Chương 4 Bức Thanh minh thượng hà đồ thứ hai xuất hiện ở Hồng Kông
Tối nay, giáo sư Trịnh lại tới thăm tôi, mắt ông trũng sâu, người xọp hẳn đi so với lần gặp trước. Tôi biết lỗi nên rụt cổ lại e dè chào một tiếng rồi nín khe chẳng dám nói năng gì.
Giáo sư Trịnh đi thẳng vào đề, “Cậu nghe tên sàn đấu giá Bách Thụy Liên bao giờ chưa?”
“Cái tên này nghe quen quen, hình như là một sàn đấu giá cổ vật lớn ở Hồng Kông, tên tiếng Anh là Brilliant, nổi tiếng vì từng đấu giá bút tích Mễ Phất và một bình gốm Thanh Hoa thời Minh. Nhưng tôi chỉ biết tới đó thôi.”
“Chung Ái Hoa và Mai Tố Lan chưa từng nhắc đến cái tên này với cậu thật chứ?” Giáo sư Trịnh nhìn xoáy vào mắt tôi, vẻ không tin lắm.
“Chắc chắn là không mà.” Tôi khẳng định. “Có chuyện gì ạ?”.
Giáo sư Trịnh rút trong túi áo ra tờ báo đưa tôi, vừa cầm vào tay, tôi đã thấy chất giấy khang khác, không phải ấn phẩm nội địa. Mở ra xem, thấy từng cột chữ phồn thể, hóa ra là Đại công báo của Hồng Kông. Ngay trang đầu, tôi đã bắt gặp một tin sét đánh.
Bách Thụy Liên tuyên bố họ đã mua được bản gốc Thanh minh thượng hà đồ từ tay một nhà sưu tầm giấu tên, định đem ra đấu giá công khai, tiền thu được sẽ quyên góp cho Quỹ Hy vọng*. Đồng thời họ cũng bày tỏ muốn hợp tác với cơ quan giám định chuyên nghiệp để làm rõ chân tướng.
Phía sau còn đính kèm một đoạn khảo chứng điển cố dài dằng dặc, đại khái giống câu chuyện Vương Thế Trinh mà chị Tố kể cho tôi. Bách Thụy Liên nói bấy giờ bức Thanh minh thượng hà đồ triều đình tịch thu từ phủ Nghiêm Tung là hàng giả của tên họ Vương, còn bản gốc thực sự đã được Vương Thế Trinh đem về nhà, từ đó vẫn cất giấu trong dân gian, tới ngày nay mới lộ diện.
Tôi đọc mà rúng động, tuột tay đánh rơi cả báo.
Hóa ra tôi vẫn đánh giá thấp Lão Triều Phụng.
Cứ ngỡ lão bày ra kế này để hãm hại Minh Nhãn Mai Hoa, tiện thể làm nhục tôi. Nhưng tầm nhìn của lão đã vượt xa những gì tôi tưởng tượng. Mọi sắp đặt khi trước chỉ là bàn đạp, chiêu giết người và âm mưu thực sự lại mai phục ở đây.
Bất luận giám định hay khảo cổ đều có một nguyên tắc, gọi là không thành lập chứng cứ duy nhất. Chỉ có một bằng chứng thì không gọi là chứng cứ, nhất định phải có chứng cứ khác bổ trợ. Thế nên hai điểm đáng ngờ của Thanh minh thượng hà đồ thực ra là Lão Triều Phụng mượn miệng chị Tố nói ra, tuy gây phiền phức cho Hội nhưng không đủ để lật đổ kết luận giám định phía Cố cung.
Có điều, nếu đúng lúc sống còn này lại tòi ra một bản gốc nữa thì khác.
Cạnh chứng cứ có chứng cứ, không phải bằng chứng duy nhất nữa.
Thanh minh thượng hà đồ không có lời bạt của tác giả cũng chẳng nói lên điều gì, có thể đã bị xén mất, bị hư tổn v.v..., đủ mọi khả năng có thể tồn tại. Nhưng nếu xuất hiện một bức khác giống hệt lại đầy đủ lạc khoản, so sánh ra thì bức ban đầu rất có thể không phải là thật. Cũng như tôi tới đồn công an nhận cái ví, mà không nhớ bên trong có bao nhiêu tiền, không có nghĩa là tôi nhận vơ mà có thể chỉ vì trí nhớ kém. Nhưng nếu đúng lúc ấy lại có một người khác cũng đến nhận, còn kể rõ bên trong có mấy tờ giấy bạc, thì cảnh sát sẽ tin ai?
Thế nên trước đây Minh Nhãn Mai Hoa còn có thể viện cớ “không đủ bằng chứng” để đáp lại những nghi ngờ, song bức Thanh minh thượng hà đồ của Bách Thụy Liên xuất hiện đã cắt đứt đường lui của chúng tôi, chẳng còn cách nào khác ngoài chấp nhận đối chất công khai. Mà Lão Triều Phụng đã dám để đôi bên công khai đối chất, nhất định phải nắm chắc có thể khiến bức của Bách Thụy Liên đánh bại bức trong Cố cung, trở thành bản Thanh minh thượng hà đồ chính thức. Trong khi đó đám cục trưởng Lưu cứ úp mở lập lờ, né tránh không trả lời trực tiếp về hai chỗ sơ hở nọ, càng khiến Thanh minh thượng hà đồ của Cố cung trở nên đáng ngờ. Ít nhất bây giờ tôi chẳng còn chút lòng tin nào nữa.
Cũng có nghĩa là một khi bài báo này được công bố, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chỉ còn nước cắn răng đánh một trận thua chắc mười mươi tại chiến trường kẻ địch chỉ định.
“Đây là báo hôm qua ư?” Tôi hỏi.
“Phải, người của chúng ta ở Hồng Kông đi thâu đêm đưa tới đấy. Hôm nay cánh báo chí Hồng Kông và Quảng Đông đã trích đăng lại, chẳng bao lâu nữa sẽ lan ra cả nước. Tới lúc ấy cục trưởng Lưu cũng chẳng ém đi nổi.”
Tôi hít sâu một hơi, nhìn vào mắt giáo sư Trịnh. Hai chúng tôi đều bắt gặp vẻ kinh hoàng trong mắt nhau. Từ dụ tôi vào tròng tới công bố bức tranh của Bách Thụy Liên, bước nào bước nấy vững vàng chắc chắn, đủ thấy bàn tay trù tính và thực hiện chuỗi kế hoạch này đáng sợ nhường nào.
Tôi hỏi giáo sư Trịnh giờ Hội định thế nào, ông thở dài kể số điện thoại của Hội đã sắp bị gọi đến cháy máy, cấp chủ quản ở trên và rất nhiều đối tác đều có ý định thối lui. Đúng lúc này cụ Lưu lại nằm viện, không có ai chủ trì cục diện, Minh Nhãn Mai Hoa như rắn mất đầu, rối ren chẳng biết phải làm sao.
Cục trưởng Lưu cũng bó tay chịu chết, tôi càng không thể làm gì, chỉ biết nghiến răng nghiến lợi, “Lão khốn đó định dồn Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta vào đường cùng cả lượt ư.”
Giáo sư Trịnh lắc đầu, “Chỉ sợ người ta còn có dụng ý khác ấy chứ.”
“Giáo sư nói sao cơ?” Tôi ngẩn người.
“Cậu đừng quên trong nước cấm mua bán Thanh minh thượng hà đồ .” Giáo sư Trịnh nhẹ nhàng buông một câu, ánh mắt lóe lên sau cặp kính. Câu này chẳng khác nào sấm sét, đả thông mạch suy nghĩ của tôi. Tôi bải hoải ngồi phịch xuống giường bệnh, vỡ lẽ.
Bản gốc Thanh minh thượng hà đồ được bảo tồn trong Cố cung, nghiêm cấm mua bán. Nếu bức này được chứng thực là giả thì bức của Bách Thụy Liên Hồng Kông tự nhiên sẽ thành thật. Hồng Kông còn chưa trở về Trung Quốc, Đại Lục đến lúc đó Lão Triều Phụng chỉ cần đấu giá công khai bản gốc qua Bách Thụy Liên, sẽ được một món kếch xù.
Lão chỉ tiện thể hãm hại Minh Nhãn Mai Hoa và Hứa Nguyện mà thôi. Mục đích thực sự của lão nằm ở đây kia!
Năm 1989, sàn đấu giá Christie's New York từng bán một bức Thu liệp đồ * trong hoàng cung nhà Nguyên với giá ngất nghểu một triệu tám trăm bảy mươi nghìn đô la Mỹ. Mà giá trị của Thanh minh thượng hà đồ cao hơn Thu liệp đồ không biết bao nhiêu lần, chưa chừng lại như bức Hoa hướng dương của Van Gogh, bán được tới bốn mươi triệu đô la Mỹ.
Về phần quốc bảo Trung Hoa bị lọt ra ngoài, chỉ có tôi, Hội nghiên cứu và một tỷ dân toàn quốc để tâm, chứ Lão Triều Phụng nhất định chẳng buồn nhíu mày.
Có lợi mới làm, Lão Triều Phụng lần này một mũi tên trúng hai con chim, vừa hạ gục được kẻ thù, lại ẵm được món tiền to, dù mất công xưởng nhỏ ở làng Thành Tế cũng còn hơi chán. Cục diện này được sắp đặt kín kẽ, móc nối chặt chẽ, đùa bỡn nhân tính, thực là nham hiểm đến cực độ.
Lần này e rằng không chỉ kế hoạch mở sàn đấu giá đi tong mà Minh Nhãn Mai Hoa còn phải hứng chịu tai họa ngập đầu.
Tay chân tôi run lẩy bẩy, đầu dây mối nhợ của tất cả những việc này đều từ tôi mà ra cả. Liệu tôi còn trốn trong phòng bệnh được bao lâu? Sớm muộn gì vẫn phải bước ra đối mặt với cục diện rối ren ngoài kia. Nếu Minh Nhãn Mai Hoa sụp đổ vì tôi, tôi còn mặt mũi nào đi gặp ông và bố nữa.
Thấy mặt tôi xám ngoét, giáo sư Trịnh cũng chẳng nỡ mắng, đành khuyên giải đôi lời, nói rằng cục trưởng Lưu sẽ nghĩ cách. Nhưng chính bản thân ông cũng chẳng tin lắm. Tôi ngẩng phắt lên, gào lớn, “Để tôi đi tìm đám phóng viên, dù thân bại danh liệt, tôi cũng phải nói rõ sự thật!” Giáo sư Trịnh vội kéo tôi lại, “Cậu chưa hiểu à? Chuyện này chẳng liên quan gì tới cậu nữa rồi. Giờ chẳng ai quan tâm đây có phải âm mưu hay không đâu, họ chỉ tập trung chú ý vào hai bức Thanh minh thượng hà đồ , muốn biết bức nào thật bức nào giả thôi.”
“Lẽ nào tôi cứ trốn trong nhà chẳng làm gì cả ư?”
“Cậu phải bình tĩnh! Nếu giờ cậu ra mặt, chỉ gây hại cho Minh Nhãn Mai Hoa thêm thôi!” Giáo sư Trịnh quát. Nghe vậy, tôi đành ngoan ngoãn nằm xuống.
Thấy tôi lại nằm xuống giường, giáo sư Trịnh giơ tay nhìn đồng hồ, tỏ ý định về. Ra đến cửa, ông chợt quay đầu lại, hạ giọng nói thêm, “Cậu đừng quá áy náy, nếu cậu không mắc bẫy, thì cũng có kẻ khác mắc thôi. Thủ đoạn của Lão Triều Phụng, chúng ta quả khó lường hết được.”
Nghe ông nói vậy, tôi cũng chẳng dễ chịu hơn là bao.
Suốt buổi tối tôi cứ bồn chồn đi đi lại lại trong phòng như con sói trong chuồng ở vườn thú Bắc Kinh, không sao ngủ được. Giáo sư Trịnh nói đúng, cục diện đã đến nước này, người như tôi chẳng chen vào đâu được nữa, cảm giác hối hận và bất lực bủa vây, khiến tôi tức thở. Tôi ngồi thụp xuống góc tường, cuộn tròn người lại, khóc không ra nước mắt. Lúc này tôi chỉ mong sao có một bàn tay to lớn đặt lên vai, rồi có người an ủi, “Con à, đừng lo, mọi chuyện đã có ta đây.”
Tiếc rằng yêu cầu nhỏ nhoi này chỉ là ảo tưởng.
Chẳng biết mấy giờ rồi, ngoài cửa sổ tối đen như mực, hình như còn sắp đổ mưa. Tôi ngồi thu lu trong góc, không bật đèn, đầu óc trống rỗng. Bỗng nhiên di động cạnh gối đổ chuông, làm rung cả giường. Tôi đờ đẫn đứng dậy bắt máy, đầu kia vang lên một giọng nam lạnh lùng.
“Hứa Nguyện à?” Người nọ hỏi độp ngay.
“Đúng.” Tôi hơi bực, số di động của tôi chỉ có mấy người biết, nhưng giọng này nghe lạ hoắc.
“Dùng cả di động cơ đấy, lắm tiền quá nhỉ.” Đối phương cợt nhả huýt sáo trong điện thoại.
Tôi chẳng còn bụng dạ nào tán dóc, bèn hỏi hắn có việc gì. Đối phương vặn lại, “Hoàng Yên Yên là bạn gái anh hả?” Tim tôi thắt lại, sực nghĩ Yên Yên đi Nam Kinh lâu lắm không liên lạc, tôi cũng bận chuyện Thanh minh thượng hà đồ , chẳng nghĩ đến việc tìm cô. Giờ đã quá nhiều chuyện xui xẻo rồi, chỉ mong cô đừng xảy ra chuyện gì nữa.
“Cô ấy là bạn tốt của tôi.” Tôi đáp.
“Bạn gái anh xinh thế, chắc yêu anh vì tiền hả? Con gái thời nay chỉ chăm chăm nhìn vào tiền thôi, nhân phẩm không quan trọng, chậc.”
“Rốt cuộc cô ấy làm sao?” Tôi chẳng hơi đâu cải chính, lo lắng siết chặt điện thoại.
“Anh biết chuyện cô ta đến Nam Kinh không? Cô ta bị bắt rồi.”
“Gì cơ?”
“Tình nghi đánh người gây thương tích và trộm cắp văn vật bậc hai, đã bị cảnh sát chúng tôi tạm giam rồi.”
Nghe như sét đánh giữa trời quang. Mắt tôi tối sầm lại, suýt nữa tái phát bệnh cũ. Thấy tôi im lặng, đầu kia a lô liền mấy tiếng, “Anh có lương tâm không thế, vừa nghe nói con gái nhà người ta xảy ra chuyện đã bỏ mặc rồi?”
Tôi hạ thấp giọng, “Rốt cuộc chuyện là thế nào?”
“Biên bản lời khai cụ thể thế nào tôi cũng chưa xem, nhưng nguyên cáo là người nổi tiếng, tên Đới Hạc Hiên, anh nghe bao giờ chưa? Cô Hoàng Yên Yên này đến nhà ông ta ăn cắp cổ vật, còn đánh người ta bị thương. Phải huy động ba bốn bảo vệ mới khống chế được cô ta. Bạn gái anh ghê thật đấy. Giờ đồn Công an đã tạm giữ cô ta theo pháp luật rồi, có lẽ sẽ bị khởi tố tội trộm cắp và đánh người. Chậc chậc, trêu vào ai không trêu, lại đi trêu thầy Hiên.”
Tôi không biết Đới Hạc Hiên lai lịch thế nào, phải hỏi một câu trước đã, “Anh là ai vậy?”
“Tôi là người ở trại tạm giam, vừa rồi cô ta níu tôi lại, nhờ tôi gọi điện báo tin hộ, nói là sẽ cảm ơn tôi.”
Thần kinh tôi căng lên, lại nghe đầu kia cười ha hả, “Anh khỏi ghen, tôi cũng thích lắm đấy, nhưng không phải cảm ơn kiểu kia đâu... Cô ta bảo gọi điện cho anh, anh sẽ cảm ơn tôi tử tế. Đúng không?”
“Đúng thế, cảm ơn anh.”
“Cảm ơn suông thôi à? Tôi muốn tiền.”
“Bao nhiêu?”
“Chắc anh sẽ tới Nam Kinh tìm cô ta đúng không? Tới lúc đó còn phải nhờ tôi nữa, nên khi nào gặp nhau thì đưa, anh đưa bao nhiêu, tôi giúp bấy nhiêu. À phải, cả người lẫn tiền đều phải nhanh nhanh lên, cô ta không trụ được lâu đâu. Tôi tên Diêu Thiên, đừng để tôi đợi lâu đấy.” Đoạn gã cười khẩy, để lại cách thức liên lạc rồi cúp máy.
Rõ ràng Yên Yên nói là đến Nam Kinh gặp mấy bậc bề trên, thuyết phục họ ủng hộ việc Hội nghiên cứu cải tổ, sao lại đến nhà ông Hiên kia ăn cắp được?
Lẽ nào đây cũng là một khâu trong kế hoạch tấn công Minh Nhãn Mai Hoa của Lão Triều Phụng?
Có thể lắm. Yên Yên phải cầu cứu một kẻ ở tít Bắc Kinh xa xôi như tôi, chứng tỏ thế lực của Hội ở Nam Kinh sắp sụp đổ, không lo nổi cho cô nữa. Tôi từ từ ngồi thẳng dậy, ánh mắt kiên nghị hẳn lên. Có lẽ tôi chẳng có tư cách tham gia vào cuộc chiến thật giả giữa hai bức Thanh minh thượng hà đồ nhưng không thể bỏ mặc Yên Yên được. Tôi phải rời bệnh viện, tôi phải tới Nam Kinh.
Tuy cục trưởng Lưu và Phương Chấn không cho phép tôi rời khỏi đây, nhưng không hề giam giữ, nên bộ đồ tôi mặc lúc vào viện cũng được giặt sạch gấp trong tủ quần áo đơn sơ bên cạnh. Tôi cởi áo bệnh nhân, mặc quần áo của mình vào, định len lén chuồn đi. Để khỏi gây chú ý, tôi còn không dám bật đèn.
Đang thay quần áo, thình lình một giọng già nua cất lên sau lưng tôi, “Khuya thế này cậu định đi đâu đấy?” Tôi vừa cho được một chân vào ống quần, nghe vậy vội quay phắt lại, thấy một bóng lưng còng thấp bé đứng trước cửa phòng.
“Cụ... cụ Lưu...” Tôi lắp bắp, chẳng ngờ lại gặp phải người không muốn gặp nhất.
Lưu Nhất Minh cũng mặc bộ đồ bệnh nhân sọc xanh lam như tôi, tay chống gậy. Ông cụ quay lưng về phía ánh đèn hành lang nên không trông rõ nét mặt. Tôi chột dạ, đang mặc quần mà xiêu hẳn người đi, suýt nữa ngã lăn, vội lật đật kéo quần lên, chạy đến dìu ông cụ, thẽ thọt hỏi, “Sao... ông lại sang đây?”
“Ôi chao, nằm viện mấy ngày buồn chết đi được. Nhân lúc thằng bé đến trông ngủ gật, tôi mới lẻn ra ngoài đi loanh quanh đấy. Thấy cậu ở phòng đối diện, tôi sang tìm người nói chuyện.” Lưu Nhất Minh huơ huơ cây gậy, ung dung đáp. Tôi thầm thở phào, xem ra cụ Lưu vẫn chưa biết Minh Nhãn Mai Hoa xảy ra chuyện, nhưng ngay sau đó, tôi đã nhận ra điểm bất thường, “Sao ông biết tôi ở bên này?”
Lưu Nhất Minh cười khà, “Hồi tối cậu chẳng hét ầm lên đấy à? Nào là tìm phóng viên, nào là thân bại danh liệt gì gì đó. Vọng cả đến bàn trực ban của y tá ấy chứ. Tôi bị ốm chứ tai đã điếc đâu.” Tim tôi đập thình thịch, bất giác cúi gằm mặt xuống, Lưu Nhất Minh nhướng đôi mày bạc trắng, điềm đạm hỏi, “Nói xem, xảy ra chuyện gì rồi?”
“Không có gì là việc riêng của nhà tôi thôi…” Tôi lấp liếm.
“Tôi lại thấy chưa hẳn?” Lưu Nhất Minh lắc lắc cây gậy, nửa cười nửa không, “Mạnh Tử có câu ‘Trong con người, chẳng gì ngay lành cho bằng con người.’ Người đến thăm nom tôi mấy hôm nay ai cũng tươi tỉnh, nhưng ánh mắt lại trùng trùng lo lắng. Lão già này nhìn người mấy chục năm nay, sao không nhận ra chứ. Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta nhất định đã xảy ra chuyện, còn là chuyện lớn, phải không nào?”
Tôi chẳng cách nào nhìn thẳng vào mắt ông, cũng không biết đáp sao cho phải. Lại nghe Lưu Nhất Minh nói tiếp, “Đừng đứng trước cửa nữa, ra ngoài kia ngồi với tôi đi, từ từ rồi nói.” Giọng điệu quả quyết, không cho phép thương lượng. Tôi đành dìu ông cụ ra hành lang bên ngoài, tìm một băng ghế gỗ gần cửa ngồi xuống.
Hành lang lặng phắc như tờ, chỉ có hai người chúng tôi, ánh đèn huỳnh quang chụp xanh lá trên đỉnh đầu dìu dịu. Lưu Nhất Minh lẳng lặng nhìn tôi. Chẳng còn đường nào khác, tôi đành ấp úng kể cho ông nghe mọi chuyện, vừa nói vừa quan sát thái độ, chỉ sợ ông cụ giận quá hóa ốm thêm.
Tôi thuật lại mất khoảng một tiếng, giữa chừng người trông ông cụ tỉnh dậy ra dỗ cụ vào, nhưng cụ không nghe, anh ta đành đứng từ xa nhìn về phía chúng tôi. Nghe hết đầu đuôi, Lưu Nhất Minh trầm tư giây lát, song không hồn xiêu phách tán như tôi tưởng tượng mà chỉ lắc đầu than thở, “Tiểu Lưu càng thăng chức càng nhát gan. Phong tỏa tin tức như thế, chẳng phải xem thường lão già này quá rồi ư.”
“Cháu... cháu xin lỗi... đều tại cháu cả...” Tôi lầm bầm lặp đi lặp lại, khom người toan quỳ xuống đất. Lưu Nhất Minh tinh ý nhận ra ngay, bèn giơ cả hai tay ra đỡ, không để tôi quỳ, “Dậy đi, người nhà họ Hứa xưa nay không quỳ gối trước kẻ khác.”
“Ông đã hết lời khuyên nhủ mà cháu lại bỏ ngoài tai. Vì cháu ngu dại nên Minh Nhãn Mai Hoa mới gặp nạn lớn này...” Nói đến cuối, tôi chỉ chực khóc òa, muốn xả ra hết những hối hận trong lòng.
“Nạn lớn à?” Lưu Nhất Minh vuốt râu cười, “Phải, chuyện cậu vừa kể đúng là rắc rối. Nhưng Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta truyền đời đã mấy trăm năm, chẳng mấy khi xuôi chèo mát mái, có đời nào không gặp vài bận nguy nan? Nói đâu xa, vụ án đầu Phật của ông nội cậu đã khiến Minh Nhãn Mai Hoa mang tai mang tiếng, lại qua tám năm kháng chiến, sinh linh đồ thán, nền tảng của Minh Nhãn Mai Hoa cơ hồ cũng tiêu tan; từ khi tôi tiếp quản đến nay, hết Đại nhảy vọt tới Cách mạng Văn hóa, Hội liên tục bị đả kích hết lần này tới lần khác. Những kiếp nạn ấy nào có nhỏ hơn vụ việc Lão Triều Phụng bày ra? Bao phen sống chết chúng ta còn chèo chống vượt qua được, giờ thái bình yên ổn lâu quá, ý chí các vị lại kém khi xưa, chuyện vặt thế này cũng phải làm rộn lên.”
Nghe Lưu Nhất Minh nói nhẹ như không, tôi cũng đỡ lo đôi phần, dẫu vẫn nặng lòng áy náy. Ngờ đâu, ông bỗng nghiêm mặt, “Nhưng lỗi của cậu cũng không thể tha được. Khi trước tôi đã bảo cậu rồi, người giám định kỵ nhất là nôn nóng và cảm tính. Vậy mà cậu lại phạm vào đại kỵ, làm ảnh hưởng đến cả Hội, gom hết sắt Cửu Châu cũng không đúc nổi cái sai ấy.”
Mấy câu này như chùy giáng vào lồng ngực, đầu tôi vừa ngẩng lên, lại cúi gằm ngay xuống, “Cháu biết lỗi rồi. Cháu muốn sửa lỗi và rửa oan cho Hội, nhưng cục trưởng Lưu và giáo sư Trịnh không cho.”
“Họ làm đúng đấy. Cậu chẳng qua là thuốc dẫn, giờ đã hết tác dụng rồi. Cả nước đều đang chờ xem Minh Nhãn Mai Hoa náo loạn, giờ cậu đứng ra cải chính, ai thèm nghe?”
“Vậy... phải làm sao đây?”
Lưu Nhất Minh nhắm mắt trầm tư hồi lâu mới chậm rãi đáp, “Để hạ bệ Minh Nhãn Mai Hoa, Lão Triều Phụng đã đánh liều tâng cậu lên. Chiêu này rất hay, nhưng làm hơi quá lố. Muốn lật ngược thế cờ, phải bắt tay từ đây. Cậu là then chốt của ván cờ này.”
Khó hiểu quá, vừa rồi ông ta còn nói tôi đã hết tác dụng, giờ lại bảo tôi là người duy nhất cứu được Minh Nhãn Mai Hoa, thế là sao? Thấy tôi vẫn ngơ ngơ, Lưu Nhất Minh bèn ngẩng lên cốc cho một cái, “Cởi chuông phải tìm người buộc chuông, hiểu chưa?”
Nhờ cái cốc ấy, tôi mới vỡ lẽ. Lão Triều Phụng đánh vào dư luận, biến tôi thành “anh hùng đánh đồ giả” để vu cáo Minh Nhãn Mai Hoa, vô hình trung cũng khiến uy tín của tôi tăng vọt. Giữa tình hình này, bất cứ ai trong Hội đứng ra thanh minh đều sẽ bị coi là ngụy biện, chỉ mình tôi là không. Thế nên trong cuộc chiến này, tôi là kẻ duy nhất có thể đứng ra đối đầu công khai với chúng.
“Một tay vùi dập Minh Nhãn Mai Hoa là cậu, vậy thì kẻ cứu được Minh Nhãn Mai Hoa cũng chỉ có cậu thôi.” Ông Lưu nói. Tôi gật đầu, tự thấy vai trò kẻ phản bội nhận lời ủy thác giữa lúc nguy ngập quả là khó tả. Ông ta lại nói, “Tiếc rằng giờ cậu có danh tiếng song còn thiếu một quân át chủ bài để thao túng cục diện. Tiểu Lưu và giáo sư Trịnh không cho cậu ra mặt bởi trong tay họ cũng chẳng có bài mà tuồn cho cậu.”
Tôi sáng mắt lên, nghe ý cụ Lưu thì hình như ông ta vẫn còn hậu chiêu hóa giải tình thế khó khăn trước mắt. Như đi guốc trong bụng tôi, Lưu Nhất Minh lắc đầu cười, “Chỗ tôi cũng chẳng có quân bài nào hết, Lão Triều Phụng đã chặt đứt mọi đường thoát của Minh Nhãn Mai Hoa rồi. Cậu chỉ còn cách tự mở ra một con đường mới, tìm viện trợ bên ngoài Minh Nhãn Mai Hoa thôi.”
Nói thế này thì có khác gì không nói?
Thấy tôi hoang mang ra mặt, Lưu Nhất Minh lại hỏi, “Đố cậu biết điểm then chốt trong âm mưu lần này của Lão Triều Phụng là gì?”
“Vấn đề thật giả của Thanh minh thượng hà đồ .” Tôi đáp ngay.
“Đúng thế, muốn phá được cục diện này, cậu phải tìm ra chứng cứ có tính quyết định chứng minh bức nào thật bức nào giả. Chỉ có cậu, chỉ có quân át chủ bài ấy, mới hóa giải được nguy cơ này.”
“Quân át chủ bài ấy là gì?”
“Tôi cũng không biết. Chỉ biết rằng đó là bí mật lớn gắn với Thanh minh thượng hà đồ . Nhưng là bí mật gì thì tôi chưa rõ. Tôi chỉ có thể cho cậu một gợi ý, một cái tên. Tôi không dám chắc liệu ông ta có chịu giúp cậu không, thậm chí không biết ông ta có quân bài chúng ta muốn hay không, nhưng đây là lựa chọn duy nhất hiện giờ ngoài Minh Nhãn Mai Hoa. Chỉ tìm đến ông ta, vụ việc Thanh minh thượng hà đồ mới có cơ giải quyết được.” Nói tới đây, Lưu Nhất Minh thở dài, “Hiềm nỗi người này khó mà định luận, muốn nhờ vả ông ta, e rằng không dễ.”
Kẻ khiến chưởng môn Lưu thấy khó định luận, khỏi nghĩ cũng biết gàn dở chừng nào. Tôi ưỡn ngực, tỏ ý bất luận kẻ kia khó nhằn đến đâu, tôi cũng sẽ dốc hết sức. Lưu Nhất Minh giơ một ngón tay, “Người ấy họ Đới, tên Đới Hạc Hiên, năm xưa cũng thuộc tổ giám định Thanh minh thượng hà đồ .”
Tôi kinh ngạc, “Hạc trong hạc tiên, Hiên trong hiên ngang phải không?”
Lưu Nhất Minh cũng bất ngờ, “Ồ? Cậu quen à?”
Tôi bèn kể chuyện Yên Yên gặp phải ở Nam Kinh. Lưu Nhất Minh thở dài, dằn cây gậy xuống đất, “Khuyên lơn Hoàng Khắc Vũ chẳng khác nào nước đổ lá khoai. Lão cử Yên Yên đi tìm họ Đới rõ là tự rước cái nhục!” Nhìn xuống chiếc quần tôi đang mặc, Lưu Nhất Minh sực hiểu, “Vừa rồi cậu định trốn đi Nam Kinh cứu người ư?”
“Vâng.”
Lưu Nhất Minh nhìn đồng hồ treo ngoài hành lang rồi giục, “Việc không thể chậm trễ. Nếu cậu định chuồn thì tranh thủ ngay lúc này đi. Tôi sẽ công bố là cậu đến đảo Tần Hoàng dưỡng bệnh. Chẳng biết Lão Triều Phụng cài cắm tai mắt ở những đâu, nên cậu tuyệt đối không được nhờ thế lực của Minh Nhãn Mai Hoa. Có điều Phương Chấn thì tin được, anh ta sẽ thu xếp thỏa đáng cho cậu.”
“Vậy đằng này ông định…” Tôi lo lắng hỏi. Tạm thời tôi chẳng biết gì về quân át chủ bài kia, mà phía Hồng Kông đã công khai yêu cầu đối chất, tất cả đều đang chờ Hội trả lời. Thanh minh thượng hà đồ của Bách Thụy Liên là quân bài to nhất của Lão Triều Phụng, lão dám lên tiếng đòi kiểm định công khai, ắt đã chuẩn bị sẵn những mánh khóe khó lường.
Lưu Nhất Minh chậm rãi đứng dậy, ưỡn thẳng thân hình gầy gò hơi còng, hừng hực ý chí chiến đấu, “Hội đã có nền tảng mấy trăm năm, chưa đến nỗi bó tay chịu chết đâu. Cậu cứ yên tâm, tôi sẽ kéo dài thời gian chừng một tháng. Đó cũng là kỳ hạn của cậu. Hiểu chưa?”
Cảm giác được áp lực trĩu vai, dạ dày tôi ngâm ngẩm đau. Lưu Nhất Minh bình thản nhìn tôi, “Có sợ không?” Thấy tôi gật đầu, ông ta tiếp, “Mấy chục năm nay, tôi đã phải gánh chịu áp lực như thế đấy.” Tôi nín lặng, hít sâu một hơi, gắng nén con nhộn nhạo trong dạ dày.
“Cậu đừng quá lo. Dù xảy ra tình huống tệ nhất là đôi bên đối chất, tôi cũng muốn xem xem bức Thanh minh thượng hà đồ của Bách Thụy Liên chất lượng đến đâu mà dám đem ra khiêu chiến với bản của Cố cung.” Lưu Nhất Minh gõ gậy xuống mặt sàn.
Lưỡng lự mãi, cuối cùng tôi cũng nhỏ giọng hỏi một câu mình băn khoăn đã lâu, liên quan đến lòng tin của tôi cùng định hướng sau này, “Cụ Lưu, ông nói thật đi, Thanh minh thượng hà đồ trong Cố cung rốt cuộc là thật hay giả?”
Lưu Nhất Minh nhìn xoáy vào tôi, hai bên lông mày rũ xuống rồi trầm giọng đáp, “Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta chưa bao giờ dám xem nhẹ quy tắc trừ giả giữ thật.”
“Cháu tin ông.”
Lưu Nhất Minh cười khà, chuyển chủ đề, “Cậu Nguyện à, nhà họ Hứa các cậu sở trường về kim thạch mà, giám định thư họa đâu phải chuyên môn của cậu. Bài viết về Thanh minh thượng hà đồ của cậu, thoạt nhìn thì sắc sảo, thực ra sơ hở lỗ chỗ đấy.”
“Nếu đã sơ hở lỗ chỗ, sao các vị không ra mặt giải thích?” Tôi thầm nhủ, song không dám thể hiện ra mặt. Như nhìn thấu bụng dạ tôi, Lưu Nhất Minh nhướng mày, chẳng buồn sổ toẹt, chỉ nói tiếp, “Chuyến này cậu đi, ắt phải tiếp xúc với tranh chữ. Nếu không có kiến thức cơ bản, sợ khó mà qua ải. Ôi thư họa Trung Hoa sâu rộng, nghiên cứu cả đời cũng không hết được. Thời gian hạn hẹp, tôi chỉ có thể dẫn ra những kiến thức liên quan tới Thanh minh thượng hà đồ , phổ biến cho cậu vài thường thức về Tống Huy Tông và những năm Tuyên Hòa thôi. Nước đến chân mới nhảy, khó tránh khỏi ướt.”
Thế là giữa đêm khuya khoắt, trong hành lang bệnh viện 301, Lưu Nhất Minh ngồi trên băng ghế, rù rì giảng bài. Tôi biết đây là cơ hội cực hiếm có nên chống gối nghe như nuốt từng lời. Ông ta giảng giải từ thể chữ sấu kim của Tống Huy Tông đến tuyệt áp bốn chữ, từ thể chế của viện họa hàn lâm đến phong cách vận bút. Lưu Nhất Minh chuyên tâm nghiên cứu thư họa mấy chục năm, hiểu sâu biết rộng, trình bày dễ hiểu mà thấu đáo, mạch lạc rõ ràng, nghe ông ta truyền thụ cũng là một kiểu hưởng thụ.
Tiếc rằng bài giảng chỉ kéo dài vỏn vẹn một tiếng thì người trông và y tá đến ép ông cụ về phòng. Tôi không dám để ông cụ ngồi bên ngoài lâu, bèn khom lưng vái một vái dài rồi quay người đi.
Rời khỏi tòa nhà chính, tôi bắt gặp Phương Chấn đang đứng trước cửa khu nội trú, dựa cột trụ hành lang, miệng ngậm điếu thuốc. Thật chẳng biết tay này nghỉ ngơi lúc nào mà túc trực 24/24, một ngày với y phải có đến bốn mươi tiếng mất. Thấy tôi bước ra, y thoáng vẻ bất ngờ, “Cứ tưởng cậu sẽ trèo cửa sổ cơ đấy.”
“... Anh biết tối nay tôi định trốn viện à?” Tôi ngạc nhiên.
Phương Chấn chẳng nói năng gì, chỉ hờ hững phả ra một vòng khói tròn vo.
Tôi cũng chẳng hơi đâu căn vặn y sao lại theo dõi mình, lập tức thuật lại từ đầu đến cuối cuộc trò chuyện với Lưu Nhất Minh. Phương Chấn di tắt đầu thuốc ném vào thùng rác rồi xoa tay nói sẽ sắp xếp ngay. Tôi gặng hỏi, “Anh không xác nhận xem tôi có nói dối không à?” Phương Chấn đáp, “Cậu lừa sao nổi tôi.” Đoạn quay người đi thẳng.
Hiệu suất làm việc của Phương Chấn rất cao, chừng một tiếng sau đã thấy y lái một chiếc xe jeep quân dụng tới trước cửa bệnh viện 301. Tôi lên xe, thấy ghế sau đặt một ba lô du lịch, bên trong có hai bộ quần áo để thay đổi, một bộ đồ vệ sinh cá nhân, máy ảnh bỏ túi Kido tặng tôi, sổ tay và một phong bì trắng dày cộp, hẳn đựng không ít tiền. Ngăn ngoài còn một hộp sữa và bánh mì bỏ trong túi dán kín, chắc là bữa đêm hoặc bữa sáng của tôi, Phương Chấn quả chu đáo.
Phương Chấn còn đưa cho tôi một chứng nhận bìa xanh lam, ngoài bìa là mấy chữ khải thếp vàng: cục Tám bộ Công an, trong dán ảnh tôi, kẹp cùng một tấm vé máy bay.
“Ba tiếng nữa ở sân bay Nam Uyển sẽ có một chuyến bay quân dụng đến thẳng Nam Kinh. Đây là chứng nhận công tác tạm thời của cậu, được ngồi máy bay quân dụng và tàu hỏa miễn phí. Đừng làm mất, về phải trả lại đấy.” Y dặn.
Tôi cất chứng nhận đi rồi ngả người ra lưng ghế nhắm mắt nghỉ ngơi. Phương Chấn cầm lái, mắt nhìn thẳng phía trước, chẳng nói gì với tôi. Sân bay quân dụng Nam Uyển nằm ở mé Nam Bắc Kinh, coi như thuộc ngoại ô. Ban ngày phía Nam thủ đô đã thưa thớt xe cộ, đến đêm lại càng thông thoáng. Xe jeep chạy băng băng, chẳng bao lâu đã đến.
Nhà chờ sân bay Nam Uyển rất nhỏ, là một căn nhà hai tầng vuông vắn, chìm khuất trong màn đêm. Ngay cạnh là đường băng, mấy chiếc máy bay đen sì đang lù lù đậu tại đó. Cả sân bay như đang say ngủ. Phương Chấn lái xe vào thẳng cổng nhà chờ, tôi xách ba lô xuống xe. Phương Chấn thò đầu qua cửa xe nói, “Bên trong có người đợi cậu đấy.”
Tôi lấy làm bồn chồn, nghĩ nửa đêm nửa hôm, ai còn lặn lội đến tận sân bay Nam Uyển xa tít này chứ. Huống hồ ông Lưu đã dặn phải giữ bí mật, sao Phương Chấn dám tiết lộ với người khác. Song tôi không hỏi gì thêm, có hỏi Phương Chấn cũng bằng không.
“Đi đường cẩn thận.” Hiếm khi thấy Phương Chấn ân cần dặn dò, có lẽ y cũng hiểu chuyến này tôi đi gian nan nhường nào. Dứt lời y rụt vào xe, nổ máy chạy thẳng.
Tôi xách hành lý bước vào nhà chờ vắng tanh. Sảnh chờ ở đây bé tẹo, trần nhà chỉ bật hai ngọn đèn, phạm vi chiếu sáng cực hẹp, những chỗ khác vẫn tối mò. Tôi thấy một người mặc áo cổ tàu ngồi giữa hàng ghế nhựa được rọi đèn, ngay ngắn như quả chuông lớn trên lầu chuông.
“Ông Vũ?”
Người ngồi đó hóa ra là Hoàng Khắc Vũ, đứng đầu Hoàng môn trong Minh Nhãn Mai Hoa, ông nội Yên Yên. Từng ấy tuổi mà ông cụ vẫn quắc thước uy nghiêm, có điều giữa đôi hàng mày đượm phần mỏi mệt.
“Ngồi đi.” Ông ta nói gọn lỏn, chẳng buồn nhìn tôi, tiếng vọng vang trong sảnh chờ như tiếng vàng đá leng keng. Tôi ngoan ngoãn đi tới trước mặt ông ta, chẳng dám thở mạnh.
“Không nể mặt ông cậu thì tôi đã tuốt xác cậu ra rồi!” Đây là câu thứ hai. Tôi biết lỗi nên chỉ cúi gằm mặt nhận sai. Hoàng Khắc Vũ quay sang nhìn chằm chằm tôi bằng đôi mắt hổ, như định ăn tươi nuốt sống, “Cháu gái tôi vì cậu mà bị tạm giam ở Nam Kinh, cậu tính sao đây?”
“Ông yên tâm, lần này tôi tới Nam Kinh, nhất định sẽ cứu Yên Yên ra.” Tôi khẽ giọng quả quyết, không dám vỗ ngực đảm bảo, chỉ sợ bị mắng là hứa hão.
“Dựa vào cậu ấy à?” Hoàng Khắc Vũ cười nhạt, “Nếu tôi không phải đến Hồng Kông thì làm gì đến lượt cậu nhúng vào chuyện nhà họ Hoàng chúng tôi.”
“Ông đi Hồng Kông ư?” Tôi sững sờ. Cứ tưởng ông ta lặn lội đến tận Nam Uyển mắng tôi một trận, hóa ra cũng phải lên máy bay.
“Chẳng phải tại đồ ngu tự cho là mình thông minh nhà cậu à?” Hoàng Khắc Vũ trừng mắt nhìn tôi.
Tôi hổ thẹn gật đầu. Xem ra nguy cơ lần này đã khiến mấy người đứng đầu các phái trong Minh Nhãn Mai Hoa phải đích thân mặc giáp ra trận. Bức Thanh minh thượng hà đồ thứ hai kia và sàn đấu giá Bách Thụy Liên đều ở Hồng Kông, Lưu Nhất Minh ở lại Bắc Kinh điều hành, cần một viên đại tướng xông vào trận địch, ngoài Hoàng Khắc Vũ ra còn ai vào đây nữa.
“Chìa tay ra.” Hoàng Khắc Vũ ra lệnh.
Tôi răm rắp chìa tay, ông ta giơ tay phải lên, tóm lấy tay phải tôi. Hoàng Khắc Vũ tuổi già nhưng lực tay rất mạnh, siết chặt như gọng kìm. Tôi không dám vùng ra, chợt thấy có thứ gì đó cồm cộm trong lòng bàn tay, bèn cúi xuống nhìn, ra là một đồng tiền cổ ngoài tròn trong vuông, đường kính chỉ chừng 2 centimet, nhẹ hều, mép dày mặt phẳng, mé trên bên phải còn khuyết một miếng, loang lổ gỉ sét. Tôi dùng hai ngón tay nhón nó giơ lên soi trước ánh đèn, trông rõ chữ trên đó thì không khỏi hít vào một hơi.
Là, là Đại Tề thông bảo!
Tiền cổ còn gọi là tuyền cổ. Người chơi thứ này đều biết trong giới sưu tầm có câu “Tiền hiếm năm mươi, tuyền quý mười dòng”. Ý nói đến năm mươi loại tiền hiếm, trong đó có mười loại cực kỳ quý hiếm, được gọi là tuyền quý, bao gồm cả Đại Tề thông bảo.
Đại Tề thông bảo do Lý Thăng, vua nhà Nam Đường thời Ngũ đại thập quốc đúc nên. Lúc Lý Thăng mới lập nước, vốn tên Từ Tri Cáo, đặt tên nước là Đại Tề, cho đúc hàng loạt Đại Tề thông bảo. Sau đó một năm lại đổi tên thành Lý Thăng, đổi tên nước là Nam Đường, loạt tiền này bị thu về nấu chảy ra đúc lại. Thế nên Đại Tề thông bảo lưu truyền lại cực hiếm, chỉ có hai đồng, trong đó một đồng bị khuyết góc trên bên phải, gọi là “Đại Tề khuyết góc”. Đại Tề khuyết góc vốn được một danh sĩ cuối thời Thanh tên Đới Hi cất giữ, Đới mê mẩn nó, lúc quân Thái Bình đánh vào Hàng Châu, Đới bèn chôn nó thật sâu xuống đất rồi nhảy xuống sông tự tử.
Người đời sau đào bới trong nhà họ Đới mười mấy lần cũng không thấy, đây trở thành một vụ việc bỏ ngỏ nổi tiếng trong giới chơi tuyền cổ.
Tôi không sao ngờ nổi Đại Tề khuyết góc khiến biết bao dân chơi tuyền ước ao tơ tưởng từ cuối đời Thanh tới giờ, lại rơi vào tay Hoàng Khắc Vũ. Mười dòng tuyền quý thực ra cũng chỉ còn ba bốn, phần lớn đều đã thất truyền. Thế nên khoan bàn thứ này bán được bao nhiêu, chỉ riêng tin nó xuất hiện cũng đủ khiến giới chơi tuyền rúng động. Vậy mà giữa sân bay Nam Uyển khuya khoắt, Hoàng Khắc Vũ lại thản nhiên đặt vật chí bảo này vào tay tôi.
“Cầm cái này đi, có lẽ tên khốn Đới Hạc Hiên đó sẽ thích.” Giọng ông ta có phần hậm hực, nhưng không mảy may tiếc nuối.
Rõ ràng Hoàng Khắc Vũ chẳng tin được tôi nên mới đưa Đại Tề thông bảo do nhà họ Hoàng cất giữ ra. Đối với ông ta, báu vật gì cũng chẳng bằng cháu gái được an toàn. Tôi siết chặt đồng tiền trong tay, dạ một tiếng rồi hỏi, “Đới Hạc Hiên là người thế nào?”
“Là tên thần kinh.” Hoàng Khắc Vũ quả quyết.
Ông ta kể, Đới Hạc Hiên là nòng cốt về kỹ thuật ở Cục Quản lý hiện vật văn hóa những năm đầu giải phóng, vốn tên Đới Tiểu Bình, bấy giờ tuổi còn trẻ, trình độ giám định chưa đâu vào đâu nhưng lại am hiểu nhiếp ảnh, bộ ảnh giám định Thanh minh thượng hà đồ độ phân giải cao nọ chính là do Đới Hạc Hiên chụp. Song kẻ này có thói không quản được thứ trong đũng quần, lang chạ khắp nơi, gây ra mấy chuyện bê bối, lãnh đạo Cục đành điều lão ta về quê ở Nam Kinh. Về sau Đới Hạc Hiên cũng mất tăm mất tích giữa hàng loạt sóng gió chính trị.
Đến đầu thời cải cách mở cửa, lão đã lắc mình biến thành một bậc thầy cổ học, đi khắp nơi mở tọa đàm giảng về phong thủy Chu Dịch huyền học khí công gì đó, rất được ưa thích. Sau đó Đới Hạc Hiên lại tuyên bố đã nghiên cứu tìm ra một bộ Dưỡng sinh công Đới thị từ Hoàng Đế nội kinh , chẳng những kéo dài tuổi thọ mà còn khai mở được những công năng đặc biệt của cơ thể người, tức thì nổi tiếng như cồn, nghiễm nhiên trở thành một đại sư khí công. Học trò theo học khí công Đới thị đông vô số, có sức ảnh hưởng sâu rộng trên khắp vùng Giang Nam, sắp khai tông lập phái tới nơi.
Hoàng Khắc Vũ khinh thường Đới Hạc Hiên, cho rằng trình độ chuyên môn của lão còn khuya mới vào được hàng một trăm người đứng đầu cả nước, nhưng tài dụ dỗ lừa lọc quả là thượng hạng. Nghĩ đến sức ảnh hưởng của lão, lại thêm quan hệ trước đây với Minh Nhãn Mai Hoa nên mới phái Hoàng Yên Yên tới thuyết phục. Chỉ cần Đới Hạc Hiên gật đầu, một dải từ Nam Kinh cho tới Lưỡng Hoài cũng sẽ tán thành.
“Ông ta khó nhằn lắm ạ?” Tôi lo lắng hỏi. Gần đây các đại sư khí công đều được báo chí tâng bốc như thần thánh, khiến tôi hơi chợn.
Hoàng Khắc Vũ phì mũi, “Khí công đếch gì, toàn lừa người thôi. Lão luyện công đến thành ra lẩn thẩn, chính xác là một tên điên.” Nhưng ông ta lại bổ sung, “Lúc tỉnh táo, lão khôn ranh lắm. Đồng Đại Tề thông bảo này chưa chắc đã mua chuộc được lão, cậu phải tùy cơ mà ứng biến.”
“Tôi hiểu rồi.” Tôi đáp, lại sực nhớ ra một chuyện, “À phải, có người nhờ tôi chuyển thứ này cho ông.”
“Ai?”
“Ông biết Mai Tố Lan chứ?”
Nghe cái tên này, vẻ mặt Hoàng Khắc Vũ từ nghiêm trang chuyển sang giận dữ. Tôi bèn kể lại chuyện ở làng Thành Tế, ông ta lặng đi hồi lâu không nói, chỉ nhìn chằm chằm phía trước.
“Bà ta nhờ tôi đưa cho ông một thủy trì, phía trên vẽ cảnh non nước, dưới đáy đề bốn chữ ‘Mai tố lan hương’.” Tôi lấy đồ trong túi ngực ra đưa cho ông ta. Hoàng Khắc Vũ nhận lấy, đút ngay vào túi không buồn liếc mắt, thái độ cực kỳ lạnh nhạt. Thấy thế, tôi lấy làm tò mò hỏi, “Giữa hai người đã xảy ra chuyện gì vậy?”
“Hừ, liên quan gì đến cậu.”
“Liên quan chứ. Sở dĩ tôi bị đưa vào tròng, phần lớn là vì tin lầm chị Tố. Thế nên nếu tìm hiểu được thêm thông tin từ ông, biết đâu tôi lại tìm ra cách giải quyết.”
“Không đâu, mụ ta là kẻ lừa gạt.”
“Có phải hai người quen nhau trong cuộc so tài ở nhà hàng Dự Thuận dạo hiệp ước Dự Thiểm không?”
Hoàng Khắc Vũ liếc tôi một cái sắc lẹm, “Sao cậu biết hiệp ước Dự Thiểm?”
“Chung Ái Hoa kể cho tôi nghe.”
Trước giờ tôi vẫn luôn thắc mắc, hiệp ước Dự Thiểm và cuộc tỷ thí ở nhà hàng Dự Thuận chẳng liên quan gì tới kế hoạch của Lão Triều Phụng, sao Chung Ái Hoa lại vẽ rắn thêm chân kể cho tôi một chuyện không liên quan như vậy, liệu có hàm ý gì không.
Hoàng Khắc Vũ từng tham dự cuộc tỷ thí ở nhà hàng Dự Thuận, còn có quan hệ tế nhị với chị Tố, tin rằng ông ta chắc chắn biết được gì đó.
“Tôi đã thề không bao giờ tiết lộ chuyện hôm ấy. Cậu yên tâm đi, đó đều là chuyện trước giải phóng, chẳng dính dáng gì đến Lão Triều Phụng đâu. Tôi và mụ Mai Tố Lan kia cũng chẳng còn dây dưa gì nữa rồi.”
“Nhiệm vụ của cậu là cứu cho được Yên Yên, đừng lo chuyện bao đồng!” Hoàng Khắc Vũ hung hăng chặn họng tôi.
Ông ta đã khăng khăng như vậy, tôi cũng chẳng tiện gặng hỏi. Vừa hay lúc này có người tới gọi Hoàng Khắc Vũ lên máy bay, ông ta đứng dậy chuẩn bị đi, nào ngờ được nửa đường lại ngoái đầu nhìn tôi.
Ngỡ ông ta vẫn chưa yên tâm, tôi vỗ ngực đảm bảo, “Ông yên chí, tôi nhất định sẽ cứu Yên Yên bằng mọi giá.”
“Bằng mọi giá ư?”
“Phải.”
“Nếu buộc cậu làm trái với nguyên tắc, ví như làm đồ giả hay giết người thì sao?” Hoàng Khắc Vũ nheo mắt. Tôi sững sờ, chẳng biết trả lời thế nào. Ông ta lại nói thêm, “Khi hiện thực ép cậu đi ngược lại nguyên tắc, cậu sẽ làm thế nào? Lão Minh nhờ tôi hỏi cậu câu này, chưa cần trả lời ngay. Nhưng sớm muộn gì cậu cũng phải đối mặt thôi, tranh thủ ngẫm trước là vừa.”
Hoàng Khắc Vũ quay lưng đi rồi, tôi vẫn còn trầm tư trong bóng tối. Tâm tư khuấy đảo vì câu hỏi kia. Câu hỏi rất hay, không chỉ hỏi về sự an toàn của Yên Yên, mà còn liên quan tới Minh Nhãn Mai Hoa và nhà họ Hứa. Nếu quân át chủ bài kia ép tôi phải làm đồ giả lừa người hoặc giết người cướp của, tôi phải làm sao đây? Nghe theo uy quyền, hay lắng nghe tiếng lòng?
Nghĩ mãi vẫn không tìm được cách nào vẹn cả đôi bề, lòng tôi rối như tơ vò. Cứ thế hơn một tiếng thì nhân viên mặt đất gọi tôi lên máy bay. Tôi vội xoa xoa mặt, gác những suy nghĩ rối rắm kia sang một bên.
Máy bay chuyến này thoải mái hơn lần tôi đi máy bay quân dụng ở Thiểm Tây nhiều, có chỗ ngồi đàng hoàng, còn có cả tiếp viên hàng không. Sau khi lên máy bay, tôi ngả ghế ra, nắm chặt đồng Đại Tề thông bảo trong tay, ngoẹo đầu ngủ khì, chẳng kịp đợi cất cánh. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi rơi vào một giấc mơ kỳ lạ, bốn bề đều đặc quánh một màu xám, tôi chẳng biết mình đang lơ lửng giữa không trung hay rơi vùn vụt xuống dưới, tứ chi không níu được vào đâu, đành quờ quạng loạn lên như trẻ con rơi xuống nước. Muốn gào lên kêu cứu, nhưng vừa há miệng khói xám đã ào ạt xộc vào, làm tôi ho sặc sụa.
Kinh hoàng giãy giụa rất lâu, đột nhiên tôi bị một cú xóc nảy đánh thức, cả người đổ nhào tới, mũi đập vào hàng ghế trước mới nhận ra mình đã trở về hiện thực. Ánh mặt trời chói chang ngoài cửa sổ, hóa ra máy bay đã hạ cánh. Tôi cúi xuống nhìn thấy đồng xu kia ướt đẫm mồ hôi tay.
Lúc này tôi mới nghĩ ra, Nam Đường lập nước, đóng đô ở Nam Kinh. Đồng Đại Tề thông bảo này được đúc tại chính Nam Kinh.
Giờ tôi đã đưa nó trở về quê hương.
Trong giới cổ vật, Nam Kinh được gọi là “quan đô”, nghĩa là bịt lỗ. Đây là nơi Nam Bắc giao thoa, vừa có cái hùng vĩ của phương Bắc, vẻ tú lệ của phương Nam, lại là kinh đô cũ thời Lục Triều, có lịch sử lâu đời, chẳng thiếu văn vật di tích. Xưa nay giới cổ vật vẫn thiên về phía Bắc, coi Bắc Kinh là chính thống, Trịnh Châu và Tây An là hai con mắt lớn, tạo thành hình thế tam tinh hoạt quán phương Bắc, vận mệnh xoay vòng, đều bắt đầu từ tam tinh này. Từ Trường Giang đổ về phía Nam, chỉ có Nam Kinh và Thành Đô có thể sánh được, là hai thủ phủ của giới cổ vật Nam phái. Còn như Thượng Hải chỉ là nơi tiêu thụ, không được xếp vào đây.
Nam Kinh có một điều kỳ lạ là cổ vật dưỡng ở đây đều có ánh sáng đặc thù, bất luận là ngọc nuôi hay bình dưỡng đều ôn nhuận hơn đồ phương Bắc nhiều. Dân nghiên cứu cho rằng đó là do điều kiện khí hậu đặc biệt, nhưng người trong giới cổ vật đều nói đó là Tử Kim vương khí. Thường nói ngọc vàng bình tía, ý là đều dưỡng ở Nam Kinh, giá cao hơn hàng bình thường nhiều.
Tới sân bay Nam Kinh, tôi gọi ngay cho gã Diêu Thiên ở trại tạm giam. Thấy tôi đến nhanh như vậy, hắn không khỏi bất ngờ. Tôi thông báo đã mang tiền đến, Diêu Thiên tức thì vồn vã hẳn lên, nói rằng trước mắt Yên Yên vẫn bị giam giữ, rồi dặn tôi chiều nay tới gần trại tạm giam gặp hắn. Diêu Thiên còn nói phía cảnh sát đã sắp tiến hành khởi tố rồi, muốn cô bình yên vô sự, phải khuyên được Đới Hạc Hiên rút đơn.
Tôi bỏ điện thoại xuống, bắt xe đi vào thành phố, tới thẳng trại tạm giam Hạ Quan. Tới nơi đúng giờ nghỉ trưa, cổng sắt đóng im ỉm, tôi chẳng biết làm sao, đành đi lòng vòng quanh đó. Đi mãi đi mãi, thấy bên đường có công viên, bên trong đông nghịt người, còn nghe tiếng nhạc xập xình, tôi bèn tạt vào xem. Đám người này phần lớn là ông già bà cả từ năm mươi đổ lên, xếp thành hàng ngay ngắn, hai tay lúc thì giơ lên lúc lại rung rung, động tác đều tăm tắp. Một bác gái ngoài năm mươi mặc bộ đồ thể thao màu lam đứng đầu hàng làm mẫu, toát lên vẻ đẹp khỏe khoắn. Bên cạnh bác là chiếc cassette hai cửa băng đang phát ra giọng đàn ông hô khẩu lệnh, cái gì mà ngọc phượng điểm đầu, khí tụ đan điền, hô đến đâu cả toán người răm rắp làm theo tới đó, trông vừa buồn cười vừa quái gở.
Trên gốc cây phía sau cassette còn treo một biểu ngữ nền đỏ chữ trắng viết “Lớp đồng tu Hoàng Đế nội công Đới thị”.
Thì ra họ đang tập luyện khí công Đới thị. Tôi đứng nhìn một lúc, chẳng biết môn khí công này kỳ diệu ở đâu, có điều đám con nhang đệ tử đều hết sức thành kính, đủ thấy sức ảnh hưởng của Đới Hạc Hiên không nhỏ. Chi bằng hỏi han bọn họ vài câu, tìm hiểu về lão già kia đôi chút, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.
Tôi đang định đi tới, chợt có một cánh tay từ phía sau đặt lên vai, “Hứa Nguyện, đợi đã.” Nghe giọng quen quen, tôi ngoái lại, tức thì máu huyết toàn thân đông cứng.
Dược Bất Nhiên đang đứng ngay sau cười khì nhìn tôi, trông vẫn lông bông như cũ.
Tôi chẳng nói chẳng rằng vung luôn nắm đấm, hệt như vô số lần trong mơ trước đây. Dường như đã lường trước phản ứng của tôi, Dược Bất Nhiên vừa tránh vừa huyên thuyên, “Người anh em bất lịch sự quá đấy, chưa nói câu nào đã đánh rồi... Này, từ từ đã!”
Mặc cho tên phản bội ấy nói gì, tôi đều bỏ ngoài tai. Điều duy nhất tôi muốn làm là tẩn cho gã một trận rồi gô cổ lại đưa đến đồn công an.
Cảnh sát tuần tra nhanh chóng phát hiện ra chúng tôi đang ẩu đả, bèn chạy đến quát hỏi có chuyện gì, Dược Bất Nhiên ghì cổ tôi nói “Có gì đâu, chúng tôi đùa đấy thôi.” Tôi gào lên, “Đồng chí cảnh sát, mau bắt tên này lại, hắn là tội phạm giết người đang trốn truy nã đấy!” Dược Bất Nhiên phản ứng cực nhanh, cười hì hì nói, “Phải phải, tôi là tội phạm giết người, cậu ta là cảnh sát chìm, định bắt tôi về chịu tội đấy.”
Dạo ấy bộ phim Cảnh sát chìm đang phát lại, nhiều thanh niên đua nhau bắt chước. Cảnh sát săm soi chúng tôi một lượt, nhíu mày nhắc nhở không được nô đùa ầm ĩ ở nơi công cộng rồi quay người bỏ đi. Tôi đang định gọi giật họ lại thì Dược Bất Nhiên đã ghé tai nói thầm, “Mày muốn cứu Hoàng Yên Yên thì biết điều chút.”
Nghe vậy, tôi cứng người lại. Dược Bất Nhiên đắc ý ra mặt, “Đi, tao mời mày ăn trưa rồi từ từ nói.” Xem thái độ gã dường như chẳng mảy may hổ thẹn vì đã phản bội. Nhưng gã đã nhắc đến Yên Yên, tôi đành phải nghe xem gã nói gì. Nghĩ thế, tôi cau có đi theo, cố kìm để khỏi lao tới một dao xiên chết gã.
Hai chúng tôi một trước một sau đi qua công viên, chui vào một con ngõ nhỏ. Đầu kia ngõ thông sang đường khác, gần chỗ rẽ là một hàng canh tiết vịt, trông cũng bình thường, được cái mặt tiền sạch sẽ. Dược Bất Nhiên làm động tác mời rồi đi vào trước.
Đang giờ ăn trưa, nhưng quán vắng tanh. Chủ quán nằm bò ra quầy, thấy Dược Bất Nhiên bước vào thì đứng dậy cất bảng hiệu bên ngoài, đóng cửa lại rồi quay vào bếp. Tôi hơi khựng lại, xem ra đây là một hang ổ của Dược Bất Nhiên. Tuy bề ngoài là quán ăn nhưng bên trong nhất định có nhà bếp, dao thái thịt, dao chặt xương, dao làm bếp, dao bổ củi nhiều không kể xiết, chủ quán chỉ cần đóng cửa là sẽ thành bắt ba ba trong rọ.
Tôi đanh mặt ngồi xuống bên bàn, vẻ tỉnh bơ. Dược Bất Nhiên cười nói giả lả: “Hai ta lâu lắm chưa gặp, dạo này Tứ Hối Trai làm ăn thế nào?” Tôi chẳng nói chẳng rằng, lặng thinh xem gã giở trò gì.
Dược Bất Nhiên tán hươu vượn một hồi, mãi không vào chủ đề chính, lát sau chủ quán vén rèm bưng ra hai bát bún tiết vịt bốc hơi nghi ngút. Dược Bất Nhiên bưng lên húp soạt một hớp, chặc lưỡi trầm trồ, “Mày biết không, bún tiết vịt ở đây đúng vị Nam Kinh nhất đấy,” đoạn giục tôi nếm thử. Tôi bưng bát lên ném xuống đất vỡ tan, mảnh sứ và tiết vịt vương vãi đầy sàn. Dược Bất Nhiên chặc lưỡi nhíu mày trách, “Mày phí phạm quá đấy, bây giờ chẳng có mấy nơi bán bún tiết vịt đúng vị đâu.”
“Có gì mau nói, có rắm mau đánh.” Tôi lạnh lùng đáp. Bá tước Monte Cristo không ăn đồ ăn nhà kẻ thù, tôi cũng chẳng muốn lần lữa ở đây với gã.
“Ái chà, mày làm gì mà nóng thế, chẳng để tao ăn hết bát bún nữa.” Nói rồi Dược Bất Nhiên tiếc rẻ lắc đầu, đặt đũa xuống, “Lần này tao tìm mày là để nhờ giúp đỡ.”
Tôi nhướng mày, “Mày tự biết tội nặng tày trời, định ra đầu thú hả?” Dược Bất Nhiên gượng cười xòe tay ra, “Ấy ấy, mày hiểu lầm rồi. Tao sống bên ngoài đang êm đẹp, chưa muốn ăn cơm tù đâu.” Đoạn chỉ mặt tôi, “Thôi được, tao ăn nói vụng về, để ông ấy trực tiếp nói với mày vậy.”
“Ai?”
Dược Bất Nhiên không đáp, nhưng đúng lúc này di động của tôi đổ chuông. Tôi cầm máy nhận cuộc gọi, đầu kia vang lên một giọng già nua mệt mỏi, giọng nói này đã in sâu vào trí não tôi, không xua đi nổi.
“Chào cậu.”
Tôi nắm chặt di động, không biết nói gì. Nhất thời chỉ muốn chui qua ống nghe sang đầu kia bắt lấy lão. Lão Triều Phụng lại nói, “Dạo này cậu và Minh Nhãn Mai Hoa không được xuôi chèo mát mái lắm nhỉ.”
Tôi cười nhạt không đáp. Lão Triều Phụng cười khà, “Tôi đọc báo đăng, cũng hình dung được đại khái rồi. Cậu cũng thông minh đấy, nhưng cái tính ương bướng ba bò chín trâu không kéo lại được thì hệt như ông nội cậu vậy. Cứ giữ cái tính ấy, lỡ như bị bắt thóp dễ thiệt thòi lắm.” Tiếng cười của lão tẻ ngắt, như hụt hơi, nhưng vẫn lồ lộ vẻ chế nhạo.
“Ông nắm chắc phần thắng nên gọi tới sỉ nhục tôi à?” Tôi hỏi lại.
Lão Triều Phụng bình tĩnh đáp, “Nắm chắc phần thắng ư? Không, tôi chỉ muốn cho cậu biết, chuyện này không liên quan đến tôi.”
“Gì cơ?” Tôi chưa bắt kịp mạch suy nghĩ của lão.
“Tôi nói cái bẫy này không liên quan gì tới tôi cả.”
“Đừng già mồm!” Tôi quát lớn, suýt ném vỡ cả di động. Chuyện này vốn từ lão mà ra, giờ lão còn vờ vịt oan ức, đúng là hoang đường! Nực cười! Song giọng lão vẫn bình thản như không, “Lần này không phải tôi hại cậu. Cả tôi và cậu đều là người bị hại cả thôi.”
Tôi giận đến phì cười, hỏi lại, “Ông lại có mánh lừa mới à?”
“Tôi nói thật đấy.” Lão Triều Phụng điềm nhiên.
“Được, vậy tôi hỏi ông, món đồ giả bán cho Mắt Trố có phải từ chỗ ông không?”
“Phải.”
“Ông dùng địa chỉ nhà Diêm Sơn Xuyên để đánh lạc hướng đúng chưa?”
“Phải.”
“Công ty mỹ nghệ Tân Trịnh Đồ Lương, công ty vận tải Chấn Viễn và xưởng làm giả ở làng Thành Tế đều là sản nghiệp của ông phải không?”
“Phải.”
“Chị Tố là ông giam ở đó?”
“Phải.”
“Thế mà ông còn dám nói chuyện không liên quan đến mình?”
Lão Triều Phụng thở dài sườn sượt, “Cậu nghĩ kỹ mà xem, Minh Nhãn Mai Hoa bị dồn cho tối tăm mặt mũi, còn tôi thì không à? Cơ sở ở làng Thành Tế tôi đã phải gây dựng bao nhiêu năm, Mai Tố Lan cũng là bậc quốc thủ khó khăn lắm mới vời được. Chớp mắt một cái đã bị cảnh sát đánh úp, thế là xôi hỏng bỏng không cả. Chưa kể cảnh sát còn lần theo bắt giữ khá nhiều người trong đường dây, khiến tôi tổn thất nghiêm trọng.”
Nghe lão nói một tràng, tôi cũng rối cả lên. Rốt cuộc lão đang nói gì thế? Làng Thành Tế rõ ràng là cái bẫy lão giăng ra chờ tôi, sao giờ lại tố khổ. Thấy tôi im lặng, lão giải thích thêm, “Nói thẳng ra chuyện lần này còn có kẻ khác đứng sau. Mục tiêu của chúng không chỉ là Minh Nhãn Mai Hoa, mà còn cả tôi nữa.”
Nghe lão nói vậy, tôi cũng ngẫm lại mọi chuyện.
Thảo nào tôi cứ lờ mờ cảm thấy kế hoạch này có gì đó hơi vô lý, song chưa kịp nghĩ thấu đáo. Giờ nghĩ lại mới thấy cảm giác vô lý ấy là bởi ngay từ đầu tôi đã có định kiến rằng Lão Triều Phụng đứng sau thao túng cục diện này, làng Thành Tế là quân cờ thí lão vứt đi. Nhưng nếu toàn bộ âm mưu này do một phe thứ ba thao túng thì rất nhiều nghi vấn đã được giải thích.
“Phe thứ ba” đã sai Chung Ái Hoa dẫn dắt tôi phá sản nghiệp của Lão Triều Phụng ở Trịnh Châu, rồi còn dùng cách nào đó khiến chị Tố lừa gạt tôi. Những gì bà ta kể có đến 90% sự thực, chỉ nói dối một điểm là Lão Triều Phụng tham gia giám định Thanh minh thượng hà đồ . Kết quả tôi cắm đầu tin theo, lôi ra những điểm nghi vấn của Thanh minh thượng hà đồ , bấy giờ chúng mới kích động dư luận, chẳng những dồn Minh Nhãn Mai Hoa vào chân tường, mà còn làm Lão Triều Phụng tổn thất thê thảm.
“Từ đầu đến cuối chúng chỉ dùng một tên Chung Ái Hoa, nhờ Mai Tố Lan nói dối đúng một câu. Một người, một câu mà có thể bốn lạng bạt ngàn cân, khiến cả tôi lẫn Minh Nhãn Mai Hoa lao đao. Thủ đoạ