Chương 5 Tìm mấu chốt giám định Thanh minh thượng hà đồ
Tôi tựa đầu vào cửa xe, đờ đẫn nhìn ra trước mặt. Đằng trước tối đen như mực, hai ngọn đèn pha chỉ soi sáng được trong phạm vi mấy mét, có thể trông thấy từng vệt trắng không ngừng chạy lùi về phía sau. Tôi như quay trở lại lúc theo Mắt Trố đi ăn trên chiếu, so ra lúc ấy tôi hạnh phúc làm sao.
Sau khi rời biệt thự của Đới Hạc Hiên, tôi cứ nghĩ hai thằng sẽ về thành phố nghỉ ngơi trước rồi hôm sau mới lại lên đường, nhưng Dược Bất Nhiên không ngừng không nghỉ, lái xe đến thẳng núi Tử Kim ở ngoại ô phía Đông Nam Kinh. Giờ đã hơn mười giờ đêm. Trên đường gần như không thấy người xe qua lại, chỉ có chiếc xe của chúng tôi lao đi vun vút, như cô hồn chạy dưới âm ty.
Trong xe tĩnh lặng như tờ, sau khi Dược Bất Nhiên thốt ra câu nói lạ lùng kia, chúng tôi chẳng ai nói năng gì nữa. Gã lẳng lặng lái xe còn tôi đờ đẫn nhìn rặng núi cao ngất trải dài ngoài cửa sổ.
Lăng Trung Sơn mà Dược Bất Nhiên nói nằm ở ngọn Đông núi Mao Sơn trong dãy Tử Kim, được xây năm 1929, an táng quốc phụ Tôn Trung Sơn. Trước đây có một thầy phong thủy người miền Nam từng nói với tôi, phong thủy lăng Trung Sơn không đẹp lắm. Tuy có núi dựa như bình phong, tọa Bắc hướng Nam, nhưng xét toàn thể lăng tẩm thì huyệt cao mà núi dựa lại thấp, lộ hẳn ra ngoài, mở toang hoang, phạm vào cấm kỵ mộ phần phải “được gió ẩn nước”. Có điều thầy phong thủy kia nói, long huyệt đẹp nhất Nam Kinh nằm dưới chân ngọn Ngoạn Châu mé Tây lăng Trung Sơn, nhưng ở đó đã đặt lăng Minh Hiếu, tức mộ Chu Nguyên Chương rồi. Tóm lại vẫn phải theo thứ tự trước sau.
Theo lời thầy phong thủy nọ thì sau khi Tôn Trung Sơn làm cách mạng thành công, lần đầu tiên đến viếng lăng Minh Hiếu đã dùng thân phận bề tôi để dâng hương kính cáo Minh Thái Tổ. Tối hôm ấy Chu Nguyên Chương báo mộng cho Tôn Trung Sơn, nói rằng ông ta có công đánh đuổi man di, nên sẽ chia cho nửa phong thủy núi Tử Kim. Song Tôn Trung Sơn là vĩ nhân, không muốn chiếm đoạt phong thủy lăng Minh Hiếu nên trước lúc mất đã để lại di chúc chôn mình ở vị trí bề tôi, vừa che chắn cho lăng Minh Hiếu, cũng không sẻ bớt long khí. Nếu là người trung thành nửa đêm đi vào núi sẽ thấy trong thung lũng giữa lăng Trung Sơn và lăng Minh Hiếu có một con rồng trắng lượn vòng quanh, đó chính là long khí mà hai người nhường qua nhường lại cho nhau.
Những truyền thuyết dân gian này phần lớn đều là lời đồn thổi gán ghép, mê tín dị đoan, có điều giờ đi vào núi Tử Kim, tôi thực sự cảm thấy nó không giống những ngọn núi khác. Nửa đêm vào núi, thường thì sẽ thấy lạnh buốt thấu xương, không rét mà run, tựa hồ có vô vàn thứ đáng sợ đang nấp trong bóng tối dày đặc xung quanh. Song hiện giờ chẳng những tôi không thấy gì khó chịu, mà còn cảm giác giữa những ngọn núi trùng điệp có một đôi mắt lặng lẽ quan sát mình, cái nhìn ôn hòa, quảng đại mà không lấn lướt, rất khó nắm bắt, song hiện diện ở khắp mọi nơi.
Tôi chẳng biết đây có phải ảo giác hay không. Có điều dưới ánh mắt có lẽ không hề tồn tại ấy, tâm trạng tôi quả thực đã bình tĩnh hẳn.
Lẽ nào mình cũng được tính là trung thành ư? Câu hỏi nực cười này đột nhiên nảy ra trong đầu tôi. Tôi quay mặt nhìn sang Dược Bất Nhiên thấy gã chăm chú lái xe, mím chặt miệng, không huyên thuyên luôn mồm như mọi khi nữa. Gã có được coi là trung thành không? Gã có cảm nhận được luồng sức mạnh kỳ diệu bắt nguồn từ lăng Trung Sơn không?
Khép lại những suy nghĩ vẩn vơ, tôi nhanh chóng quay về với hiện thực trước mắt. Dược Bất Nhiên và Lão Triều Phụng đưa tôi đến lăng Trung Sơn định làm gì? Dược Bất Nhiên nói rằng để tôi trở lại thành Hứa Nguyện trước kia là ý làm sao? Chẳng lẽ bắt tôi ở lại đó canh lăng?
Xe chạy chừng nửa giờ thì rời đường lớn, chạy vào đường núi chừng mười phút rồi dừng lại. Tôi nheo mắt nhìn quang cảnh phía trước, dưới ánh đèn xe, có thể thấy đây là chân núi mấp mô, lưng dựa vào vách đá cao ngất, hai bên nhô lên hai dốc núi, ở giữa là một khoảnh đất bằng khá nhỏ. Giữa khoảnh đất là một ngôi nhà gạch hình chữ nhật trông như doanh trại bộ đội những năm 50, 60, trên tường hình như còn loang lổ biểu ngữ, nhưng không nhìn rõ được. Từ vị trí này nhìn ra chỉ thấy quanh nhà có rất nhiều bóng đen, song không biết là gì.
“Đi thôi.” Dược Bất Nhiên vẫy tay với tôi.
“Ở đây à?” Tôi nghi hoặc.
“Đúng rồi.” Dược Bất Nhiên không giải thích nhiều.
Đi được mấy bước, tôi bỗng khựng lại, cả người lạnh toát. Vầng trăng đã ló ra khỏi đám mây, giờ tôi có thể lờ mờ trông thấy những bóng đen kia đều là bia mộ, cao thấp dài ngắn đủ cả, san sát bao quanh doanh trại, âm trầm mà rùng rợn.
Đây lẽ nào là nghĩa địa trong núi Tử Kim? Nhưng làm gì có doanh trại nào lại xây giữa đống mồ mả thế này? Dược Bất Nhiên đưa tôi đến chỗ quỷ quái nào đây? Không phải có quỷ ám thật chứ?
Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu tôi, đúng lúc này, một gian phòng trong doanh trại bỗng sáng đèn. Ánh đèn vàng vọt chỉ soi sáng được một khu vực rất hẹp ngoài cửa sổ. Tôi còn chưa nhìn rõ bên trong có người hay không thì một con béc giê Đức đột nhiên từ trong nhà lao ra, chạy xồ về phía chúng tôi sủa váng lên. Tiếng sủa rất vang, thoắt chốc đã đánh động chim chóc trên cây bay rào rào.
Dược Bất Nhiên huýt sáo, lập tức con chó kia ngoan ngoãn ngậm mõm, vẫy đuôi chạy đến đón. Xem ra gã là khách quen ở đây. Con béc giê dẫn hai chúng tôi tới trước cửa phòng. Bấy giờ tôi mới để ý thấy tuy bốn bề đều là bia mộ, nhưng phần lớn không dựng trên mộ mà dựng trên mặt đất, kẹp giữa hai phiến đá để chống cho khỏi đổ, còn có rất nhiều bia đá ngổn ngang dưới đất, như một bàn mạt chược vừa chơi xong. Những tấm bia này đều khá lâu đời, đa phần mặt bia đều có vết nứt và lốm đốm vệt xanh, song là cổ thật hay giả cổ thì không dám chắc.
Dược Bất Nhiên hạ giọng dặn tôi, “Người lát nữa chúng ta gặp rất đơn thuần, không liên quan gì đến giới cổ vật cả, mày không cần phí công khách sáo, cứ ở đây đợi làm là được.”
“Làm gì cơ?”
“Anh ta bảo gì thì mày làm cái đó.”
Lúc này trong doanh trại có một người chắp tay sau lưng bước ra. Người này tuổi ngoại tứ tuần, mặt đầy nếp nhăn, gò má trái còn có nốt ruồi đen trông rõ mồn một. Dáng dấp anh ta thấp đậm, đứng đó trông vững vàng như một con sư tử đá.
“Anh Từ, em dẫn người đến cho anh rồi này.” Dược Bất Nhiên cười rồi đẩy tôi một cái. Anh Từ chỉ “Ừm” một tiếng, không tỏ thái độ gì. Tôi chìa tay ra bắt tay anh ta, để ý thấy bàn tay anh ta rất to, hổ khẩu có vết chai, hẳn là công nhân khai thác đá. Từ quan sát tôi chốc lát rồi im lặng dẫn theo con béc giê quay vào nhà.
Dược Bất Nhiên dặn tôi, “Được rồi, mày ngoan ngoãn ở đây đi, tao té đây.” Tôi ngớ người, mới thế đã coi như xong rồi à? Dược Bất Nhiên còn nói thêm, “Anh ta không bị câm đâu, chỉ kiệm lời thôi.”
“Thế khi nào mày quay lại đón tao? Năm ngày hay mười ngày?”
“Lão Triều Phụng nói tới lúc đó mày sẽ tự biết thôi.”
Tôi nhíu mày, “Yên Yên vẫn đang bị giam, ông Lưu ở Bắc Kinh chỉ chèo chống được nhiều nhất một tháng. Bọn tao không có nhiều thời gian đâu.”
“Nếu mày không ở đây bình ổn lại tâm trạng thì có cho mày một năm cũng vô ích.” Nói vậy nhưng câu sau Dược Bất Nhiên lại quay ra xoa dịu tôi, “Đằng Yên Yên tao sẽ nghĩ cách, dù không cứu ra được ngay, cũng sẽ không để cô ấy phải chịu khổ.”
“Quan trọng là Đới Hạc Hiên.” Tôi lo lắng. Lão là hy vọng duy nhất để cứu Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng sau khi cược thua, trong tay tôi chẳng còn gì để trao đổi với lão nữa. Dù tôi có tu thành chính quả ở đây, thì cũng được tác dụng gì? Như nhìn thấu tâm tư tôi, Dược Bất Nhiên xoa cằm cười nhạt, “Chuyện đó mày cứ yên tâm, hôm nay chúng ta cũng không đến nỗi tay trắng về không, ở nhà tên lừa đảo ấy, tao đã để ý thấy một chuyện rất hay, có thể lợi dụng được.”
“Là gì?”
Ánh mắt Dược Bất Nhiên lóe lên sắc lạnh, không thấy vẻ cợt nhả mọi khi đâu nữa, “Mày cứ đợi mà xem, đến lượt tao ra tay rồi.”
Nhất thời tôi không biết nên cảm ơn gã, hay vẫn giữ thái độ thù địch. May sao Dược Bất Nhiên cũng chẳng hy vọng tôi đáp lại, chỉ giơ tay lên chào rồi quay người đi.
Đợi xe lăn bánh, tôi cũng quay lưng đi vào căn nhà giữa lòng núi kia. Xem ra nơi đây vốn là doanh trại quân đội, giờ được cải tạo lại, bên trong chỉ kê một giường xếp giản dị, những chỗ khác đều bị bia đá, gạch xanh, giấy đủ mọi chủng loại và vài vật dụng lạ lùng choán hết. Còn một bàn làm việc rộng, bên trên chất đống sách vở và tài liệu.
Tôi để ý thấy ngoài giường xếp ra, nơi này không hề có hơi thở hiện đại. Giấy là giấy tuyên, từng cuộn từng cuộn đặt trong sọt trúc; trên bàn chỉ có hai cây bút lông, một thỏi mực và một chiếc nghiên, không có bút bi hay bút máy, đều là đồ bán trong cửa hàng văn phòng phẩm, chẳng có gì quý giá. Bên kia phòng bắc một bếp lò, trên đặt chiếc nồi sắt to tướng, cạnh đó là đống củi xếp ngay ngắn. Trần nhà treo một cây đèn dầu, tỏa sáng leo lét.
“Cậu ngủ ở đây, sáng mai sáu giờ dậy.” Anh Từ trỏ chiếc giường xếp.
Tôi thầm nghĩ chuyện gì đến ắt phải đến, để xem họ giở trò gì, bèn hỏi, “Sáng mai làm gì đây?”
“Rập bia.” Anh Từ chẳng buồn nhướng mắt. Tôi ngẩn người, không ngờ lại là việc này.
Rập bia còn gọi là rập mực. Thời cổ không có máy in, cũng không có máy ảnh, nếu muốn phục chế lại nguyên dạng văn tự trên bia đá chỉ có duy nhất một cách là dùng mực rập lại. Nguyên lý của nó cũng giống như in bản kẽm bây giờ, tức là dán giấy ướt lên mặt bia, để nó bám vào những vết lồi lõm trên văn bia, sau đó quét mực lên trên rồi bóc giấy ra, thế là văn bia đã được rập lại nguyên trạng. Bởi vậy bản rập phần nhiều là nền đen chữ trắng, giống phim âm bản vậy.
Bia đá quá nặng, không dễ di chuyển nên phần lớn giới cổ vật chỉ trao đổi bản rập bia đá, gọi là thiếp bia. Thứ này được gọi là hổ đen, giá trị rất cao, nhưng hàng giả cũng lắm, hễ sơ suất sẽ bị hổ vồ cụt cả vốn.
Rập mực không có gì thần bí, cùng lắm chỉ là một kỹ thuật thôi, tuy tôi chưa bao giờ bắt tay vào làm nhưng vẫn hiểu được những điểm cơ bản. Chẳng lẽ rập bia có thể giúp bình ổn lại tâm trạng ư? Tôi nghi hoặc thầm nhủ, thấy hơi khó tin.
Có điều anh Từ tính lầm lì, hỏi cũng vô ích. Nghĩ vậy tôi bèn nằm xuống giường đi ngủ, để xem ngày mai họ bày ra trò gì.
Hôm sau trời vừa tảng sáng, tôi đang mơ màng ngủ thì thấy có người lay tay. Mở mắt ra liền trông thấy con béc giê của anh Từ đang kéo tay áo mình. Tôi ngồi dậy, anh Từ đã nấu xong nồi cháo, ăn kèm mấy túi dưa cải muối và vài lát thịt khô hun khói đen đúa trên đĩa. Nấu cháo bằng bếp lò ngon hơn bằng nồi cơm điện, hạt gạo mềm dẻo thơm phức, tôi ăn một hơi hết bay hai bát.
Ăn xong bữa sáng, anh Từ ra hiệu rồi dẫn tôi ra sân sau. Tôi nhìn quanh, lúc này mặt trời vừa lên, không khí trong lành, bên tai vẫn nghe rỉ rả tiếng trùng kêu và líu lo chim hót, thấp thoáng thấy cả lăng Trung Sơn xa xa, thật là một nơi thích hợp để tu tâm dưỡng tính. Tôi phóng mắt nhìn khắp sân sau, thấy ngổn ngang toàn bia đá đủ mọi kích cỡ, còn nhiều hơn trong nhà, hoặc đứng hoặc nằm, đủ để làm cả một rừng bia.
Anh Từ rốt cuộc là người thế nào mà lại sống giữa cả đống bia đá trong doanh trại bỏ hoang này?
Anh Từ dẫn tôi đến trước một tấm bia đặt nằm ngang, cao chừng mét rưỡi, bên trên khắc hơn trăm chữ. Tôi đọc qua nội dung, thấy không phải hàng giá trị gì lắm, do một hương thân ở Nam Kinh lập cho mẹ vào khoảng những năm Quang Tự thời Thanh, lời văn cũng chẳng đặc sắc mấy, giới thiệu đơn giản về cuộc đời của bà mẹ mà thôi.
Trước tấm bia đã đặt sẵn các dụng cụ như giấy rập, mực, con đập, bàn chải xơ cọ, cọ vẽ, miếng nỉ v.v... Cọ vẽ đã có phần trụi lông, miếng nỉ xơ cả mép, có lẽ đây là những thứ hằng ngày anh Từ thường dùng.
Xem ra công việc chính của anh ta ở đây là rập bia. Giờ mọi người đều chụp bằng máy ảnh, song anh ta vẫn kiên trì dùng phương pháp cổ lỗ này, lại thêm trong nhà hầu như không có phát minh hiện đại nào, có thể thấy đây là một ẩn sĩ giữ nếp xưa. Tôi liếc anh ta, chợt cảm thấy con người lầm lì này thật thú vị.
“Hôm nay cậu rập nó.” Anh Từ chỉ nói vỏn vẹn năm chữ rồi bỏ đi, chẳng buồn phổ biến trong lúc rập phải chú ý những gì.
Thôi được, không nói thì thôi. Tôi đã đọc về cách rập bia qua sách vở mãi rồi, thiếp bia qua tay cũng phải mười mấy tấm, chưa ăn thịt lợn thì thôi, chẳng lẽ còn chưa bao giờ trông thấy con lợn hay sao? Cúi đầu quan sát một hồi, tôi xắn tay áo lên, thầm nghĩ thế mà cũng có một ngày mình chính tay rập bia cơ đấy.
Lúc này anh Từ chợt quay lại, bưng một bát nước cơm nghi ngút khói. Thoạt tiên tôi ngỡ anh ta sợ tôi chưa đủ no, về sau thấy anh ta lọc hết gạo lẫn trong bát mới hiểu ra thứ này dùng để dán giấy.
Trong rập bia có một khâu quan trọng là dán giấy. Để giấy dính chặt vào bia, thông thường người ta sẽ nhúng giấy vào nước hoặc nước cơm. Nếu là thợ rập uy tín còn dùng keo đun bằng nước bạch cập, song anh Từ ở trong núi sâu, điều kiện thiếu thốn, nước cơm vừa ăn được vừa dùng được là tiện nhất.
Anh Từ đặt bát xuống, chẳng dặn câu nào đã chắp tay sau lưng bỏ đi. Tôi thầm nhẩm lại một lượt quy trình đọc trong sách vở, làm mấy động tác khởi động khớp vai rồi ngồi xuống, chuẩn bị bắt tay vào làm.
Bước đầu tiên trong việc rập bia là làm sạch mặt bia. Tôi cầm chổi lông cỡ đại lên nhúng nước rồi chải khắp mặt bia một lượt cho sạch bụi bặm, sau đó đổi sang chổi cỡ nhỏ, chải sạch những đất cát cỏ dại bám trong khe kẽ. Chỉ riêng công tác chuẩn bị này đã mất hơn nửa tiếng. Đó là còn may, có những tấm bia cổ bám đầy rêu xanh còn phải dùng lửa đốt. Có lúc đốt mấy lần, đá khô giòn nứt cả ra, tới lúc đó muốn cứu vãn cũng chẳng kịp.
Nói cũng lạ, lúc chải mặt bia, những tạp niệm trong đầu tôi ít hẳn. Xem ra khi chăm chú làm việc gì đó, con người ta sẽ không dễ bị phân tán.
Làm sạch mặt bia xong, tôi cầm một tờ giấy lên, anh Từ đã xén sẵn để giấy lớn gấp đôi mặt bia. Tôi vê ngón tay, nhận ra đây là giấy Liên Sử mỏng* của Uông Lục Cát. Uông Lục Cát là thương hiệu lâu đời có từ đầu thời Minh, hai năm trước còn được giải bạc của bộ Công nghiệp nhẹ. Giấy Tuyên của họ mỏng vừa phải, vê trong tay thấy dẻo quánh. Giấy dùng rập bia phải dẻo, từ đây có thể thấy anh Từ rất có mắt nhìn, quả là lành nghề.
Tôi gấp tờ giấy lại thành hình chữ nhật, nhúng vào nước cơm rồi lấy ra phủ lên vải ướt, lại đặt chồng một tờ giấy khô lên. Đoạn tôi ấn tay lên để bảo đảm giấy ướt đều. Xong xuôi đâu đấy lại cầm bút lên chấm nước cơm quét thêm lượt nữa lên mặt giấy rồi dán vào bia, căn cho bốn góc khít nhau. Sau đó lấy miếng nỉ tỉ mỉ thấm bớt nước, thay sang bàn chải xơ cọ, quét cho giấy dính chặt vào mặt bia, không hở lỗ khí nào. Cả quá trình kể ra thì phức tạp nhưng làm lại rất nhanh. Tôi vừa nghĩ đây đúng là trình độ thủ công của học sinh tiểu học, tay sơ ý dùng lực hơi mạnh, bàn chải lập tức cào rách mặt giấy.
Bản rập bia chỉ cần rách một chỗ là vứt đi cả tờ. Tôi rầu rĩ lắc đầu, bóc giấy ra, thay tờ khác. Lần này làm thật cẩn thận, chải giấy dính sát vào bia.
Dán giấy xong, tiếp theo phải đập cho giấy ăn chữ. Việc này cực kỳ tỉ mẩn, phải dùng bàn chải và chày gỗ đập vào kẽ hở giữa các nét bút, để giấy Tuyên ăn vào miệng chữ, dán chặt vào những chỗ lõm trên mặt bia. Tấm bia đá này có hơn trăm chữ, thể chữ cũng không lớn, nếu đập lần lượt từng chữ một thì phải rất kiên nhẫn. Tôi bò ra đập được chừng hai ba chục chữ đã sốt cả ruột. Tới chữ thứ năm mươi, tôi thở hồng hộc đứng dậy, mệt đến váng đầu hoa mắt.
“Lao động tay chân vô nghĩa thế này có thể bình ổn tâm trạng ư? Sao lại thấy càng lúc càng cáu kỉnh thế nhỉ?” Tôi bắt đầu oán trách Dược Bất Nhiên. Đúng lúc này, một mối nghi ngờ nảy ra trong đầu tôi, con cáo già Lão Triều Phụng không phải định cầm chân tôi ở đây để chúng rảnh tay bày ra âm mưu quỷ kế gì đó chứ?
Dược Bất Nhiên chẳng cũng nói đấy ư? Tới lúc gã ra tay rồi. Rốt cuộc là ra tay với Đới Hạc Hiên hay với tôi?
Tôi nghĩ mà sốt cả ruột, bèn bỏ chổi xuống, định rời sân sau. Lúc này anh Từ từ trong phòng đi ra, thấy tôi định đi thì lẳng lặng đặt tay phải lên vai tôi. Tay anh ta đặt lên rất từ tốn, nhưng lại như Thái Sơn đè xuống, khiến tôi không sao cử động được, tức khắc khòm cả người.
“Làm việc phải đến nơi đến chốn.” Anh ta nói.
Xem ra anh Từ còn kiêm cả nhiệm vụ giám sát tôi. Tôi tức tối quay người ngồi xuống trước tấm bia, tiếp tục đập từng chữ. Hì hục mãi đến trưa mới xong tất cả. Tôi mỏi nhừ lưng đứng dậy, định đi ăn, nào ngờ vào nhà mới thấy anh Từ đi đâu mất, chỉ để lại một tờ giấy, trên là nét bút đẹp đẽ thể tiểu khải, nói rằng anh ta vào thành phố một chuyến, bảo tôi tự nấu cơm.
Tôi cầm tờ giấy đứng thần người ra, lẽ nào không phải anh ta giám sát tôi sao? Sao lại tự dưng bỏ đi thế này? Đi tới trước bàn làm việc của anh ta, tôi thấy một xấp giấy dày cộp, đều là văn bia rập lại và những tài liệu khảo chứng về bia cổ. Từng nét bút nắn nót rõ ràng, chỗ nào viết sai thì dán giấy trắng lên, hết sức kỹ càng tỉ mỉ. Đủ thấy Từ đã bỏ nhiều tâm huyết vào đó. Bên cạnh xếp toàn thiếp bia, có những bức in từ ảnh ra, có bức Từ tự rập, góc dưới bên phải đánh số, ghi thời gian địa điểm và tên đầy đủ của Từ - Từ Thư Xuyên.
Tôi đếm kỹ thấy phải đến hơn hai trăm bản rập, trong vòng bảy tám năm, không khỏi lấy làm kinh hãi. Muốn tìm được, rập được, khảo chứng được những tấm bia cổ này đều phải mất rất nhiều thời gian, mấy năm nay e rằng anh ta chỉ vùi đầu làm chuyện này, không nghĩ tới việc gì khác.
Một mình ẩn cư giữa núi rừng, cách xa nhân thế, một lòng một dạ khảo cứu và rập lại bia cổ gần mười năm nay, phải có tinh thần sắt đá đến đâu? Giờ là thập niên 90 của thế kỷ XX rồi mà! Ai lại bỏ công đi làm một việc vừa vô nghĩa vừa không đem lại tiền bạc gì như thế chứ!
Tôi nhắm mắt lại, hình dung ra cảnh anh Từ lẻ loi ở đây, khom lưng cúi đầu, một mình một bóng. Giữa những hàng chữ trên các bản rập này, có thể cảm nhận được tinh thần bền bỉ khiến người ta phải kính nể, anh Từ cũng như luồng sức mạnh đêm qua tôi cảm nhận được ở lăng Trung Sơn, đều toát lên ý chí mạnh mẽ, nguyện hiến dâng cả bản thân cho sự nghiệp mình hằng đeo đuổi.
Tôi không xem trộm tập tài liệu kia viết gì mà cung kính lui ra khỏi “phòng đọc sách” của anh ta, vô cùng hổ thẹn vì mình từng coi anh ta là một tên cai ngục. Tin rằng người có quyết tâm và ý chí mạnh mẽ như thế, không thể bị kẻ khác ràng buộc hoặc khống chế được. Xem ra Dược Bất Nhiên nói thật, anh Từ là một người đơn thuần đến cực điểm, không thuộc về giới nào cả, mà chỉ đắm chìm trong thế giới của riêng mình.
Giờ tôi đã hơi hiểu vì sao Dược Bất Nhiên đưa mình tới đây rồi.
Tôi nhìn ra cổng, cuối cùng vẫn không bỏ đi.
Bữa trưa tôi chỉ rán qua loa quả trứng ăn tạm rồi trở lại sân sau, đứng trước tấm bia quan sát. Chữ đã đập xong, việc tiếp theo là vỗ mực. Nhìn xuống tờ giấy Tuyên trắng phau trên mặt bia, tôi cố gạt bỏ mọi tạp niệm trong đầu, tập trung tinh thần vào hơn một trăm chữ này.
Anh Từ đã chuẩn bị sẵn con đập. Đó là hai cục bông trông như củ tỏi, bên ngoài bọc hai lớp vải lụa, đáy phẳng. Tôi dùng bút lông quết mực vào lòng đĩa, đây là loại mực Tùng Yên*, chất lượng thượng hạng, còn được anh Từ thêm vào nửa bát lòng trắng trứng, trông óng ánh đẹp mắt. Kế đó, tôi phết mực lên con đập, xoa vào nhau cho thật đều, sau đó cầm vỗ lên mặt giấy.
Theo sách miêu tả thì khi vỗ cần nhẹ tay, trước nhẹ sau nặng, làm đi làm lại ba bốn lần, tới khi đen bóng lên như than đá, đen trắng rõ ràng mới coi là được. Nhưng tôi chẳng mấy chốc đã nhận ra trò vỗ mực này cũng như trượt băng, nói thì đơn giản, thực ra chẳng dễ dàng gì. Tôi siết chặt con đập, cầm thế nào cũng thấy ngượng tay, đừng nói là vỗ.
Trong sách còn nói rập mực phải “trước nhẹ sau nặng”, khiến tôi càng lúng túng tợn. Thế nào là nhẹ, thế nào là nặng? Tôi cầm con đập chà từng mảng, không mờ quá thì lại bị đọng thành vũng. Loay hoay mãi mới rập được một hàng, nhìn lại thì thấy vết mực lem nhem, tệ không tả nổi. Định vỗ thêm mấy cái, không ngờ lại hơi quá tay, làm giấy dúm cả, phải vỗ cho phẳng mới làm tiếp được. Tôi nghiến răng vỗ quần quật được một lượt, cúi đầu xem lại, khoan bàn đến việc mực có đều hay không, chỉ nhìn chữ nào chữ nấy đậm nhạt loang lổ đã chẳng muốn đọc. Ngẫm kỹ lại có lẽ là do ban sáng tôi đập chữ chưa đến nơi đến chốn, giấy chưa ghim chặt vào mặt bia, không thể hiện được những nét lồi lõm của con chữ nên lúc rập mới tệ thế này.
Tôi loay hoay cả buổi chiều, bỏ đi đến bảy tám tờ giấy tuyên, mệt hoa cả mắt mà vẫn chưa rập được bản nào. Bấy giờ mới biết kỹ thuật này nhìn thì dễ, thực ra còn khó hơn cả khiêu vũ.
Gần tối, anh Từ khệ nệ vác một bao gạo to tướng về. Ra sân sau, thấy tôi hì hục toát mồ hôi mà chẳng nên cơm cháo gì, anh ta nhìn tôi một lát rồi cúi xuống làm mẫu một lần. Đúng là dân chuyên có khác, rập nhẹ như không, điêu luyện tựa mây trôi nước chảy, chưa kịp nhìn xem anh ta thao tác thế nào thì mặt bia đã được quét một lớp mực đen đều.
Từ đặt con đập xuống, buông nhẹ tênh chín tiếng, “Đừng dùng ngón tay, dùng sức cổ tay thôi.” Tôi làm theo, quả nhiên khá hơn hẳn. Đang định cúi xuống rập tiếp thì anh Từ ngăn tôi lại.
“Trời tối rồi, mai làm tiếp.”
Hai chúng tôi thu dọn đồ đạc, chuyển hết vào nhà. Cơm nước đã xong xuôi, cơm ăn với rau xào, còn có mấy cây nấm.
Chúng tôi ngồi cạnh bếp lò, im lặng ăn cơm. Tôi đặt bát xuống, quẹt miệng, thốt ra câu hỏi đã ấp ủ từ lâu, “Anh ở đây bao lâu rồi?”
“Tám năm.” Anh Từ đáp cụt lủn.
“Chỉ rập bia thôi à?”
“Ừ.” Lúc rập bia anh Từ phóng khoáng bao nhiêu thì khi nói chuyện lại kiệm lời bấy nhiêu.
“Tại sao?” Tôi đánh bạo hỏi.
Từ đặt đũa xuống nhìn tôi, “Vì bia ở đó.”
Câu trả lời này đầy tính triết học, nhưng thực ra là hỏi một đằng trả lời một nẻo. Hình như anh ta đang né tránh nên tôi cũng không tiện gặng tiếp... Cả hai lẳng lặng ăn cho xong bữa. Tôi xung phong nhận chân rửa bát anh Từ cũng chẳng buồn khách sáo, quay người vào phòng thắp đèn dầu lên rồi bắt đầu viết lách. Tôi dọn dẹp xong bát đũa, thấy cơ thịt căng cứng, không nằm nổi, đành đi dạo lòng vòng trong cánh rừng gần nhà. Vừa được nhàn nhã, những ý nghĩ lộn xộn lại kéo đến. Tôi chẳng biết Yên Yên trong tù thế nào rồi, cũng không biết Lưu Nhất Minh và Minh Nhãn Mai Hoa giờ ra sao, rúc trong núi rập bia thế này rốt cuộc là rèn luyện hay trốn tránh? Vô vàn câu hỏi hiện lên trong đầu tôi.
Tôi biết phải gạt bỏ những suy nghĩ lung tung, nhưng đây không phải suy nghĩ lung tung.
Tôi đi lang thang bên ngoài mấy vòng, càng đi càng sốt ruột, mấy lần thậm chí định bỏ đi quách. Nhưng hễ nghĩ tới hai gương mặt đắc ý của Chung Ái Hoa và Đới Hạc Hiên, tôi lại gắng nín nhịn, quay về căn nhà kia. Vừa bước vào, tôi đụng ngay phải anh Từ từ phòng đọc sách đi ra. Anh ta chăm chú nhìn tôi rồi chìa ra mấy miếng vải lụa và cục bông, “Làm mấy con đập đi.” Tôi nhận lấy, thoạt đầu là ngạc nhiên, rồi hiểu ra ngay. Bông thấm mực không rửa sạch được nữa nên một con đập chỉ rập được một hai tấm bia, phải liên tục làm cái mới. Có nhân lực miễn phí là tôi đây, đời nào anh Từ lại chịu bỏ qua.
Con đập nhìn thì đơn giản, nhưng làm cũng chẳng dễ tí nào. Vải và bông chất liệu khác nhau, muốn bó lại thành một nắm hình củ tỏi, mặt vỗ phẳng như bàn là thì phải chia vải và bông ra từng lớp để mực thấm đều. Một dụng cụ đơn giản như vậy mà tôi làm nửa buổi tối chỉ bó được sáu cái. Sờ lên đầu mới thấy mướt mải mồ hôi.
Tôi cầm đi khoe với anh Từ song anh ta chẳng coi vào đâu, chỉ bảo tôi bỏ vào hòm dụng cụ rồi đi ngủ sớm. Cả tối vật lộn với mấy con đập, tôi đã mệt nhoài, đặt lưng xuống giường là ngủ thiếp đi, chẳng còn “suy nghĩ lung tung” gì nữa.
Một đêm yên ả trôi qua. Sáng hôm sau tôi dậy sớm, tiếp tục vật lộn với tấm bia kia. Rút kinh nghiệm từ hôm qua, hôm nay tôi làm tốt hơn nhiều. Anh Từ ở trong nhà lúi húi viết lách, thỉnh thoảng bước ra hướng dẫn mấy câu. Thầy dẫn vào cửa, còn mình tự tu, câu này quả là chính xác. Ngón rập bia này thực ra có rất nhiều phương pháp, anh Từ dạy tôi vài bí quyết, còn lại tôi phải tự làm cho quen. Như lời ông bán dầu nói, “là do quen tay thôi”.
Giờ tôi bắt đầu hiểu tại sao Lão Triều Phụng lại để mình học rập bia. Môn này cực kỳ chú trọng chuyên tâm, nhịp điệu của mắt, tay và tâm trí phải ăn khớp, không được sai lệch. Chỉ cần lơ đãng một thoáng là có thể hỏng cả bản rập. Biết bao lần tôi đã vỗ đến mảng cuối cùng, vậy mà chỉ hơi thả lỏng tinh thần đã nghe xoạch một tiếng, thế là toi công. Trong trạng thái tập trung cao độ, hai tay tôi cầm con đập, chăm chăm nhìn bia và giấy, chẳng có lúc nào rảnh mà nghĩ ngợi vẩn vơ.
Trước khi mặt trời xuống núi, cuối cùng tôi đã thành công gỡ được giấy ra khỏi tấm bia đầu tiên. Lần rập này tuy không hoàn hảo nhưng đại khái cũng không lầm lỗi, coi như đạt chuẩn. Tôi bưng bản rập còn chưa ráo mực, không nỡ rời tay, lòng phơi phới như lần đầu làm thủ công hồi tiểu học vậy.
Vui vẻ chưa được bao lâu, anh Từ đã chỉ cho tôi một tấm bia khác, “Mai cậu rập tấm này đi.”
Vừa nhìn, mắt tôi đã tối sầm. Tấm này kích cỡ cũng bằng tấm trước nhưng khắc chi chít, ít nhất phải hơn ba trăm chữ, lại còn là chữ nhỏ. Văn bia nói về một cử nhân thời Thanh, hiển nhiên là viết theo lối biền ngẫu, lời lẽ hoa mỹ, còn dùng nhiều chữ hiếm. Về mặt rập bia thì chữ hiếm không đáng ngại, hiềm nỗi quá nhiều nét, tha hồ đập chữ mệt nghỉ.
Lúc rập mực, giấy phải giữ được độ ẩm vừa phải, nếu ngừng giữa chừng để thêm nước thêm mực, màu mực sẽ hơi biến đổi. Thế nên rập bia phải rập một lèo, không được nghỉ giữa chừng. Hơn một trăm chữ tôi rập mất hai ngày, giờ lại còn hơn ba trăm chữ, chẳng biết làm đến ngày tháng năm nào đây.
Nhà anh Từ không có đồng hồ nên tôi phải trông mặt trời để ước lượng thời gian. Tấm bia thứ hai, tôi mất tròn ba ngày mới tạm coi như xong. Một ngày đập chữ, hai ngày vỗ mực, quần quật từ sáng đến tối, làm hỏng vô số giấy mực, nhìn chằm chằm đến đau cả mắt.
Anh Từ lại kiệm lời nên tôi chỉ biết lủi thủi làm một mình. Ba ngày nay tôi sức cùng lực kiệt, chẳng khác nào chạy marathon, nằm xuống là ngủ.
Tôi nghiến răng tỉ mẩn gỡ thiếp bia ra khỏi bia, cầm tới cho anh Từ xem. Anh ta đón lấy vuốt qua một lượt, khẽ gật đầu, “Cậu bắt đầu học rập bia chính thức được rồi.” Nghe vậy mắt tôi tối sầm lại, suýt ngã lăn ra đất, khiến con béc giê giật mình sủa toáng lên, vừa sủa vừa rụt lại.
Lúc ăn cơm tối, anh Từ vẫn lầm lì như thường, tôi xới hai bát cơm, không nhịn được lên tiếng hỏi, “Sao anh lại rập bia?”
Anh Từ không đáp. Tôi cứ ngỡ đã chạm trúng chỗ đau của anh ta, cầm chắc bị ăn mắng. Nào ngờ anh Từ không nổi giận mà cúi xuống và nốt miếng cơm cuối cùng trong bát, nhai nuốt xong mới lên tiếng, “Bia là do con người viết, con người khắc, con người rập. Thế nên trong bia có hồn, là vật sống. Máy ảnh và máy quay phim lưu giữ được hình dạng chứ không lưu được thần thái, không rập thì chẳng có cách nào kế tục ý tứ của chúng.”
Đây là câu dài nhất anh Từ từng nói với tôi, cũng đầy triết lý. Nhưng tôi cảm thấy anh ta vẫn lảng tránh câu hỏi.
Hôm sau, anh Từ lại chỉ cho tôi một tấm bia nữa. Tấm này còn kinh hơn, là chiếu thư của nhà vua khen ngợi một quan viên ở Nam Kinh, người nhà bèn vời thợ khắc lên bia đá để khoe khoang. Chiếu thư thiên tử, chữ nào cũng là lời vàng ý ngọc, dĩ nhiên không dám lược bỏ nét nào, lại thêm phần viết về cuộc đời và con đường làm quan của người được khen ngợi, dày đặc toàn chữ là chữ, nhìn đã hoa cả mắt. Tôi chẳng dám đếm xem có bao nhiêu chữ nữa.
May mà kinh qua hai tấm bia trước, tôi đã từ quen thành khéo, chỉ cần kiên nhẫn và tỉ mỉ hơn thôi.
Lần rập mực này thành công chưa từng có, trước nay tôi chưa bao giờ tĩnh tâm, chuyên chú làm một việc đến vậy. Mọi thứ xung quanh dường như đều không liên quan gì tới tôi. Tôi chỉ nhìn vào tấm bia trước mắt cùng những con chữ trên bia, đó là tất cả của tôi.
Trong thế giới không có đồng hồ ấy, tôi rập xong rồi ăn, ăn xong lại rập, cuối cùng chẳng nhớ đã bao nhiêu ngày trôi qua. Rốt cuộc tôi cũng rập xong tấm bia ấy như một kỳ tích, phần nền đen bóng tựa than đá, đen trắng rõ ràng, có thể coi là bản rập đẹp nhất của tôi trước nay. Anh Từ nghiệm thu, nhả ra hai chữ, “Không tồi.”
Thấy cơ hội đã đến, tôi lặp lại câu hỏi lần thứ ba, “Sao anh lại ở đây rập bia?”
Anh Từ liếc nhìn tôi rồi chẳng nói chẳng rằng, xoay người đi thẳng. Tôi thầm nhủ sao hai lần trước hỏi anh ta không giận mà lần này lại nổi cáu?
Lúc đi anh Từ không dặn tôi tiếp theo phải rập tấm nào, tôi ăn không ngồi rồi tự dưng thấy không quen. Sợ mình rảnh rỗi lại nghĩ lung tung, tôi đi quanh sân một vòng, quyết định tới hỏi anh Từ xem tiếp theo đây phải rập cái gì, vừa bước vào nhà thì thấy anh ta từ phòng đọc sách đi ra, tay còn cầm một tập tài liệu.
Tôi ngẩn người, định làm gì đây? Anh Từ đưa tập tài liệu cho tôi, “Sửa đi.” Đoạn chắp tay sau lưng đi mất.
Hay lắm, tôi từ thợ rập bia đổi ngành thành biên tập viên rồi.
Tập tài liệu này chính là thứ lần trước tôi bỏ qua không xem lén của anh Từ. Giờ được anh ta cho phép, tôi tha hồ đọc. Có điều bảo tôi sửa thì thật là hổ thẹn, bởi chữ tiểu khải của người này cực đẹp, mặt giấy sạch tinh, không một vết mực thừa. Ở thời phong kiến, có thể đi thi trạng nguyên ấy chứ, còn cần tôi “sửa” hay sao?
Tôi nằm xuống giường, chọn một tư thế thoải mái, rồi vừa xoa đầu con béc giê vừa đọc từng trang. Tài liệu này được đặt tên là Khảo sát bia Nam Kinh , thoạt trông đã biết là nói về thiếp bia Nam Kinh. Mới đọc lời tựa, tôi đã bàng hoàng.
Trong phần lời tựa, Từ Thư Xuyên viết rằng Từ Niên cha anh ta năm xưa là vệ sĩ của Tôn Trung Sơn. Sau khi Tôn Trung Sơn được chôn cất ở Nam Kinh, cha anh ta xung phong làm lính canh lăng. Năm 1949 Nam Kinh giải phóng, quân giải phóng và lính canh lăng bàn giao hòa bình, Từ Niên cũng giải ngũ. Nhờ tài rập bia, Từ Niên được điều đến cửa hàng văn vật thành phố Nam Kinh phụ trách thiếp rập bia. Từ Thư Xuyên từ nhỏ đã đi theo cha, chịu ảnh hưởng sâu sắc nên cực kỳ mê mẩn bia cổ.
Thảo nào anh Từ lại giam mình trong doanh trại bỏ hoang này, thì ra anh ta có quan hệ mật thiết với lăng Trung Sơn như vậy.
Anh Từ nói, Nam Kinh là kinh đô cũ của Lục Triều, bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm, nhưng chưa hề có cuốn sách nào tổng hợp các tấm bia ở Nam Kinh, càng không ai xúc tiến mở rừng bia Nam Kinh, quả là đáng tiếc. Di tích Cố đô trải bao phen chiến loạn đã bị hủy hoại khá nhiều, trong giai đoạn Cách mạng Văn hóa lại bị đập phá phần lớn, tới cải cách mở cửa mọi thứ đổi mới, nhiều nơi động thổ xây dựng, chẳng biết lại phá hỏng bao nhiêu nữa. Chứng kiến văn hóa Nam Kinh cứ bị mất mát, lãng quên từng chút một, hồn phách không có nơi nương náu, anh ta đã thề còn sống ngày nào sẽ tìm kiếm bia khắc khắp Nam Kinh rồi rập lại từng tấm, để tâm huyết người xưa khỏi mai một.
Bấy giờ tôi mới hiểu ra anh ta không có ý bảo mình chỉnh sửa, con người vụng ăn nói ấy đang thông qua phương thức này để trả lời câu hỏi của tôi.
Câu trả lời của anh ta thực khiến tôi bàng hoàng. Người thời nay được mấy ai có suy nghĩ dốc cả đời ra để tìm kiếm những tấm bia cổ? Chỉ có mình anh ta không hề do dự lựa chọn con đường đơn độc mà chật hẹp này thôi. Thái độ kiệm lời, hành vi lánh đời của anh Từ có lẽ cũng vì sự cô độc cố chấp ấy. Đây mới thực là vị ẩn sĩ có phong phạm thời xưa.
Có lẽ anh ta ngốc nghếch, nhưng ai dám nói cuộc đời anh ta không hạnh phúc? Ôm tâm trạng ấy, tôi lật sang nội dung chính. Phần đầu tiên là văn bia trên các loại bia cổ, phần còn lại là khảo chứng nội dung văn bia, thời gian lập bia và địa điểm cũng như lý do đào được. Phần này không dài nhưng tôi biết bất cứ đoạn nào cũng được khảo chứng kỹ càng và viết bằng vô vàn tâm huyết. Kiến thức trong đó rất khô khan nhưng logic chặt chẽ, suy luận tỉ mỉ, còn dẫn chứng nhiều nguồn tư liệu. Chẳng rõ sống trong căn nhà nhỏ này, anh ta lấy đâu ra bằng ấy tư liệu mà tra cứu, rồi phải mất bao nhiêu công sức mới chuyển được những tấm bia kia tới đây. Càng đọc tiếp, tôi càng phục sát đất.
Tôi đọc suốt một đêm, tới khi mặt trời mọc mới hết. Không phải tôi đọc chậm, mà là không dám lướt qua đoạn nào vì bái phục. Trở dậy, tôi dụi cặp mắt đỏ ngầu, trả lại tập bản thảo cho anh Từ đang ngồi bên bếp nấu cháo. Từ chẳng buồn nhìn, tiện tay đặt xuống cạnh nồi cháo, khá gần ngọn lửa. Anh ta không để tâm, song tôi lại giật nẩy, cầm ngay lên, mang vào phòng đọc sách đặt lên bàn.
“Anh Từ, tôi có câu này muốn hỏi.” Tôi quay lại ngồi xuống bên cạnh, nhìn anh ta bỏ thêm củi vào lò. Anh Từ không đáp, tiếp tục coi lửa.
Tôi bèn hỏi, “Tôi hỏi anh cùng một câu đến ba lần, sao mỗi lần anh lại trả lời mỗi khác?”
Từ đặt thanh củi xuống, “Tấm bia thứ nhất, cậu lấy sức rập bia, tôi cũng trả lời bằng sức võ biền; tấm thứ hai, cậu dùng kỹ thuật để vỗ mực, thì tôi trả lời bằng kỹ xảo, đến tấm thứ ba, tuy kỹ thuật của cậu thô sơ, nhưng đã cảm nhận được tâm ý và hồn phách trong đó nên tôi trả lời bằng tâm hồn.”
Tôi không ngờ anh ta lại nói một mạch ngần ấy chữ, ngẫm kỹ mới thấy thấm thía, không khỏi cảm khái, “Người xưa nói lấy văn chứng đạo, lấy lòng chứng đạo, chẳng ngờ anh cũng nâng việc rập bia lên một tầm cao mới.”
Anh Từ dửng dưng trước lời tán thưởng của tôi, lại ném thêm một thanh củi vào lò, “Cậu thấy những tấm bia quanh sân không?” Tôi gật đầu. Từ thở dài, “Đều là tôi cứu được từ khắp nơi trên đất Nam Kinh đấy, tổng cộng hai trăm lẻ bảy tấm, tám năm nay tôi đã rập đến sáu lần.”
Tôi sững sờ trước con số này, chẳng rõ anh ta phải bỏ ra bao nhiêu tâm huyết và nghị lực nữa? Trước là khâm phục, nhưng nghĩ kỹ lại, tôi chợt nảy ra một suy nghĩ, trước đây anh Từ đã trải qua chuyện gì mà lại quyết định lựa chọn công việc vừa khổ sở vất vả vừa không quá cần thiết này? Nếu chỉ đơn thuần là say mê bia cổ, anh ta có thể sống trong thành phố, chẳng phải dễ tìm bia hơn sao? Huống hồ chỉ cần rập một hai bản là đủ để lưu giữ nguyên trạng rồi, sao anh ta phải rập đến sáu bản, đằng sau hành vi gần như tự ngược đãi này, hẳn phải có động cơ quyết liệt.
“Tôi hỏi lại lần thứ tư nhé, sao anh lại ở đây rập bia?” Tôi nghiêm trang hỏi.
Lần đầu tiên hỏi, được trả lời bằng sức võ biền, lần thứ hai dùng kỹ xảo, lần thứ ba dùng tâm hồn, vậy lần thứ tư có lẽ sẽ dùng lòng thành nhỉ?
Thấy anh Từ chẳng ừ hử gì, tôi bèn kể chuyện mình trước. Kể từ ông nội Hứa Nhất Thành đến bố tôi Hứa Hòa Bình rồi đến tôi, lại đến cả vụ án đầu Phật liên quan tới ba đời nhà tôi. Kể mãi đến tận trưa. Tuy anh Từ chẳng nói năng gì, nhưng tôi biết anh ta đang chăm chú lắng nghe, bởi cháo trong nồi sắp cạn mà anh ta vẫn luôn tay thêm lửa.
Kể xong, tôi lặp lại, “Hỏi lần thứ tư nhé, sao anh lại ở đây rập bia?”
Thấy ánh mắt tôi đầy kiên quyết, Từ lắc đầu thở dài, đứng dậy lấy trong phòng đọc sách một tờ giấy mỏng đưa cho tôi. Tờ giấy trông có vẻ đã được cất giữ từ nhiều năm trước, ngay trên đầu là mấy chữ: “Giấy viết thư chuyên dụng của cửa hàng văn vật thành phố Nam Kinh”, mép đã hơi ố vàng. Tôi cầm lên đọc, là một bản kiểm điểm.
Nét chữ trên giấy rất giống chữ anh Từ, nhưng điêu luyện hơn. Viết rằng, “tôi” thay mặt cửa hàng văn vật mua một bản rập Đại Đường Hồi Nguyên quán Chung Lâu minh của Liễu Công Quyền* từ tay người dân, được coi là bản rập quý thời Tống, ngoài lề còn có lời bạt của nhà viết kịch Lý Ngư thời Minh. Nhưng “tôi” nhanh chóng nhận ra lời bạt của Lý Ngư được cắt từ một tấm thiếp khác thêm vào, thế là bản rập thời Minh lại thành thời Tống, giá đội lên không ít. “Tôi” làm việc không cẩn thận, sơ suất cẩu thả, gây tổn thất nặng nề cho cửa hàng văn vật Nam Kinh, phải nghiêm khắc tự kiểm điểm v.v...
Tên người viết là Từ Niên, cha của anh Từ.
Tranh chữ và bản rập đều ở trên giấy, tha hồ lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, đây cũng là thường thức nhiều năm nay trong giới cổ vật. Thế nên mấy thứ này rất dễ có hàng giả. Đám con buôn táng tận lương tâm sẽ cắt nát hàng thật ra thành mấy mảnh rồi lần lượt thêm vào vài bức tranh giả, thu lời gấp bội. Những bản rập bia đẹp nhất thời Tống thường chỉ đóng dấu chứ không có lời bạt là vì vậy.
Xem ra trong thời gian công tác tại cửa hàng văn vật, Từ Niên từng bị mắc lừa, phải làm kiểm điểm. Tôi để ý thấy phía dưới bản kiểm điểm còn có lời phê, “Tư tưởng không đàng hoàng, kiểm điểm không thành khẩn, không coi trọng tài sản của nhân dân”. Ba chữ “không” dưới thời ấy có thể coi là lời phê khá nặng nề. Thêm vào xuất thân của Từ Niên, e rằng khó mà tồn tại trong cơn phong ba chính trị sau đó.
Tôi không hỏi nữa. Từ không nói, tôi cũng đoán được đó ắt là một câu chuyện hết sức thê thảm, khiến anh ta sốc nặng, mới chọn cách lưu đày bản thân như thế. Cảm giác ấy tôi rất hiểu, nhà họ Hứa chúng tôi chẳng cũng thế ư? Đó là bi kịch của thời đại, cũng là bi kịch hàng giả đã tái diễn vô số lần trong giới cổ vật. Chuyện thế này xưa có nay có, ngày sau nhất định vẫn có, trách nhiệm của chúng tôi chẳng phải là ngăn nó sao?
Nghĩ tới đây, tôi như sực tỉnh, nhớ ra sứ mệnh của mình. Tôi là người của nhà họ Hứa trong Minh Nhãn Mai Hoa, sứ mệnh của tôi là trừ giả giữ thật. Bấy lâu mê mải ở đây, tôi suýt quên đi mất.
Theo bản năng, trước tiên tôi giật mình kinh hãi, liên tục cảnh cáo bản thân không được nghĩ ngợi lung tung kẻo tẩu hỏa nhập ma. Nhưng tôi ngạc nhiên nhận ra, lần này khi nhớ tới những chuyện ấy, cảm giác nôn nao không căng tràn lồng ngực tôi nữa, mà đã tan biến.
Chuyện gì thế này?
Tôi nghi hoặc hỏi anh Từ, “Tôi phải rập mấy tấm nữa mới được đi?”
“Mấy hôm nay cậu ngủ được không?” Anh Từ hỏi mà chẳng buồn ngoảnh lại.
“Có.” Mấy hôm nay tôi mệt lử, nằm xuống là ngủ.
“Còn nghĩ ngợi vẩn vơ không?”
“Không nghĩ nữa.”
“Vậy cậu đi đi.”
Tôi ngây người rồi ngẩng mặt lên trời cười lớn, vô cùng thoải mái, vô cùng thư thái. Thiền sư thời xưa chỉ một lời đã giác ngộ thành Phật, ba câu hỏi này của anh Từ cũng có sức mạnh không nhỏ, vạch rõ tính toán của Lão Triều Phụng, quả đã giúp tôi rẽ mây nhìn thấy mặt trời.
Trước đây tôi chìm đắm trong những lỗi lầm của mình, không lúc nào không hối hận tự trách, gần như lạc lối trong đầm lầy, tinh thần suy sụp nên mới thất bại thảm hại. Nhưng ở lăng Trung Sơn mấy hôm nay quần quật rập bia, tôi đã quên bẵng những suy nghĩ thừa thãi, mệt đến chẳng còn tâm trí buồn bã nữa.
Trước đây tôi đọc báo thấy nói có những thanh niên ở thành phố quen được chiều chuộng, kén cá chọn canh, đưa đến nông thôn một tháng là tạnh ngay thói cảnh vẻ. Thực ra trường hợp của tôi cũng gần giống vậy, chữa lành tôi không phải linh đan diệu dược gì, mà là bận rộn. Nói trắng ra là không để tôi rảnh mà suy nghĩ vẩn vơ. Thực ra rất nhiều việc chỉ cần đừng canh cánh trong lòng, ắt có thể sáng tỏ. Không phải quên lãng hay trốn tránh mà là tạm thời gác lại, để tâm trí lấy lại tỉnh táo đã. Chỉ cần hiểu được điểm này, tôi sẽ gạt bỏ được ám ảnh, không bị vây hãm trong đó nữa.
Nam Kinh không hổ là đất cố đô, vương khí Tử Kim chẳng những dưỡng ngọc nuôi bình mà còn dưỡng cả người. Nhờ mấy phen rập bia, tôi đã xua tan được ám ảnh tâm lý, tâm trí sáng suốt, sảng khoái vô cùng.
“Giờ là lúc nào rồi?” Tôi hỏi, cảm giác như được tái sinh.
“Mười ngày.” Ý anh Từ là tôi đến đã được mười ngày.
“Tôi phải đi đây.” Tôi đề nghị.
Lần này Từ không đè vai tôi nữa mà đứng dậy giơ tay chỉ về một hướng, “Đi bộ khoảng 5 kilomet từ đây sẽ tới một trạm gác. Ở đó cậu có thể gọi điện sau đó đi thêm vài kilomet nữa đến khu du lịch, ở đó có xe, sẽ đưa cậu về Nam Kinh.”
Tôi đã trừ được ám ảnh, chẳng còn gì lưu luyến, ngay cả hành lý cũng không có, lập tức từ biệt anh Từ. Anh ta cũng chẳng níu kéo mà quay vào trong cuộn ba tấm thiếp rập bia tôi làm lại, đưa cho tôi. Tôi nắm tay anh ta, toan nói mấy câu cảm tạ vị ẩn sĩ thời nay mà không sao thốt nổi thành lời, bởi những câu phàm tục ấy không thích hợp nói với anh ta. Nghĩ một lúc cũng chẳng tìm được lời nào hay ho, tôi chỉ biết ngượng nghịu nói, “Cảm ơn anh.”
Anh Từ vẫn trơ trơ không biểu cảm, vẫy tay rồi quay người trở vào nhà. Mười ngày này có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tôi, song với anh ta thì chỉ là một tạp âm trong cuộc đời ẩn cư mà thôi.
Tôi sải bước đi về phía trạm gác anh Từ chỉ. Một mình đi giữa núi rừng, cảm thấy nhẹ nhõm chưa từng có, phơi phới như tiên, những ám ảnh trước đây giống như thiếp rập bia, bị lột ra từng lớp một, để lộ diện mạo thật của tôi.
“Tôi về rồi đây.” Tôi vung nắm tay hét với ra ngoài núi, như một đứa trẻ ngốc.
Chẳng bao lâu tôi đã đến trạm gác, gọi điện cho Dược Bất Nhiên rồi bắt xe của khu du lịch vào thành phố. Vừa xuống xe, đã thấy xe Dược Bất Nhiên đậu ở đó đợi sẵn.
Thấy tôi, gã cười hì hì nhận xét, “Mười ngày không ăn thịt, mày gầy đi rồi đấy.”
Dược Bất Nhiên vừa lái vừa kể lại cho tôi những chuyện xảy ra trong mười ngày nay. Trong thời gian tôi vùi đầu rập bia, tình hình Minh Nhãn Mai Hoa ngày càng nguy cấp. Bảo tàng Cố cung im lặng lâu nay, lần đầu tiên công khai phát biểu thanh minh, nói rằng bức “ Thanh minh thượng hà đồ bản gốc” ở Hồng Kông hoàn toàn là bịa đặt. Ngay sau đó sàn đấu giá Bách Thụy Liên cũng phát biểu nói muốn công khai tiến hành giám định Cacbon-14 bức của mình và bức trong Cố cung dưới sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
Định tuổi bằng Cacbon-14 là một phương pháp khoa học để xác định niên đại văn vật. Cacbon-14 là chất đồng vị có tính phóng xạ, các loài động thực vật trên trái đất khi hít thở sẽ hít vào cả cacbon-14; sau khi sinh vật ngừng hô hấp và chết đi, cacbon-14 trong cơ thể chúng sẽ ngừng tăng thêm, và bắt đầu tiêu giảm dần theo thời gian. Vì tốc độ tiêu giảm cacbon-14 vô cùng ổn định, thời gian bán rã cố định là 5730 năm, nên chỉ cần kiểm tra đo hàm lượng cacbon-14 trong di hài sinh vật là có thể đoán được niên đại của nó.
“Giờ cả tranh lụa cũng kiểm định được bằng cacbon-14 rồi à?” Tôi nghi hoặc hỏi. Thanh minh thượng hà đồ là tranh lụa, không phải sinh vật, sao có thể ứng dụng kỹ thuật này được?
Dược Bất Nhiên giải thích, “Vốn là không thể, nhưng giờ khoa học kỹ thuật đã thực hiện được rồi, giáo sư Trịnh vẫn miệt mài làm cái đó đấy thôi. Mày nghĩ xem, tuy lụa không phải sinh vật, nhưng lụa được dệt từ tơ tằm, mà vòng đời con tằm từ lúc nhả tơ kéo kén tới lúc chết rất ngắn. Vì thế thời điểm tơ tằm được sinh ra cũng gần như thời điểm sống của con tằm và đồng nghĩa với thời điểm dệt nên tấm lụa.”
“Giờ có thể xác định chính xác đến bao nhiêu năm?”
“Vốn dĩ biện pháp này chỉ có thể kiểm định từ mấy vạn năm đến mười mấy vạn năm, hiện giờ may ra thì chính xác đến khoảng năm trăm năm.”
“Hừm, vậy là đủ rồi.”
Tống Huy Tông đăng cơ năm 1100, còn Vương Thế Trinh làm giả Thanh minh thượng hà đồ sớm nhất cũng phải từ năm 1526. Chênh lệch bốn trăm năm, có thể ứng dụng kỹ thuật giám định Cacbon-14 đến mức tối đa rồi. Thực ra chẳng cần tính đến bốn trăm năm này, chỉ cần xem trong hai bức bức nào đó trước bức nào có sau, ắt mọi nghi vấn sẽ được giải quyết ngay. Dược Bất Nhiên cười nhạt, “Tiếc rằng giám định Cacbon-14 cần lấy mẫu, phải cắt một miếng từ bức tranh để giám định, mà còn phải ở phần chính giữa. Lần này Bách Thụy Liên đúng là mạnh tay, không tiếc cắt cả Thanh minh thượng hà đồ của họ ra, hẳn là muốn xem Cố cung có dám tiếp chiêu không.”
Nghe Dược Bất Nhiên nói vậy, tôi hiểu ngay lần này Minh Nhãn Mai Hoa rắc rối to rồi. Thứ trong tay Bách Thụy Liên là đồ giả nên họ mới chịu mất tiền xẻo một mảnh đem giám định, nhưng bảo tàng Cố cung đâu thể chấp nhận phương pháp giám định này được? Có điều hiện giờ chỉ có cách xác định niên đại bằng Cacbon-14 là công bằng nhất, nếu Cố cung không chấp nhận, dư luận sẽ cho là có tật giật mình.
Nhận lời hay không đều khó cả.
Quả nhiên Dược Bất Nhiên kể với tôi, Cố cung đến nay vẫn giữ im lặng, song dư luận đã xôn xao bàn tán. Báo chí trong nước còn bị Lưu Nhất Minh dùng quan hệ át đi, nhưng truyền thông nước ngoài đã viết hàng loạt bài dài dằng dặc nghi ngờ tính xác thực của bức tranh cất trong Cố cung. Mấy bài báo tôi khơi ra được trích dẫn liên tục, thậm chí còn có nhà báo đặt điều rằng người vạch trần Thanh minh thượng hà đồ đang bị giam lỏng, cần quốc tế cứu giúp.
Tôi lắc đầu than thầm, đòn này của Bách Thụy Liên vừa đau vừa độc, quả thực đã dồn Minh Nhãn Mai Hoa đến chân tường.
Thực ra tôi vẫn nghi ngờ, nếu tranh của Cố cung là thật thì cứ lấy ra so với hàng giả của Hồng Kông là xong, sao Lưu Nhất Minh phải vừa gánh áp lực dư luận vừa câu giờ đợi tôi tìm ra quân át chủ bài để phản công?
Lẽ nào vật trong Cố cung là giả?
Nghĩ vậy tôi run bắn lên, nhưng mấy ngày rập bia cũng không uổng công, chẳng mấy chốc tôi đã định thần lại ngay. Cụ Lưu đã khẳng định tranh là hàng thật, tôi không nên nghi ngờ ông ấy. Tin người thì đừng ngờ, tôi phải tìm cho ra quân át chủ bài, còn những việc khác khoan bàn tới.
Dược Bất Nhiên xoay vô lăng, quay sang cười nói, “Ái chà, tao cứ tưởng hay tin này mày sẽ được phen đau lòng nhức óc cơ đấy, xem ra đã khá hơn rồi nhỉ.”
Tôi lạnh lùng hỏi, “Yên Yên thế nào rồi?”
“À, Yên Yên vẫn chưa được thả, nhưng tao đã đút lót hết người ở trại tạm giam rồi, không phải chịu khổ đâu, yên tâm.”
“Đới Hạc Hiên thì sao? Tao nhớ mày nói đến lượt mày ra tay rồi mà?”
Dược Bất Nhiên vỗ lên vô lăng cười xảo quyệt, “Ha ha, mày về cũng đúng lúc lắm, tối nay tao thu lưới, mày cùng đến xem nhé.”
Tôi không hỏi nữa, đan hai tay vào nhau đặt trước kính chắn gió, nhìn thẳng phía trước.
Xe jeep bon bon chạy qua phố xá Nam Kinh, Dược Bất Nhiên không đưa tôi về phía bờ sông mà đưa đến khách sạn Nam Kinh. Đây là khách sạn chuyên tiếp khách nước ngoài xịn nhất Nam Kinh đầu những năm 90, không đâu sánh bằng. Bên trong trang hoàng lộng lẫy, chẳng kém gì mấy khách sạn Hồng Kông trong băng video.
Nhưng Dược Bất Nhiên đưa tôi đến đây làm gì? Lẽ nào gần đây Lão Triều Phụng tốt tính đột xuất, hào phóng chi tiền cho chúng tôi ở khách sạn xịn?
Dược Bất Nhiên dừng xe gần đó rồi cùng tôi đi vào sảnh. Gã đã đặt sẵn phòng, còn ở tầng cao. Sau khi vào phòng, Dược Bất Nhiên bảo phải chuẩn bị một chút, dặn tôi cứ nghỉ ngơi, lát nữa gã sẽ gọi. Dù sao cũng là Lão Triều Phụng trả tiền nên tôi chẳng buồn khách sáo, vội vàng đi tắm nước nóng cho thoải mái.
Tôi đứng trong buồng tắm ngửa cổ lên, để nước nóng chảy tràn xuống thân thể trần trụi, trục hết khí lạnh tích tụ mấy ngày nay ở lăng Trung Sơn, xua tan ám ảnh tâm lý. “Ông ơi, bố ơi, con về rồi đây” Tôi lẩm bẩm.
Tắm táp xong xuôi tôi lấy khăn bông lau tóc, chợt thấy trên giường đã xếp ngay ngắn hai bộ quần trắng gile đỏ, giống hệt đồ của người phục vụ mở cửa cho chúng tôi dưới sảnh. Cạnh đó còn một xấp tài liệu tuyên truyền in trên giấy phủ bóng vô cùng sắc nét. Tôi lật vài trang, thấy đều nói về các món đồ gốm quý giá. Thấy Dược Bất Nhiên đi vào, tôi bèn hỏi gã thế này là sao. Dược Bất Nhiên bảo tôi mặc quần áo vào, nhưng không giải thích tại sao, chỉ nói cứ nghe gã là được.
Tôi không biết gã định bày trò gì, dù sao giờ có bán đứng tôi cũng vô nghĩa nên tạm nghe theo gã, thay quần áo mới. Dược Bất Nhiên cũng mặc một bộ, hai chúng tôi lắc mình một cái đã thành nhân viên khách sạn. Gã còn lôi ra hai chiếc mũ đỏ, một chụp lên đầu tôi, trông rất tức cười.
Dược Bất Nhiên xem giờ thấy đã gần năm giờ bèn bảo tôi ôm chồng tài liệu rời phòng. Chúng tôi đi đến hành lang sảnh tiệc ở tầng hai, đột nhiên Dược Bất Nhiên dừng bước, giơ tay vịn vào lan can thò đầu ra nhìn rồi cười bảo tôi, “Chính chủ đến rồi.”
Đại sảnh có cầu thang xoắn ốc bằng đá Đại Lý thông lên sảnh tiệc tầng hai, một đám người đang đi lên. Tôi định thần nhìn kỹ, thấy chính giữa đoàn người là một ông lão hiền hòa tóc bạc phơ, tay cầm ba toong, vận một bộ áo đại cán bốn túi, bên phải là Đới Hạc Hiên mặc áo cân vạt cổ cao, hai tay bưng một hộp gỗ tử đàn, có vẻ vô cùng quý giá. Xung quanh họ là mấy người trung niên, trông dáng vẻ cứ như quan chức chính phủ, trong đó có cả cục trưởng Vương tôi gặp lần trước ở nhà Đới Hạc Hiên, họ kính cẩn đi cách Đới Hạc Hiên và ông cụ kia một quãng, vòng ngoài nữa là mấy người trông như thư ký và đệ tử của Đới Hạc Hiên. Đoàn người này tạo thành ba vòng rõ rệt, từ từ di chuyển lên tầng hai.
Tôi nhìn Dược Bất Nhiên, gã đắc ý khoe, “Hôm ấy vừa đến nhà Đới Hạc Hiên đã nghe lão bảo cục trưởng Vương rằng tuần này có tiệc rượu nên tao đoán chừng tiệc rượu cũng khá long trọng. Đầu bếp của khách sạn quốc tế Nam Kinh rất nổi tiếng, chuyên làm món Hoài Dương, Đới Hạc Hiên muốn mời khách, mười phần chắc tám sẽ dẫn tới đây.”
“Ông già kia là ai?”
“Không biết, nhưng chắc vai vế không vừa đâu. Mày có để ý không? K?