi chẳng biết mình sơ hở ở chỗ nào, đành lúng túng nín lặng. Bỗng bà ta lại nói, “Tôi và cậu bèo nước gặp nhau, không biết ngọn nguồn, quả thực không nên dốc lòng nói thực. Thôi được, tôi kể chuyện của mình trước thì hơn.”

Vừa nói, chị Tố vừa chậm rãi ngồi xuống trước bàn làm việc, cầm một phôi gốm trên giá bên cạnh lên. Đó là một chiếc bát nhỏ, còn chưa tráng men. Bốn ngón tay trái chị Tố giữ đáy, xoay một vòng, tay phải cầm lấy cây bút cạnh ô màu hồng nhạt, nhúng đẫm màu rồi vẽ lên bát. Động tác của bà ta cực kỳ điêu luyện, cổ tay khẽ rung, nháy mắt đã thấy trên bát hiện ra mấy đóa hàn mai. Cuối cùng bà ta đặt chiếc bát xuống tấm ván gỗ để những thứ đã hoàn công bên phải, cả quá trình chỉ hơn một phút.

“Thế nào?” Chị Tố hỏi.

“Thật hiếm thấy ai chấm được toái mai một mạch như thế.” Tôi thán phục thốt lên.

Vừa rồi bà ta đã vẽ toái mai, một trong những hoa văn trang trí đồ gốm rất khó vẽ. Mẫu đơn, chuối, sen, cúc v.v... đều có cánh to lá rộng, chỉ riêng hoa mai là cánh nhỏ li ti, khó vẽ; hơn nữa màu vẽ lên gốm thường nặng mà dính, chỉ cần đưa bút hơi chậm, màu sẽ bị đọng thành mảng. Bởi vậy chỉ cần nhìn hoa mai trang trí có thể thấy rõ bút lực tinh tế đến mức độ nào. Có câu kẻ vụng vẽ mai, kẻ khéo chấm mai, chỉ khác một chữ, song cảnh giới đã khác xa nhau. Muốn xem nghề vẽ của một người, cứ bảo người đó vẽ hoa mai là biết.

Phòng này tranh tối tranh sáng, bà ta lại đã ngoài sáu mươi, vậy mà vẫn đưa bút thoăn thoắt, có thể liệt vào hàng cực khéo.

Nghe tôi nói vậy, chị Tố thoáng ngạc nhiên, “Ồ, xem chừng cậu cũng am hiểu về đồ gốm đấy.” Nói tới đây, bà ta lại gật đầu, như vừa nghĩ ra, “Nửa đêm dám xông vào xưởng làm gốm, dĩ nhiên phải hiểu biết ít nhiều rồi.” Tôi lễ phép đáp, “Chỉ là chút kiến thức sơ sơ, đâu đáng lọt mắt bậc thầy như bà.”

“Đâu đáng lọt mắt à? Quả thực cậu làm gì cũng chẳng lọt mắt tôi được đâu.”

Đoạn bà ta từ từ quay sang, mở to mắt. Tôi đờ ra như bị sét đánh trúng, dưới ánh sáng lờ mờ, tôi vẫn nhận ra đôi con ngươi bà ta trắng đục, hoàn toàn vô thần.

Hóa ra chị Tố là một người mù cả hai mắt!

Thảo nào trong phòng tối om, chẳng cần bật đèn mà bà ta vẫn “trông thấy” mọi động tác của tôi. Thực ra bà ta không nhìn, mà là nghe.

Nhưng tôi thực không sao tin được thủ pháp vẽ hoa thuần thục tinh xảo vừa rồi lại do một người mù thực hiện.

Nên biết rằng người mù vẽ tranh chẳng lấy gì làm hiếm, nhưng vẽ hoa lên gốm lại là chuyện khác. Phôi gốm lập thể không giống mặt giấy Tuyên phẳng lì, bút vẽ cũng không giống bút lông bình thường, chất liệu men gốm lại càng khác mực. Vẽ trên men và vẽ dưới men là hai thủ pháp khác nhau, phối hoa văn, điều chỉnh độ uốn khúc thế nào, lên màu ra sao, đều phải tính trước khi cầm bút vẽ, tới lúc vẽ lại phải liên tục điều chỉnh.

Một người mù có thể thực hiện những điều này, chứng tỏ bà ta phải am hiểu về nghề vẽ và đồ gốm sứ đến đâu?

Thấy tôi lặng thinh hồi lâu, chị Tố lại cầm một chiếc lọ cao cổ lên, xoay mấy vòng trong tay để nhận rõ hình dạng rồi vung bút vẽ, chỉ nháy mắt, một bức hạc và tùng đã hiện ra. Thợ bình thường vẽ lên bình hoặc lọ đều đưa từng nét, vậy mà chị Tố múa bút cực nhanh, không ngừng lấy một giây, tựa như đã làm việc này cả trăm nghìn lần, quá đỗi thành thạo, thực là tuyệt kỹ.

“Tôi đã ở Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu mấy chục năm, chỉ chuyên tâm nghiên cứu về hoa văn trên đồ gốm. Cậu làm đi làm lại một việc mấy chục năm, có muốn quên cũng khó. Ông bán dầu* nói thế nào nhỉ? Chẳng qua là quen tay thôi.”

Vừa nói, chị Tố vừa dừng bút đặt bình sang một bên, phong thái cao thâm khó dò, song vẻ mặt chẳng mảy may tự hào, trái lại còn đượm phần chua chát. Tôi kinh ngạc đến mức nói không ra lời, thực chẳng ngờ lại gặp một bậc quốc thủ như thế ở đây.

“Hoa văn trên những đồ gốm sứ phỏng cổ trình độ cao ở đây đều do bà vẽ ư?”

Chị Tố chậm rãi đáp, “Tất cả những đơn đặt hàng đồ phỏng cổ trình độ cao ở làng này đều được đưa đến chỗ tôi. Tôi không quan tâm họ nung hay tráng men ra sao, nhưng riêng về hoa văn trang trí, tôi tự tin có thể mô phỏng đến mức không còn sơ hở. Lúc cậu lẻn vào, tôi đang làm việc đấy.”

Thảo nào nửa đêm nửa hôm bà ta còn ngồi bên bàn làm việc. Với người mù thì ngày và đêm chẳng có gì khác biệt, chưa chừng đêm khuya yên tĩnh, bà ta còn dễ làm hơn. Nghĩ tới đây, tôi khẽ thở hắt ra, rũ vai xuống. Trước đây tôi đã đoán trong xưởng làm giả thế này ắt phải có cao nhân trấn giữ. Giờ xem ra báu vật giữ làng của làng Thành Tế là chị Tố này đây, hèn chi mấy tên kia lễ phép với bà ta như vậy.

Song tôi lại càng lúc càng thêm ngờ vực. Trình độ của chị Tố đã đạt đến hạng danh gia hàng đầu trong cả nước, đi tới đâu cũng sẽ được kính trọng như quốc bảo, sao lại cam lòng chui rúc trong cái xó này làm mấy món đồ giả vớ vẩn? Tuy chị Tố mù mắt, song lại như đọc được ý nghĩ của tôi, bèn rời bàn làm việc, đi qua đi lại mấy bước.

Nghe thấy tiếng lanh canh khe khẽ, tôi cúi đầu nhìn mới thấy hai mắt cá chân chị Tố tròng hai chiếc xiềng sắt, loại chuyên dùng trong trại giam. Đừng nói chị Tố, dù là một người đàn ông đang độ tráng niên bị đeo xiềng như vậy cũng không cất bước nổi, chỉ có thể lê từng bước như bà già bó chân mà thôi. Tôi kinh hoàng đứng phắt dậy, “Chẳng lẽ... bà bị giam ở đây ư? Sao lại thế?”

Bà ta kéo theo xiềng đi đến trước song cửa, áp trán vào cửa kính, thản nhiên đáp, “Người vốn vô tội, phải tội mang ngọc thôi.”

Nghe vậy, tôi hiểu ra ngay. Giam những thợ khéo có kỳ tài ở nơi kín đáo suốt đời, buộc họ làm việc cho mình vốn chẳng hiếm ở xã hội cũ. Nhưng đã giải phóng bao nhiêu năm rồi vẫn có kẻ to gan giam giữ người trái phép thế này! Hễ nghĩ tới việc một bậc thầy về hoa văn trang trí lại bị giam trong căn nhà tối tăm này, phải vẽ hoa văn lên đồ giả cho chúng, tôi lại thấy máu nóng bốc lên đầu.

“Giờ là thời đại nào rồi còn có kẻ dám làm vậy! Đây là phạm pháp! Sao chúng dám làm thế?”

Chị Tố lên tiếng, “Cậu có thấy mấy kẻ vừa rồi không? Tuy chúng kính cẩn với tôi, nhưng không cho phép tôi bước ra khỏi xưởng nửa bước. Khi nãy chúng tới gõ cửa là để xác nhận xem tôi còn ở trong này không đó thôi.”

Tôi lặng đi, thầm nghĩ ai có được bậc quốc thủ thế này đều sẽ canh giữ nghiêm ngặt, không để lọt mảy may tin tức ra ngoài cả thôi. Thấy tôi làm thinh, chị Tố lộ vẻ cay đắng, “Thế nên chắc cậu cũng hiểu vì sao tôi lại giúp một kẻ đột nhập không rõ lai lịch rồi chứ. Tôi chẳng còn lựa chọn nào cả, có lẽ đây là cơ hội duy nhất của tôi.”

Cuối cùng tôi cũng hiểu ra, lúc đầu chị Tố hỏi tôi có thể rửa oan, hoàn thành nguyện vọng cho bà ta không, hoàn toàn không phải nói đùa. Bà già này đã coi tôi là chiếc cọc duy nhất mà bà ta vớ được trong cơn tuyệt vọng. Nhiệt huyết bốc lên, tôi vỗ ngực cam đoan, “Bà yên tâm! Tôi sẽ không khoanh tay đứng nhìn đâu, nhất định phải cứu bà ra khỏi đây!”

Chị Tố lắc đầu, “Tôi từng này tuổi rồi, không đi nổi nữa, chỉ mong cậu đưa tin ra ngoài giúp là đủ rồi.” Suy nghĩ lóe lên trong đầu, tôi sực nghĩ ra một chuyện, vội hỏi, “Ai nhốt bà ở đây vậy?”

Chị Tố đáp, “Tôi vốn là chuyên gia về hoa văn trang trí ở Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu. Đến tuổi về hưu, lãnh đạo viện giới thiệu với tôi một người, nghe nói là lão tiền bối trong giới cổ vật. Ông ta nói muốn phục hưng gốm Nhữ, xây dựng xưởng sản xuất, tha thiết mời tôi tới làm việc, chỉ đạo đám thanh niên, phát huy năng lực. Tôi không ngờ là lừa đảo, bị lão ta gạt đến đây, không đi được nữa.”

“Bà có biết lão là ai không?”

“Tôi mù mắt, không trông thấy mặt mũi lão, chỉ biết lão tự xưng là...”

“... Lão Triều Phụng!” Tôi căng thẳng tiếp lời bà ta.

Chị Tố bình tĩnh như vậy mà nghe thế cũng sững ra, “Cậu... Sao cậu biết cái tên đó?” Rồi chẳng đợi tôi trả lời, bà ta đã hiểu ra ngay, “Cậu đến từ Bắc Kinh, lẽ nào là...”

“Đúng, tôi là người trong Minh Nhãn Mai Hoa.” Tôi đáp khẽ.

Tin rằng chị Tố đã nghiên cứu về đồ gốm sứ, hẳn cũng biết tới Minh Nhãn Mai Hoa. Quả nhiên tay chị Tố run lên, sau đó bà ta hỏi, “Dược Lai là gì của cậu?” Dược Lai là chưởng môn Huyền môn, chuyên về đồ gốm, chị Tố nghe nói đến Minh Nhãn Mai Hoa, dĩ nhiên phải hỏi tới ông ta trước tiên.

Tiếc rằng Dược Lai đã qua đời, tôi cũng chẳng muốn kể rõ, bèn đáp ông ta là bề trên.

“Vậy cậu là người nhà nào? Hoàng Khắc Vũ? Lưu Nhất Minh? hay Thẩm Vân Sâm?”

Chẳng ngờ bà ta hiểu rõ về Minh Nhãn Mai Hoa như vậy, song tôi nhất nhất phủ nhận. Chị Tố ngạc nhiên, “Minh Nhãn Mai Hoa tổng cộng có bốn nhà, rốt cuộc cậu là người nhà nào?”

“Tôi họ Hứa, tên là Hứa Nguyện.”

“Ồ, nhà họ Hứa. Thì ra họ đã quay lại rồi...”

Chị Tố cảm thán, rồi không hỏi thêm nữa. Cũng dễ hiểu thôi, một người bị giam cầm bấy nhiêu năm, điều quan tâm nhất là cảnh ngộ trước mắt, chứ hơi đâu hỏi han chuyện nhà kẻ bắn đại bác mấy tầm chẳng tới. Bà ta phủi nhẹ đầu gối, lẩm bẩm, “Nhà họ Hứa cũng tốt, dù sao đều là Minh Nhãn Mai Hoa, tốt quá, tốt quá rồi. Nói vậy là Minh Nhãn Mai Hoa cuối cùng đã đối đầu với Lão Triều Phụng rồi sao?”

“Đúng thế, chúng tôi khó khăn lắm mới điều tra ra được làng Thành Tế, lão có ở đây không?” Tôi hỏi dồn.

“Cậu điều tra được đến đây cũng là giỏi rồi. Tiếc rằng nơi này tuy là sản nghiệp của lão, nhưng cả năm chưa chắc lão đã tới một lần.”

“Vậy chắc lão phải có tay chân, phải có người thay lão cai quản xưởng gốm này chứ?”

Chị Tố không đáp mà lê xiềng đi đến cửa, thận trọng lắng tai nghe ngóng. Lúc này công xưởng bắt đầu lục tục tắt đèn, chẳng biết là bắt được người rồi hay đã bỏ cuộc, gian nhà lại chìm trong bóng tối. Sau khi xác định xung quanh không còn ai cả, chị Tố mới vòng lại, hạ giọng nói, “Nếu cậu chỉ là hạng trộm cắp bình thường thì tôi định biếu cậu mấy món gốm thật, đổi lại sẽ nhờ cậu báo cảnh sát. Nhưng cậu đã là người của Minh Nhãn Mai Hoa, lại đến tìm Lão Triều Phụng thì khác. Tôi hỏi câu này đã, cậu tìm lão ta làm gì?”

“Lôi lão ra trước công lý, khiến lão thân bại danh liệt.” Tôi đáp không chút do dự, gần như rít lên căm hận.

Chị Tố nói, “Lão Triều Phụng hết sức xảo quyệt, nếu cậu muốn điều tra từ làng Thành Tế này thì khó lắm.” Thấy tôi thất vọng thở dài, bà ta xua tay, nói chậm lại, gương mặt tươi hẳn lên vì sắp báo được thù, “Có điều tôi biết vài bí mật liên quan tới lão. Những chuyện này tôi giữ trong lòng cũng chỉ tổ thối rữa ra thôi, song nếu rơi vào tay cậu, có lẽ sẽ trở thành dao sắc đâm trúng tử huyệt của lão.”

Nghe bà ta nói vậy, tôi phấn khởi vô cùng, chăm chú dỏng tai lắng nghe. Nhưng chị Tố chưa vội nói, mà quay lại ngồi xuống ghế, cầm một món đồ gốm lên, thong dong mà thành thạo trang trí cho nó. Tôi cảm thấy bà thực sự yêu thích nghề này, coi nó là sinh mệnh, là nơi gửi gắm tâm tư, bằng không đã chẳng chịu đựng được lâu đến thế trong cảnh bị giam cầm uy hiếp thế này.

Chị Tố thoắt cái đã lại vẽ xong một món, chậm rãi hỏi, “Cậu có biết Thanh minh thượng hà đồ không?”

Câu này dễ quá, Thanh minh thượng hà đồ là bức tranh khổ lớn về phong cảnh Biện Lương do Trương Trạch Đoan thời Bắc Tống vẽ, miêu tả chi tiết cảnh phố phường ở kinh đô Biện Lương vào tiết Thanh minh, tường tận tỉ mỉ, có giá trị văn hóa lịch sử cực cao, là báu vật hàng đầu của quốc gia. Ai học đến cấp ba cũng biết giá trị bức họa này.

Nhưng chúng tôi rõ ràng đang ở trong xưởng gốm, nói về Lão Triều Phụng, sao bỗng dưng chị Tố lại nhắc tới một vấn đề không liên quan thế này?

“Cậu có biết Thanh minh thượng hà đồ giờ ở đâu không?” Chị Tố lại hỏi.

Câu này tôi cũng biết. Bản gốc của Thanh minh thượng hà đồ vốn được cất giữ trong Tử Cấm Thành, về sau bị Phổ Nghi đem đến Mãn Châu quốc. Sau khi kháng chiến chống Nhật thành công, thời cuộc hỗn loạn, vô số kẻ xông vào hoàng cung Mãn Châu hôi của, tranh quý cũng lưu lạc trong dân gian. Mãi đến khi giải phóng Trường Xuân, quân giải phóng lùng sục tìm kiếm khắp nơi mới thấy bức tranh này, thoạt tiên họ bảo tồn nó trong bảo tàng Đông Bắc, sau đó đưa tới Cố cung Bắc Kinh, đến nay vẫn còn ở đó. Những lắt léo bên trong đã trở thành một câu chuyện truyền kỳ trong giới, đủ để quay thành phim.

Chị Tố gật đầu tán thưởng rồi tiếp, “Nghe đồn xưa nay bức tranh này có rất nhiều bản nhái bản phỏng, nên sau khi được đưa về Cố cung, cấp trên đã triệu tập một nhóm chuyên gia, thành lập tổ giám định để giám định toàn diện. Năm 1951 bức tranh được đưa vào Cố cung, tổ giám định chia thành hai phe, tranh luận liên miên. Sau cùng một chuyên gia đức cao vọng trọng đứng ra khẳng định bản này là thật, từ ấy mới có kết luận.” Kể tới đây, chị Tố giơ tay lên, nói chậm hẳn lại, “Kẻ này chính là Lão Triều Phụng.”

Tôi sáng mắt lên. Nếu Lão Triều Phụng cũng tham gia giám định Thanh minh thượng hà đồ thì rất dễ tra ra thân phận. Nhưng nghĩ lại thấy băn khoăn, “Làm sao có thể biến việc Lão Triều Phụng tham gia giám định bức tranh thành dao nhọn chọc trúng tử huyệt của lão được?”

“Nếu bức tranh đó có vấn đề thì sao?” Chị Tố vặn lại.

Câu này buông ra hết sức thản nhiên, nhưng tôi lại nghe như sét đánh ngang tai. Thanh minh thượng hà đồ quá nổi tiếng, nếu là đồ giả, cấp trên chủ quản ban ngành nhất định sẽ tra lại biên bản giám định, xác định người phải chịu trách nhiệm. Bất luận bấy giờ Lão Triều Phụng nhìn lầm hay có ý đồ nào khác, cũng sẽ thân bại danh liệt, không thể náu mình trong bóng tối được nữa.

Nhưng chuyện đâu có đơn giản thế.

Phải biết rằng tuy thư họa cũng là cổ vật, nhưng lại thuộc một dạng riêng, không giống những đồ cổ khác. Gốm xem men, đồng xem gỉ, ngọc xem bóng, đều là các tiêu chí khách quan. Nhưng một bức tranh chữ là thủ bút của danh gia nào đó lại không có tiêu chuẩn khách quan, chủ yếu dựa vào mắt nhìn và kinh nghiệm của người giám định, phụ thuộc cảm giác, hoàn toàn là ý kiến chủ quan. Cùng một cây trúc, anh bảo là Trịnh Bản Kiều vẽ, tôi lại bảo không phải, vậy thì chỉ có thể xem thâm niên ai cao hơn. Thế nên giám định thư họa có lúc thực ra là so uy tín và lai lịch.

Thanh minh thượng hà đồ là quốc bảo, nếu không có chứng cứ rành rành, rất khó lật lại kết luận giám định ban đầu. Chị Tố quả quyết khẳng định bức tranh này có vấn đề, lẽ nào trong tay bà ta đang nắm bí mật động trời gì đó có thể một đòn tất trúng?

“Bức tranh đó có vấn đề gì?” Tôi háo hức nghển cổ hỏi.

Chị Tố đáp, “Tôi không chắc.”

Tôi suýt gãy cổ, đợi mãi chỉ được một câu “không chắc” là sao?

Chị Tố giải thích, “Tôi chỉ tình cờ biết một nghi vấn về Thanh minh thượng hà đồ , còn nghi vấn đó có đúng hay không phải do cậu đi tìm hiểu.” Tôi thất vọng toàn tập, ngồi phệt xuống đất, nghe ngóng mãi, hóa ra chỉ là một suy đoán, cứ tưởng là bí mật long trời lở đất gì cơ đấy. Nghe tôi thở dài, chị Tố nhíu mày, gương mặt bình thản lần đầu tiên lộ vẻ giận dữ, “Cậu kia, nếu cậu thấy vô ích thì xem như tôi chưa nói. Cút về há miệng mà chờ sung đi.”

Thấy chị Tố nổi giận, tôi vội xin lỗi rối rít. Lão Triều Phụng xảo quyệt như thế, đâu thể để lộ sơ hở rành rành cho người ta đến tóm gáy, muốn đối phó với lão, chỉ còn cách nắm bắt từng chi tiết vụn vặt mà thôi. Vừa rồi tôi đã kỳ vọng quá cao nên nhất thời thất thố, phải nhận lỗi với chị Tố. Bà ta thở dài, “Cậu vừa nghe nhắc tới Lão Triều Phụng đã nôn nóng như thế, làm sao đối phó nổi lão?” Tôi gắng nén sốt ruột, lên tiếng giục, “Tôi biết lỗi rồi, bà cứ nói đi, tôi đang chăm chú nghe đây.” Nói rồi tôi bồn chồn đi đi lại lại mấy bước, như một chú mèo thấy cá trên đĩa mà không với nổi lên bàn vậy.

“Nếu chẳng phải không còn lựa chọn nào khác, tôi cũng chẳng muốn nhờ cậu đâu...” Chị Tố cười nhạt rồi tiếp, “Năm 1951, khi Thanh minh thượng hà đồ được đưa về Cố cung giám định, tôi đang học hội họa Trung Hoa, thầy giáo tôi suýt nữa cũng được đưa vào nhóm chuyên gia. Tuy thầy không được thấy đồ thật, nhưng cũng nghe ngóng được vài tin tức. Sau khi công bố kết quả giám định, thầy vẫn luôn nghi ngờ, nhưng đắn đo nhiều chuyện, không dám nói ra, chỉ thổ lộ với tôi. Suốt đời thầy không có cơ hội kiểm chứng nghi vấn này, giờ xem ra cả tôi cũng không còn cơ hội nữa. Tôi giao lại nó cho cậu, hy vọng cậu đừng để chúng tôi thất vọng.”

Tôi không dám nhanh nhảu hỏi han nữa mà ngồi thẳng lưng, thở đều, lặng thinh lắng nghe.

Chị Tố đặt bút xuống, thong thả kể, “Muốn kể rõ việc này, phải nói từ quá trình lưu truyền Thanh minh thượng hà đồ . Cậu muốn tìm Lão Triều Phụng báo thù đúng không? Thế thì chịu khó mà nghe cho hết. Đằng sau bức tranh này cũng có một câu chuyện báo thù thê thảm, liên quan mật thiết đến hiện tại đấy.”

“Vâng.” Tôi vội gật đầu.

Chị Tố chậm rãi kể, “ Thanh minh thượng hà đồ do một họa sĩ cung đình tên Trương Trạch Đoan vẽ ra dưới thời Tống Huy Tông nhà Bắc Tống, hẳn cậu cũng biết rồi. Sau khi hoàn thành, Trương Trạch Đoan dâng nó lên Tống Huy Tông. Tống Huy Tông đích thân đề năm chữ ‘ Thanh minh thượng hà đồ ’, đóng dấu song long lên rồi thu vào cung cấm. Tiếc rằng chẳng được mấy năm thì xảy ra nạn Tĩnh Khang, bức tranh này rơi vào tay Trương Chiêu nhà Kim. May sao Thanh minh thượng hà đồ là báu vật vô giá, kẻ nào có được cũng giữ gìn kỹ lưỡng, từ thời Kim, Nam Tống rồi đến thời Nguyên, nó đã qua tay mấy chục người, may mắn không bị hủy hoại trong chiến tranh. Đến thời Minh, bức tranh này thoạt đầu thuộc về Chu Hạc Pha, sau đó truyền đến Từ Phổ, Lý Đông Dương, rồi rơi vào tay thượng thư bộ Binh Lục Hoàn dưới triều Gia Tĩnh. Lục Hoàn yêu quý vô cùng, ngày nào cũng ngắm. Trước lúc lâm chung, ông ta trối lại với vợ rằng bức tranh này là báu vật gia truyền, phải giữ gìn cẩn thận. Ngờ đâu lời trăng trối ấy lại dẫn tới một chuyện lớn.”

Giọng chị Tố đều đều, nhưng đến đây lại đột nhiên cao hẳn lên như đang kể chuyện rong. Tôi sực nhớ vừa rồi chị Tố kể năm 1951 bà ta đang học vẽ, xem ra trước khi nghiên cứu hoa văn trên gốm, bà ta vốn là họa sĩ tài danh, chuyên môn chính là thư họa. Bị giam cầm ở đây, bao chuyện cũ trong nghề chẳng biết tỏ cùng ai, khó khăn lắm mới đợi được một người chịu nghe, nên bà ta phải nói cho bõ.

Chị Tố “nhìn” tôi rồi kể tiếp, “Lục Hoàn chết đi, Lục phu nhân theo lời trăng trối, khâu Thanh minh thượng hà đồ vào trong gối, không rời một khắc, đến con trai mình cũng không cho chạm vào. Bà ta có một đứa cháu đằng ngoại, họ Vương, cũng cực kỳ mê tranh chữ. Biết nhà họ Lục có Thanh minh thượng hà đồ , hắn đã nhòm ngó từ lâu, chỉ vì Lục Hoàn giữ quá kỹ nên không dám mở miệng đòi mượn. Mãi mới chờ được đến khi Lục Hoàn mất, hắn bèn tới tìm Lục phu nhân xin bà cho ngắm một lần. Lục phu nhân nghe hắn nài nỉ mãi cũng mềm lòng, bèn ra điều kiện chỉ được xem tại chỗ, không được cầm đi, không được đem theo giấy bút, hơn nữa còn không được tiết lộ với người khác. Tên họ Vương vâng dạ rối rít, tay không đến xem, xem liền mấy chục lần, mất khoảng hai ba tháng, sau đó dựa vào trí nhớ kinh người, âm thầm vẽ phỏng một bức y hệt.”

Tôi hít vào một hơi. Tranh phong cảnh hay chân dung nào khác còn đỡ, song Thanh minh thượng hà đồ là tranh vẽ toàn cảnh Biện Lương, đầy đủ nhà cửa, thuyền bè, cầu đường, đồ đạc, ngựa xe, cờ quạt, còn cả mấy trăm dân chúng Biện Lương chẳng ai giống ai, vậy mà tên họ Vương kia có thể âm thầm sao chép lại y hệt, trí nhớ thật không phải tầm thường.

Tới đây, chị Tố lại chuyển chủ đề, “Dưới triều Gia Tĩnh có một tên đại gian thần tên Nghiêm Tung, con trai lão là Nghiêm Thế Phiên. Nghiêm Thế Phiên tàn nhẫn hiểm độc, lại thích sưu tầm những thư họa quý hiếm, luôn khao khát bức Thanh minh thượng hà đồ . Đô ngự sử Vương Thư có việc nhờ vả nhà họ Nghiêm, bèn bỏ ra tám trăm lạng bạc mua lại bức tranh chép từ tên họ Vương, giả làm đồ thật dâng lên Nghiêm Thế Phiên. Nghiêm Thế Phiên mừng rỡ khôn xiết, vời thợ bồi Thang Thần trong phủ tới bồi tranh. Thang Thần thoạt nhìn đã nhận ra đây là đồ giả, vin cớ ấy bắt chẹt Vương Thư lấy một số tiền lớn. Song Vương Thư chẳng buồn đếm xỉa tới y, Thang Thần nổi giận bèn tố cáo với Nghiêm Thế Phiên tranh nọ là đồ giả, sơ hở rành rành.”

Kể tới đây, chị Tố cố ý kéo dài giọng, thấy tôi háo hức nghển cổ đằng hắng một tiếng, bà ta mới tiếp tục, “ Thanh minh thượng hà đồ vẽ cảnh phố phường Biện Lương, bên trong từ tiệm ăn, quán rượu, nhà dân, hiệu xe ngựa, hàng tạp hóa đều được khắc họa vô cùng tinh tế. Trong đó có vẽ một sòng bạc, bốn tên cờ bạc vây quanh bàn gieo súc sắc. Súc sắc tổng cộng sáu viên, trong đó năm viên đều ngửa mặt lục lên, chỉ còn một viên xoay tít, mấy con bạc đều há miệng hò reo. Thang Thần mách với Nghiêm Thế Phiên, theo lẽ thường, mấy tên này đều phải hô ‘Lục, lục, lục’. Mà thời Tống, theo giọng Biện Lương thì ‘Lục’ là âm tròn miệng, phải chúm miệng cho tròn mới đúng, song mấy tên kia đều há miệng, nói bằng giọng Phúc Kiến. Từ đó đủ thấy đây là đồ giả.”

“Chẳng phải nói đã sao chép lại y hệt ư?” Tôi giơ tay trong bóng tối, thắc mắc.

“Thời cổ chưa có máy in, cũng không có máy ảnh, mà Thanh minh thượng hà đồ lại có vô vàn tình tiết vụn vặt. Tên họ Vương chép lại theo trí nhớ, khó tránh sai lệch chút ít, những chi tiết nhỏ nhặt này hẳn là hắn vẽ liền một lèo, không kịp suy xét kỹ.” Chị Tố giải thích qua, rồi tiếp tục kể, “Biết được bức tranh Vương Thư dâng là đồ giả, Nghiêm Thế Phiên đùng đùng nổi giận, mách với Nghiêm Tung. Nghiêm Tung ôm hận, gán cho Vương Thư một tội danh hiếm rồi hại chết. Lúc này Thang Thần lại mách với Nghiêm Thế Phiên rằng bức tranh này giống thật như thế, nhất định kẻ vẽ ra đã tận mắt trông thấy bản gốc. Nghiêm Thế Phiên lần theo manh mối ấy, tra ra tên họ Vương, rồi tra đến nhà họ Lục. Nghe ngóng được Lục phu nhân đã mất, bản gốc đã được người nhà họ Lục bán cho nhà họ Cố ở Côn Sơn, Nghiêm Thế Phiên bèn giở trò cướp trắng bản gốc từ nhà họ Cố, cất giữ trong phủ. Song hắn không ngờ Vương Thư lại có một người con trai, vẫn nuôi lòng căm hận hắn. Người này tên Vương Thế Trinh, cậu có biết không?”

Tôi vội gật đầu. Đây là một danh gia về văn học và sử học khá nổi tiếng, có thể xếp vào hàng năm người đứng đầu triều Vạn Lịch nhà Minh, song tôi không ngờ cha ông ta lại là Vương Thư trong câu chuyện này.

“Vương Thế Trinh còn trẻ, lừng danh kinh thành về văn tài. Ngoài thơ văn ra, tiểu thuyết và kịch ông ta viết cũng rất hay. Sau khi Vương Thư qua đời, một lần ông ta đến phủ họ Nghiêm, Nghiêm Thế Phiên hỏi ông ta gần đây có tác phẩm mới nào đáng đọc không, Vương Thế Trinh vô cùng căm hận hung thủ hại chết cha mình, song bản thân không quyền không thế, đành khéo léo đáp rằng không có. Nghiêm Thế Phiên không tin, gạn hỏi mấy lần, Vương Thế Trinh thấy trên bàn đặt một lọ vàng, trong cắm cành mai, bí quá hóa liều, đành đáp gần đây chỉ viết được một bộ tiểu thuyết tên là Kim Bình Mai .”

“ Kim Bình Mai ư? Tác giả Kim Bình Mai không phải Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh à?” Tôi càng nghe càng bối rối, sao đang từ Thanh minh thượng hà đồ lại sang Kim Bình Mai rồi?

Chị Tố đáp, “Đó là bút danh thôi, cậu cứ nghe tôi kể hết đã. Nghe nói Vương Thế Trinh về nhà ngẫm nghĩ, bèn nảy ra một ý. Ông ta căn cứ vào một hồi trong Thủy Hử, mải miết viết suốt mấy ngày mới xong bản thảo Kim Bình Mai . Vương Thế Trinh biết Nghiêm Thế Phiên dâm dật, cố ý kể rất nhiều chuyện nam nữ trong đó, còn đặt tên nam chính là Tây Môn Khánh, bởi Nghiêm Thế Phiên có hiệu là Đông Lâu. Viết xong, Vương Thế Trinh tẩm độc vào mấy trang quan trọng kia, còn cố ý để chúng dính liền nhau không rọc, rồi mang đến phủ Nghiêm. Nghiêm Thế Phiên cực kỳ yêu thích bộ sách, không hề rời tay. Đọc đến những chỗ mấu chốt, phát hiện bị dính trang, hắn bèn dấp nước bọt vào ngón tay để vê, vê một lần hai lần, độc dược trên trang sách cũng được đưa vào miệng. Chẳng bao lâu sau Nghiêm Thế Phiên phát độc mà chết, trước khi chết dặn thuộc hạ, lúc quàn chỉ cho người thân lại gần. Hôm đưa ma, bỗng đâu lại có một thư sinh áo trắng đến gào khóc thảm thiết. Người phủ Nghiêm thấy kẻ nọ khóc lóc thật tình, quên bẵng lời Nghiêm Thế Phiên dặn, cho y vào linh đường. Thư sinh nọ nhào tới quan tài còn chưa đậy nắp, kêu khóc thêm một chập, tới khi y đi rồi, phủ Nghiêm mới phát hiện một cánh tay Nghiêm Thế Phiên đã bị gã thư sinh kia lấy đi mất. Về sau phủ Nghiêm kiểm kê lại, phát hiện bức Thanh minh thượng hà đồ cũng mất nốt. Có điều họ chẳng hơi đâu điều tra, bởi sau khi Nghiêm Thế Phiên chết không lâu, Nghiêm Tung cũng bị kẻ thù chính trị đánh đổ. Lúc kê biên tài sản phủ Nghiêm, triều đình thấy có Thanh minh thượng hà đồ , bèn thu vào nội phủ.”

“Khoan đã...” Tôi cắt lời chị Tố, “Bà nhầm rồi thì phải? Chẳng phải bà nói Thanh minh thượng hà đồ bị gã thư sinh kia đánh cắp rồi sao? Sao triều đình còn tìm được ở phủ Nghiêm?” Chị Tố đáp, “Cậu nghe không kỹ thì có. Tôi hỏi nhé, phủ Nghiêm tổng cộng có mấy bức Thanh minh thượng hà đồ ?”

“Một bức, à không, hai bức. Bản gốc của Trương Trạch Đoàn và bản sao của tên Vương.” Tôi sực hiểu ra.

“Đúng vậy. Thư sinh nọ cầm đi một bản, triều đình thu giữ một bản. Hai bản gần như giống hệt nhau, rốt cuộc bức nào thật bức nào giả, trừ kẻ lành nghề như Thang Thần ra, chẳng ai biết được.” Giọng chị Tố đều đều, nhưng tôi nghe ra ẩn ý của bà ta, “Bức được đưa vào nội chủ nhà Minh, chưa chắc đã là thật.”

“Những câu chuyện báo thù từ thời Minh liên quan gì tới Lão Triều Phụng?” Tôi kéo chủ đề câu chuyện về thì hiện tại. Câu chuyện của Vương Thế Trinh quả là ngoắt ngoéo, nhưng dù sao cũng từ thời Minh, đối với tôi, hiện thực mới là quan trọng nhất.

“Cậu nghe tôi kể đã. Bức Thanh minh thượng hà đồ được thu vào nội phủ, dưới thời Vạn Lịch do đại thái giám Phùng Bảo cất giữ. Sau đó chế độ chuyển từ Minh sang Thanh, nó cũng qua tay mấy người, cuối cùng rơi vào tay hoàng thất Mãn Thanh, được Gia Khánh đế xếp vào Thạch cừ bảo cấp tam biên* giữ gìn cẩn mật. Sau đó n