← Quay lại trang sách

Chương 6 .

Thế nào, cậu có tìm thấy gì không?

Nét mặt căng thẳng, Leeland vừa về đến phòng. Bên cạnh máy vi tính, giấy tờ vương vãi. Cha Nil có vẻ mệt mỏi: ông không trả lời mà đi đến cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Rồi trở lại chỗ ngồi, ông quyết định không quan tâm đến lời nhắc nhở của Breczinsky và nói hết với bạn mình.

- Sau khi cậu đi, tớ đã bắt đầu tra cứu các thư viện lớn nhất trên thế giới. Khoảng cuối buổi sáng, tớ gặp một thủ thư ở Heidelberg, người đã từng sống ở Roma. Chúng tớ đã trao đổi với nhau, và ông ấy nói với tớ rằng mã số Dewey hẳn là đến từ…đoán xem?

- Thư viện San Girolamo, và chính vì thế mà cậu đã gấp gáp quay lại đó!

- Lẽ ra tớ phải nghĩ đến điều đó, vì đó là thư viện cuối cùng cha Andrei lui tới trước khi chết: ông ấy đã bắt gặp một cuốn sách và nhanh chóng ghi lại chỉ dẫn về nó vào cái mà ông đang có trong tay là một cuốn sổ ghi chép của mình – chắc là với ý định sẽ tra cứu cuốn sách này một lần nữa. Và rồi ông ấy đã vội vã rời khỏi Roma, bỏ lại cuốn sách khi đó đã trở lên vô ích.

Leeland ngồi xuống bên cạnh cha Nil, mắt sáng lên.

- Và cậu tìm lại được cuốn sách chứ?

- Thư viện San Girolamo được tạo lập một cách chắp vá, các đời thủ thư kế tiếp nhau nhanh chóng, và ở đó có thể tìm thấy mọi thứ. Nhưng hầu hết sách ở đó đều được sắp xếp, và thực tế là tớ đã tìm ra cuốn sách khiến cha Andrei chú ý, một cantena của Eusèbe de Caesarea: một bản in hiếm có vào thế kỷ XVII, tớ chưa từng nghe nói đến.

Leeland hỏi với vẻ ngượng nghịu:

- Xin lỗi cậu, Nil ạ, nhưng tớ quên hết những thứ không phải là âm nhạc rồi. Catena là gì?

- Vào thế kỷ III đã xảy ra một cuộc chiến khốc liệt xung quanh thiên chất của Jesus, điều mà Giáo hội tìm cách áp đặt: khắp nơi người ta hủy các văn tự không phù hợp với giáo lý đang khai sinh. Sau khi kết tội Origène, Giáo hội đã cho đốt tất cả các bản viết của ông. Eusèbe de Caesarea rất ngưỡng mộ người dân thành Alexandria này, người đã chết trong thành phố của mình. Ông đã muốn cứu vớt những tác phẩm có thể cứu được của Origène, nhưng để bản thân không bị kết tội, ông đã truyền bá những đoạn trích được lựa chọn, đoạn nọ gắn với đoạn kia như những mắt xích trong một xâu chuỗi: một catena. Sau đó, người ta đã lặp lại ý tưởng của ông ấy, và ngày nay chúng ta chỉ có thể tiếp cận được nhiều tác phẩm cổ đã biến mất qua các trích đoạn này. Cha Andrei đoán rằng trong catena mà ông ấy chưa bao giờ nhìn thấy có thể chứa đựng những đoạn văn của Origène rất ít được biết đến. Ông ấy lục tìm và đã thấy.

- Thấy cái gì?

- Một câu của Eusèbe, cho đến nay vẫn không ai chú ý đến. Ở một trong số các tác phẩm của mình ngày nay đã bị mất, Origène có nói rằng đã từng thấy trong Thư viện Alexandria một epistola abscondita apostoli tredicesimi bí ẩn: bức thư bí mật – hoặc được che giấu – của một tông đồ thứ mười ba, trong đó có thể có bằng chứng rằng Jesus không có bản chất thánh thần. Hẳn là cha Andrei đã nghi ngờ sự tồn tại của bức thư này, ông ấy đã từng bóng gió nói với tớ về nó: tớ thấy ông ấy đang trong quá trình tìm kiếm, vì đã cẩn thận ghi lại tài liệu tham khảo bất ngờ này.

- Liệu có thể tin được vào một câu văn lẻ loi trong một văn tự nhỏ bé đã bị rơi vào quên lãng không?

Cha Nil xoa cằm.

- Cậu nói đúng, chỉ mình nó thì một mắt xích đơn giản này trong một catena là không đủ. Nhưng nhớ lại đi: trong mảnh giấy để lại trước khi chết, cha Andrei đã gợi ý là phải liên hệ bốn hướng nghiên cứu mà ông ấy đã ghi lại với nhau. Đã nhiều tuần nay tớ lật đi lật lại trong đầu câu thứ hai trong bản thảo tiếng Ai Cập cổ mà tớ tìm thấy ở thư viện: "Bức thư phải bị hủy bỏ ở khắp nơi, để nơi ở còn ở lại." Nhờ vào Origène, tớ tin rằng cuối cùng tớ cũng đã hiểu ra.

- Một mật mã mới à?

- Hoàn toàn không. Vào đầu thế kỷ III, Giáo hội đang xây dựng giáo lý Chúa hiện sinh sẽ được tuyên bố trong hội nghị Giám mục Nicée, đồng thời tìm cách loại bỏ tất cả những gì chống lại giáo lý đó. Mảnh bản thảo tiếng Ai Cập cổ này - chính là thứ đã khiến cha Andrei chú ý - hẳn là phần còn sót lại trong một chỉ thị của Alexandria, ra lệnh hủy bỏ bức thư này ở khắp nơi. Tiếp theo, người ta đã chơi chữ khi dùng một từ Ai Cập cổ mà tớ đã dịch sai thành "nơi ở", nhưng thực ra còn có nghĩa là "hội". Trong tiếng Hy Lạp, là ngôn ngữ chính thức của Alexandria, "hội" được gọi là ekklesia - Giáo hội. Vậy là ý nghĩa của câu này trở nên rõ ràng: phải hủy bỏ bức thư này ở khắp nơi, để Giáo hội còn mãi - để nó không bị biến mất vào hư vô! Chỉ được lựa chọn một trong hai thứ: bức thư của tông đồ thứ mười ba hay sự sống còn của Giáo hội.

Leeland khẽ huýt sáo:

- I see 1….

- Cuối cùng, các hướng nghiên cứu cũng bắt đầu gặp nhau: bản khắc ở Germigny khẳng định rằng vào thế kỷ VIII, một tông đồ thứ mười ba bị coi là rất nguy hiểm, đến nỗi người ta phải gạt bỏ ông ta vĩnh viễn, alpha và omega – và chúng ta biết rằng ông ta không phải là ai khác mà chính là môn đồ cưng trong kinh Phúc âm thứ tư. Origène cho chúng ta biết rằng ông ấy đã nhìn thấy ở Alexandria một bức thư do người này viết, và bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ khẳng định rằng có một hoặc nhiều bản sao của bức thư này ở Nag Hamadi, bởi vì nó ra lệnh hủy bỏ các bản sao đó.

- Nhưng làm sao mà bức thư này lại có thể đến tận Nag Hamadi được?

- Chúng ta biết rằng người Nazareth đã trốn chạy đến Pella, vùng hiện nay thuộc Jordan, có thể họ cùng đi với tông đồ thứ mười ba. Sau đó, người ta mất dấu họ. Nhưng cha Andrei đã yêu cầu tớ đọc kỹ kinh Coran, bộ kinh mà ông ấy hiểu rõ. Và tớ đã làm thế, bằng cách so sánh nhiều bản dịch khoa học có được ở tu viện. Tớ ngạc nhiên khi thấy tác giả rất hay nhắc đến những naçâra – từ Ả Rập để chỉ "người Nazareth" – họ chính là nguồn thông tin chủ yếu về Jesus. Sau Pella, các học trò của tông đồ thứ mười ba đã phải trốn chạy đến Ả Rập, nơi có lẽ Muhammad quen biết họ. Thế thì có lý gì mà họ không tiếp tục đến tận Hy Lạp? Đến tận Nag Hamadi, và mang theo các bản sao của bức thư nổi tiếng này?

- Kinh Coran… Cậu thực sự tin rằng những người Nazareth chạy trốn có ảnh hưởng đến tác giả của kinh này à?

- Đương nhiên, có rất nhiều điều trong văn tự này thể hiện điều đó. Tớ không muốn nói thêm về chuyện này với cậu bây giờ: tớ còn phải khám phá thêm hướng đi cuối cùng, một hoặc một loạt tác phẩm liên quan đến các Hiệp sĩ dòng Đền, với một mã số không đầy đủ. Lần khác chúng ta sẽ nói về kinh Coran, đã muộn rồi, tớ phải về San Girolamo.

Cha Nil đứng dậy, và lại nhìn ra thành phố chìm trong bóng tối. Ông nói thêm như tự nhủ:

- Vậy là tông đồ thứ mười ba đã viết một bức thư, nó bị hủy bỏ ở khắp nơi, và bị lòng căm thù của Giáo hội truy đuổi. Liệu có thể có điều gì nguy hiểm đến thế trong bức thư này nhỉ?

Ở tầng dưới, Moktar nghe rất chăm chú. Khi cha Nil nhắc đến kinh Coran, Muhammad và những người Nazareth, hắn buộc miệng chửi rủa:

- Đồ con chó!

59

Sa mạc Ả Rập, tháng Chín năm 622

Người đàn ông cho lạc đà phi nước đại trong đêm đen. Anh đang chạy trốn về phía Medina, lạc đà chạy hết sức đến sùi bọt mép, và đêm nay sẽ được gọi là Hégire 2, đánh dấu thời điểm bắt đầu lịch của người Hồi giáo.

Anh trốn khỏi ốc đảo Bakka, nơi anh sinh ra trong bộ tộc danh giá của người Quraysh. Anh trốn chạy vì người Quraysh tự xưng là con của Abraham, nhưng lại tôn thờ những viên đá thiêng.

Tại nơi dừng chân ở giữa sa mạc này, từ thời xa xưa đã có một cộng đồng người Do Thái sinh sống. Đứng đầu cộng đồng đó là một giáo trưởng uyên bác, nhiệt thành, mơ ước dẫn dắt toàn bộ Ả Rập đến với đạo Do Thái thông qua truyền thống giáo trưởng của mình. Chàng thanh niên Ả Rập đã bị con người cuồng nhiệt này quyến rũ: anh trở thành học trò của ông và lặng lẽ cải đạo.

Nhưng giáo trưởng của anh đòi hỏi nhiều hơn thế. Những người Quraysh kiêu ngạo bác bỏ lời thuyết giáo của một người Do Thái: biết đâu họ sẽ nghe theo anh, một người Ả Rập cùng bộ tộc với họ? Chẳng phải là anh vẫn không mang dòng máu Do Thái đó sao? Điều ông dạy anh mỗi ngày, ông muốn anh nhắc lại ở các nơi trong ốc đảo. "Hãy nói với họ," ông không ngừng nhắc lại với anh… Để không bỏ sót bất kì điều gì đã nghe được, Muhammad ghi chép lại, và các ghi chép ngày càng nhiều lên. Bằng tiếng Ả Rập, vì giáo trưởng hiểu rằng phải nói chuyện với những người này bằng ngôn ngữ của họ, chứ không phải bằng tiếng Hê brơ.

Đối với những người Quraysh, thế là quá lắm: một người của họ, Muhammad, lại đang tìm cách phá bỏ nghi lễ thờ đá thiêng, nguồn gốc sự giàu có của họ! Cùng lắm thì họ chỉ có thể dung thứ nếu anh trở thành người Nazareth: những người ly khai khỏi đạo Cơ Đốc này đã đến đây từ nhiều thế kỷ nay, và nhà truyền giáo Jesus của họ không nguy hiểm. Cùng với những lời giảng dạy của giáo trưởng, chàng trai Ả Rập sẵn lòng nghe lời giảng dậy của họ: bị Jesus lôi cuốn, có lẽ Muhammad sẽ muốn sáp lại gần họ. Nhưng những người Quraysh không để anh có thời gian, và họ xua đuổi anh.

Giờ đây, anh trốn chạy về phía Medina: toàn bộ hành lý của anh chỉ bao gồm những ghi chép quý báu. Những điều mà anh ghi lại ngày này qua ngày khác, theo lời giáo trưởng của anh: hãy nói với họ…

Ở Medina, anh trở thành một dũng tướng. Thành công tích tụ, anh mở rộng quyền lực của mình ra cả một vùng và trở thành thủ lĩnh chính trị được tôn trọng. Phải có những điều luật để tổ chức những người đi theo anh: anh ban bố luật, sau đó viết chúng ra, và những văn tự này dần cộng thêm vào các ghi chép trước kia của anh. Đôi khi anh cũng ghi lại những việc linh tinh, một vài câu chuyện kể về các trận đánh của mình. Những ghi chép của anh tạo thành một cuốn sổ đi đường lớn.

Khi anh muốn tập hợp những người Do Thái dưới trướng của mình, họ từ chối thẳng thừng: anh tức giận xua đuổi họ ra khỏi thành phố và quay về với những người Cơ Đốc ở phương Bắc. Được, những người này sẽ sẵn sàng giúp anh trong các cuộc chinh phục, tuy nhiên với một điều kiện: anh phải trở thành người Cơ Đốc, và thừa nhận thiên chất của Jesus. Muhammad nguyền rủa họ, và căm thù họ khôn nguôi như đối với những người Do Thái.

Chỉ có những người Nazareth là được ưu ái trong mắt anh. Và trong sổ của mình, anh viết những lời ca ngợi họ và nhà truyền giáo Jesus của họ.

Khi trở về Bakka với tư cách người chiến thắng, Muhammad dùng kiếm quét sạch những viên đá thiêng của những người tôn sùng chúng. Nhưng ông dừng lại trước hình Jesus và mẹ Người, vốn được người Nazareth sùng kính từ lâu. Ông tra kiếm vào vỏ và cúi người thật thấp.

Sau đó, cái tên Bakka có thay đổi chút ít, như đã diễn ra, và ốc đảo này được biết đến ở mọi nơi dưới tên gọi Mekka.

Mecca.

Hai thế hệ sau, vua Thổ Nhĩ Kỳ là Othman sưu tập lại cuốn sổ đi đường của Muhammad, và gọi nó là Coran, tuyên bố rằng nó được Muhammad viết ra theo lời đọc trực tiếp của Chúa. Từ đó trở đi, không ai được nghi ngờ về bản chất thần thánh của kinh Coran, nếu còn muốn sống.

Đạo Hồi chưa bao giờ có tông đồ thứ mười ba.

60

Quảng trường Saint Peter huyên náo đông chật người đổ về chờ đón những ngày quan trọng. Một tấm chân dung to tướng của vị tuyên thánh mới đã được treo ở mặt tiền giáo đường. Trời bớt lạnh và có nắng nên có thể tổ chức lễ tuyên phúc trọng thể ở ngoài trời, hai cánh của hàng cột Bernin ôm trọn đám đông ô hợp vui sướng được nhìn thấy Đức Thánh Cha và tham gia vào một lễ hội của đạo Cơ Đốc.

Với tư cách người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, Hồng y Catzinger đứng chủ lễ ở bên phải Giáo hoàng. Ông là người chủ trì lễ tuyên phúc này: lễ tuyên phúc sắp tới có thể sẽ dành cho người sáng lập ra hội Opus Dei. Danh sách liệt kê các phẩm chất siêu nhiên của ông ta đã được lập ra không khó khăn gì, nhưng người ta rất vất vả để tìm được ba phép màu cần thiết cho việc phong thánh theo đúng quy định. Catzinger máy móc nhấc lên một vạt áo choàng của Giáo hoàng bị tuột bởi ông già đang run rẩy. Trong khi Giáo hoàng tuyên bố những lời thiêng liêng, Hồng y mỉm cười. "Phép màu ư, rồi sẽ thấy. Phép màu đầu tiên là sự tồn tại liên tục trong suốt nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo tông truyền La Mã."

Catzinger có cái đặc huệ là quen biết riêng người chuẩn bị được phong thánh. Trước khi thành lập Opus Dei, Escriva de Balaguer đã từng là một chiến sĩ tích cực trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bên cạnh Franco, sau đó có mối liên hệ bạn bè với một sĩ quan trẻ trong quân đội Chi Lê, một anh chàng Augusto Pinochet nào đó. Cha ông ta có lẽ sẽ tán thành việc phong thánh này; ông này cũng đã chọn hướng đi đúng khi đi chiến đấu trên mặt trận phía Đông chống Cộng Sản. Sớm đưa Escriva de Balaguer lên bàn thờ chính là trả lại công bằng cho người cha đã chết vì phương Tây.

Lẫn trong đám đông các giáo sĩ cấp cao ngồi thành hàng trên những chiếc ghế dài đặt trước bục của Giáo hoàng, ở vị trí kiêm tốn dành cho thư lại, Đức ông Calfo hưởng thụ sự ve vuốt của ánh mặt trời và quang cảnh đẹp đẽ. "Chỉ có Giáo hội Công giáo mới có khả năng tổ chức một cuộc hội ngộ giữa thần thánh và con người ở giữa một quang cảnh đẹp đến thế, cho đông đảo người đến thế." Cuối buổi lễ, trong khi các giáo sĩ xếp thành đoàn rước phía sau Giáo hoàng, ông bắt gặp ánh mắt của Hồng y, ông này gật đầu ra dấu khẩn cấp.

Một giờ sau, hai người ngồi đối diện nhau trong văn phòng của Catzinger, ông này đang phô ra vẻ mặt của những ngày tồi tệ.

- Thế nào, Đức ông, mọi việc thế nảo rồi?

Ngược lại với người đứng đầu Cơ quan, Calfo có vẻ rất thư thái. Sonia không phải là không được việc gì: ông tìm thấy ở cô một nữ tu sĩ thành thạo trong nghi lễ thờ thần Eros, đồng thời cũng là một thính giả tốt.

- Thưa Đức Hồng y, chúng ta đang tiến triển nhanh chóng, Cha Nil tỏ ra có năng lực, rất có năng lực trong việc nghiên cứu.

Gương mặt Hồng y nhăn lại. Những báo cáo của Leeland chẳng có gì thú vị, cách quãng, và vẫn còn quá sớm để gây áp lực đối với cha Breczinsky: ảnh hưởng của ông đối với người Ba Lan này dựa trên những khúc quanh tối tăm trong tâm hồn con người, ông chỉ có thể sử dụng đòn bẩy này một lần, và phải chắc chắn. Lúc này, Đức ông Calfo là người duy nhất điều khiển trò chơi.

- Ông muốn nói gì?

- À thì…- Calfo uốn đôi môi dày – ông ta tìm thấy dấu vết của một văn bản tông đồ đã bị mất, có thể khẳng định những phân tích của ông ta về kinh Phúc âm theo thánh Jean.

Hồng y đứng dậy, ra hiệu cho Calfo đi theo mình đến gần cửa sổ và chỉ cho ông này thấy quảng trường Saint Peter. Bục của Giáo hoàng vẫn còn ở đó, hàng nghìn người hành hương đang vây quanh trung tâm nhạy cảm này giống như nước trong một xoáy nước xoay quanh xoáy hút. Đám đông có vẻ hạnh phúc, một gia đình lớn phát hiện ra những mối dây liên kết các thành viên lại với nhau ngay khi đang hình thành.

- Hãy nhìn họ đi, Đức ông. Ông và tôi phải chịu trách nhiệm về hàng triệu tín đồ giống như những người này, những người sống bằng niềm hy vọng về sự phục sinh mà hóa thân của Chúa đã hy sinh bản thân để mang đến cho họ. Chỉ một người sẽ đe dọa tất cả những thứ này ư? Chúng ta chưa bao giờ dung thứ cho điều đó. Hãy nhớ đến Giordano Bruno, một tu sĩ cũng rất có năng lực trong việc nghiên cứu: ông ta bị thiêu cách đây một kilomet, tại khu Campo de Fiori, mặc dù ông ta nổi tiếng khắp châu Âu. Thứ đang nói đến ở đây là trật tự của thế giới: lại một lần nữa, dường như một tu sĩ có khả năng làm đảo lộn nó. Giờ đây chúng ta không thể chữa lành thân thể của Giáo hội bằng lửa giống như trong quá khứ. Mà chúng ta phải nhanh chóng chấm dứt các nghiên cứu của cha Nil.

Calfo không trả lời ngay. Mười một thành viên của Hội đã ủng hộ đường lối hành động của ông: chỉ đưa thông tin đủ để làm cho Hồng y sợ, nhưng không để lộ mục đích cuối cùng của Hội.

- Tôi không nghĩ vậy, thưa Đức Hồng y, đó chỉ là một nhân vật trí thức không biết rõ việc mình đang làm thôi. Ý kiến của tôi là cứ để ông ta tiếp tục, chúng ta vẫn kiểm soát được tình hình.

- Nhưng nếu ông ta quay về tu viện, làm sao tránh được việc ông ta công bố các kết luận của mình?

- Pazienza 3, thưa Đức Hồng y. Có những cách thức khác, ít gây ấn tượng hơn một tai nạn tàu hỏa, để khiến những người đi lạc khỏi giáo lý của Giáo hội phải câm miệng.

Ngày hôm trước, ông đã phải xoa dịu một Moktar đang nổi điên lên khi nghe cha Nil bác bỏ bản chất thiêng liêng của kinh Coran và thân nhân của người sáng lập ra đạo Hồi: người Palestine này muốn hành động ngay lập tức.

Chỉ trong vài ngày, cha Nil đã tự khoác vào người một chiếc thắt lưng bằng chất nổ. Calfo không muốn cha Nil làm mình nổ tung trước khi tỏ ra thực sự có ích cho Giáo hội Công giáo. Bằng một cử chỉ máy móc, ông xoay chiếc nhẫn Giám mục quanh ngón áp út và kết luận với một nụ cười bảo đảm:

- Ở Roma, cha Nil hành xử giống như chưa từng rời khỏi tu viện: chỉ ra khỏi San Girolamo để đến kho sách của Vatican, không giao tiếp với bất kỳ ai ngoài bạn ông ta là Leeland, không tiếp xúc với báo chí hay các lực lượng chống Giáo hội, dường như ông ta không biết gì về họ.

Calfo hất cằm về phía quảng trường Saint Peter.

- Ông ta không phải là mối nguy đối với những đám người này, họ sẽ không bao giờ nghe nói đến ông ta và ông ta cũng đã tự nguyện lựa chọn không biết đến họ bằng cách giam mình trong một tu viện. Hãy để ông ta được tiếp tục công việc nghiên cứu một cách yên ả: tôi có niềm tin vào quá trình đào tạo mà ông ta đã nhận được ngay từ khi còn tập sự ở tu viện Saint-Martin, đó là một cái khuôn đúc để lại dấu ấn suốt đời trên một con người. Ông ta sẽ trở lại hàng ngũ của mình: còn nếu ông ta muốn tìm lại tự do bên trong của mình, khi đó chúng ta sẽ can thiệp. Nhưng chắc là việc đó sẽ không cần thiết.

Khi chia tay nhau, hai giáo sĩ cấp cao cùng thỏa mãn: người thứ nhất nghĩ rằng đã khiến Đức Hồng y phải lo lắng đủ độ mà vẫn giữ được quyền tự do hành động. Người thứ hai nghĩ rằng tối nay sẽ được gặp Antonio và sẽ được cung cấp thông tin gần như bằng với hội trưởng của Hội Thánh Pie V.

61

- Sáng nay có lễ tuyên phúc: chúng ta sẽ không thể đi qua quảng trường Saint Peter được, phải đi vòng vậy.

Chìm trong suy nghĩ của chính mình, hai người đi vòng qua khu Santo Spirito rồi quay lại thành Vatican qua Lâu đài San Angelo, trước đây đã từng là lăng của hoàng đế Hadrien trước khi trở thành pháo đài và nhà ngục của Giáo hoàng. Cha Nil cảm thấy khó chấp nhận những khoảng im lặng nặng nề chen giữa họ từ khi ông đến Roma.

Cuối cùng Leeland cũng cất tiếng:

- Tớ không hiểu nổi cậu: cậu không ra khỏi tu viện từ nhiều năm nay, và ở đây cậu cũng sống như một người tu kín. Cậu đã yêu mến Roma biết bao khi chúng ta còn là sinh viên, hãy tận dụng một chút, đi thăm vài viện bảo tàng, gặp lại những người mà cậu quen biết trước đây… Cậu cư xử như cậu đã chuyển tu viện của cậu đặt giữa thành phố này vậy!

Cha Nil ngẩng đầu về phía bạn ông.

- Khi vào tu viện, tớ đã chọn nỗi cô đơn ở giữa một cộng đồng toàn cầu là Giáo hội Công giáo. Hãy nhìn đám đông kia, họ có vẻ rất sung sướng trước một lễ phong thánh mới! Trong một thời gian dài, tớ tin rằng họ là gia đình của tớ, thay thế cho gia đình đã từ bỏ tớ. Giờ đây, tớ biết rằng công việc nghiên cứu về nhân thân của Jesus đã loại tớ ra khỏi gia đình thứ hai này. Không ai xem xét lại những cơ sở của một tôn giáo là nền tảng của cả một nền văn minh mà lại không hề hấn gì! Tớ mường tượng rằng tông đồ thứ mười ba kia, khi chống đối lại Mười hai tông đồ, đã phải chịu đựng nỗi cô đơn tương tự. Tớ chỉ còn một người bạn, là Đấng Jesus mà tớ đang cố gắng vén màn bí ẩn về Người.

Ông nói thêm trong một tiếng thở dài:

- Và cả cậu nữa, tất nhiên.

Lúc này họ đang đi dọc những bức tường cao của Thành Vatican. Tu sĩ người Mỹ thọc tay vào túi rồi lấy ra hai tấm bìa nhỏ màu hồng.

- Tớ có một bất ngờ cho cậu. Tớ nhận được hai giấy mời xem buổi hòa nhạc của Lev Barjona tại nhạc viện Saint Cecillia ở Roma, đúng vào trước Noel. Tớ không cho phép cậu lựa chọn đâu, cậu sẽ đi với tớ.

- Anh chàng Lev Barjona này là ai?

- Một nhạc công dương cầm nổi tiếng người Israel, tớ đã quen ở đó khi anh ta còn là học sinh của Arthur Rubinstein: chúng tớ trở thành bạn của nhau dưới chân người thầy này. Một con người đáng ngạc nhiên, có một cuộc sống không giống ai. Anh ta đã ưu ái viết thêm một dòng riêng tư vào giấy mời, nói rằng tấm giấy mời thứ hai là để dành cho cậu. Anh ta sẽ biểu diễn bản Concerto thứ ba của Rachmaninov, hiện anh ta là người chơi bản này hay nhất.

Họ đi vào trong Thành Vatican.

- Tớ rất vui, cha Nil nói, tớ yêu thích Rachmaninov và đã rất lâu không xem buổi hòa nhạc nào, có thể điều đó sẽ khiến tớ thay đổi suy nghĩ.

Đột nhiên, ông dừng phắt lại và nhíu mày.

- Nhưng… làm thế nào mà bạn cậu lại gửi cho cậu tấm vé thứ hai để dành cho tớ?

Leeland có vẻ ngạc nhiên vì nhận xét này, và đang chuẩn bị trả lời thì họ bị tách nhau ra: một chiếc limousine công vụ sang trọng lướt qua ngay trước mặt họ. Bên trong, họ thoáng nhìn thấy bộ áo chùng tím của một Hồng y. Chiếc xe đi chậm lại để qua cổng Belvedere, và cha Nil đột nhiên nắm lấy cánh tay của tu sĩ người Mỹ.

- Rembert, hãy nhìn biển số chiếc xe này xem!

- Thì sao? S.C.V., Sacra Civitas Vaticani, đó là biển số của Vatican. Cậu biết rồi đấy, ở đây ngày nào mà chẳng thấy những chiếc xe như thế.

Cha Nil vẫn đứng như trời trồng giữa sân Belvedere.

- S.C.V.! Nhưng đó chính là ba chữ cái mà cha Andrei đã viết trong sổ của ông ấy, ngay trước chữ "Hiệp sĩ dòng Đền"! Từ nhiều ngày nay, tớ cố vắt óc xem nó có nghĩa là gì: vì tiếp sau nó là một mã số Dewey không đầy đủ, tớ đã tin chắc rằng nó chỉ một thư viện ở đâu đó trên thế giới. Rembert, tớ nghĩ mình vừa hiểu ra rồi! S.C.V. và đằng sau là bốn chữ số chính là vị trí của một loạt tác phẩm tại một trong các thư viện thuộc Sacra Civitas Vaticani, Vatican. Lẽ ra tớ phải nghĩ đến điều này: cha Andrei là người mắc bệnh lục lọi mãn tính. Ở thư viện San Girolamo, ông ấy đã tìm thấy một văn bản hiếm của Origène, nhưng chính ở đây ta phải tìm tác phẩm thứ hai mà ông ấy đã viết trên sổ tay.

Cha Nil ngẩng đầu nhìn về phía tòa nhà sừng sững.

- Trong đó, ẩn giấu ở một nơi nào đó, có một cuốn sách có thể sẽ cho phép tớ biết được nhiều hơn về bức thư của tông đồ thứ mười ba. Nhưng còn có điều gì đó mà tớ chưa hiểu, Rembert ạ: các hiệp sĩ dòng Đền có liên quan gì đến chuyện này nhỉ?

Leeland không nghe ông nói. Tại sao Lev Barjona lại gửi cho ông hai tấm giấy mời nhỉ?

Ông máy móc bấm mã số cửa vào kho sách Vatican.

Khi tiếng chuông vang lên, Breczinsky căng thẳng nắm lấy khuỷu tay người đang nói chuyện với mình.

- Chắc là họ đấy, sang nay tôi không chờ tiếp ai khác. Nếu ra bằng cửa trước chắc là anh sẽ gặp họ. Kho sách này có một cầu thang dẫn thẳng ra Thư viện Vatican: tôi sẽ dẫn anh đi lối đó, nhanh lên, họ sắp đến rồi.

Mặc một chiếc áo dòng bó sát, Antonio ném một cái nhìn sang tu sĩ người Ba Lan, trên gương mặt nhợt nhạt của ông hiện rõ vẻ hốt hoảng. Mọi việc thật dễ dàng: chỉ sau một lát trao đổi trong văn phòng mình, Breczinsky đã như bị tan chảy ra trước mặt anh. Hồng y hiểu rõ tâm hồn con người: chỉ cần biết cách tìm được vết thương bí mật, và ấn lên đó.

62

Sonia vuốt tóc ra trước ngực, và ngắm nhìn người đàn ông nhỏ bé đang mặc lại quần áo. Xét cho cùng, ông ta cũng không dữ tợn. Chỉ có điều kỳ quặc là cái cách nói chuyện không ngừng trong khi cô làm điều mà ông ta chờ đợi ở cô. Khi đến Ả Rập Xê út do bị hấp dẫn bởi viễn cảnh có được một việc làm, cô chấp nhận bị giam trong một căn phòng dành cho phụ nữ của một quan chức cao cấp. Khi làm tình, quan chức người Ả Rập này không nói lời nào, và kết thúc rất nhanh. Trong khi đó, Calfo không ngừng lẩm bẩm những điều không thể hiểu nổi, và bao giờ cũng về vấn đề tôn giáo.

Vốn là người theo Chính giáo, Sonia tôn trọng các vị chức sắc tôn giáo giống như tất cả những người Rumani khác. Nhưng người này hẳn là hơi bị rối loạn: ông ta yêu cầu cô tiến hành chậm chạp, đôi khi khiến cô sợ bằng việc nhìn chăm chăm vào cô. Chất giọng du dương của ông, giọng của một Giám mục, nói những điều gợi lên trong cô nỗi chán ngán dữ dội.

Cô không thể nói chuyện này với Moktar, người đã đưa cô đến Roma. "Em sẽ gặp, anh ta nói với cô, một khách hàng trả công rất hậu." Đúng vậy, vị Giám mục này rất hào phóng. Nhưng giờ đây Sonia cảm thấy thật quá chật vật mới kiếm được khoản tiền này.

Vừa cài cúc cổ chiếc áo dòng, Calfo vừa quay sang cô.

- Em phải đi thôi, tối mai ta có cuộc họp. Một cuộc họp quan trọng. Em có hiểu không?

Cô gật đầu. Vị Giám mục giải thích cho cô rằng để có thể lên đến cấp độ của Tầng trời 4, phải duy trì mối liên kết biện chứng giữa hai khối, xác thịt và tinh thần. Cô chẳng hiểu gì về bài thuyết giảng không đầu không cuối này, nhưng biết rằng mình sẽ chỉ phải quay lại sau hai ngày nữa.

Ông ta luôn như vậy mỗi khi có "cuộc họp quan trọng". Và ngày mai là thứ Sáu ngày 13.

Mười hai tông đồ tỏ vẻ đặc biệt trang trọng. Mặc áo lễ màu trắng, Antonio lặng lẽ lách vào sau chiếc bàn dài để ngồi vào chỗ của mình. Ánh mắt đen kỳ lạ của anh, thứ duy nhất lộ ra sau tấm vải che mắt, rất trong sáng và an bình.

- Như tất cả các thứ Sáu ngày 13 khác, thưa các anh em, Hội chúng ta lại có cuộc họp thể thức. Nhưng trước khi thể hiện lòng tôn kính đối với vật quý mà chúng ta đang sở hữu, tôi phải thông báo cho các vị biết những tiến triển mới nhất của nhiệm vụ đang được tiến hành.

Hội trưởng ngắm nhìn cây thánh giá trước mặt mình một lát rồi tiếp tục nói trong bầu không khí im lặng hoàn toàn:

- Nhờ vào điệp viên người Palestine của tôi, chúng ta đã có được băng ghi âm tất cả những điều được nói ra trong căn phòng trên đường Aurelia. Tu sĩ người Pháp tỏ ra là người kế tục xứng đáng của cha Andrei. Ông ta đã phá được mật mã của bản khắc Germigny, và hiểu được ý nghĩa của bản khắc này dựa vào câu đầu tiên trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ. Ông ta đã tìm lại được lời kể của Origène, và dựa vào câu thứ hai trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, ông ta đang trên con đường dẫn đến bức thư của tông đồ thứ mười ba – bức thư mà cha Andrei chỉ nghi ngờ là có tồn tại trước khi đến Roma.

Một cơn rùng mình lan khắp Hội, và một trong số các tông đồ đưa cẳng tay ra:

- Người anh em Hội trưởng, liệu chúng ta có đang đùa với lửa không? Từ thời các Hiệp sĩ dòng Đền, không ai tiếp cận gần đến thế bí mật mà chúng ta có sứ mệnh bảo vệ.

- Hội chúng ta đã cân nhắc và đi đến quyết định. Để cha Nil tiếp tục việc nghiên cứu là mạo hiểm, nhưng là mạo hiểm có tính toán. Mặc dù các vị tiền bối của chúng ta đã rất cố gắng, nhưng dấu vết của bức thư đó không hoàn toàn biến mất. Chúng ta biết rằng nội dung của nó có thể hủy hoại Giáo hội Công Giáo, và cùng với đó là nền văn minh mà Giáo hội là linh hồn đồng thời cũng là nguồn cảm hứng. Có thể vẫn còn lại một bản sao đã thoát khỏi sự kiểm soát chặt chẽ của chúng ta. Đừng lặp lại sai lầm đã phạm với cha Andrei: chúng ta đã thả con chồn ra, vậy thì lần này đừng ngăn cản nó đuổi theo con mồi. Nếu ông ta xác định được vị trí của bức thư, chúng ta sẽ hành động, rất nhanh chóng. Cha Nil đang làm việc cho chúng ta…

Ông bị một tông đồ ngắt lời, chiếc áo lễ trắng không giấu nổi được căn bệnh béo phì ở người này.

- Phần lớn thời gian họ ở kho sách Vatican: chúng ta có phương tiện nào để kiểm soát được những điều họ nói trong khu vực chiến lược này?

Hội trưởng là người duy nhất biết rằng tông đồ này là một thành viên cao cấp trong Cơ quan truyền bá đức tin, một trong những cơ quan tình báo hiệu quả nhất thế giới. Ông trả lời với vẻ tôn trọng: người này nắm được tất cả các thông tin thu thập được trên năm châu lục, cho đến từng xứ đạo nhỏ nhất ở nông thôn.

- Hôm qua, một người trong số chúng ta đã đến thăm cha Breczinsky, để nhắc nhở ông ta một số điều. Có vẻ ông ta đã hiểu. Tôi nghĩ chúng ta sẽ nhanh chóng xác định được khả năng của cha Nil trong việc tìm thấy bức thư. Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang phần thể thức của cuộc họp.

Với sự trợ giúp của hai tông đồ, ông cho trượt tấm bảng gỗ sang bên, và trân trọng nhấc chiếc hộp đặt trên giá giữa lên. Trước mặt Mười một tông đồ bất động, ông đặt nó lên bàn rồi nghiêng mình thật thấp.

- Thứ sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, quan chưởng ấn Guillaume de Nogaret đã bắt thượng tế của dòng Đền là Jacques de Molay và một trăm ba mươi tám đạo hữu của ông ta tại đền ở Paris. Họ bị giam trong những hầm ngầm và bị hỏi cung, tra tấn liên tục. Cùng ngày hôm đó, trên toàn nước Pháp, hầu hết các thành viên của dòng Đền đã bị bắt và vô hiệu hóa: cộng đồng theo đạo Cơ Đốc được cứu vớt. Hôm nay, theo quy định, chúng ta kỷ niệm ngày thứ Sáu ngày 13 này, ngày đã trở thành ngày tiền định trên toàn thế giới.

Rồi ông cúi xuống, mở chiếc hộp ra. Cha Nil đã tìm được hầu hết các dấu vết mà bức thư của tông đồ thứ mười ba để lại trong Lịch sử, nhưng dấu vết này thì hẳn ông ta đã để tuột mất. Ông lùi lại một bước.

- Các anh em, xin mời thực hiện nghi lễ.

Các tông đồ đứng dậy, rồi từng người một tiến đến gần để hôn lên chiếc nhẫn của hội trưởng, sau đó là vật đựng trong hộp.

Khi đến lượt mình, Antonio đứng bất động một lát trên bàn: được đặt sơ sài trên chiếc gối con bằng nhung đỏ, một khối vàng tự nhiên ánh lên nhè nhẹ. Nó rất nhẵn và mang hình một giọt nước mắt.

"Thứ còn lại từ kho báu của các Hiệp sĩ dòng Đền!"

Anh nghiêng mình, lồng mặt mình vào trong hộp và đặt môi lên giọt lệ vàng. Anh cảm giác nó vẫn còn cháy bỏng, và một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra sau đôi mắt đang nhắm lại của anh.

63

Cha Breczinsky đón họ với một nụ cười nhợt nhạt, rồi dẫn họ đến bàn làm việc mà không nói lời nào. Sau khi gật đầu ra hiệu, ông vào văn phòng mình và để cửa mở hé.

Chìm đắm trong phát hiện mới của mình, cha Nil không để ý đến thái độ dè dặt của ông. "S.C.V., một mã số của Vatican. Đây là một trong những thư viện lớn nhất thế giới! Tìm một cuốn sách trong đó: quả nhiệm vụ bất khả thi."

Ông làm việc như một cái máy trong vài phút, rồi bỗng thở mạnh và quay sang Leeland.

- Rembert, cậu có thể làm việc một mình một lát được không? Breczinsky là người duy nhất có thể giúp tớ tìm xem mã số S.C.V. mà cha Andrei để lại trong sổ tay của ông ấy ứng với cái gì. Tớ sẽ đi hỏi ông ấy.

Một bóng đen lướt qua khuôn mặt tu sĩ người Mỹ, ông thầm thì:

- Tớ xin cậu, hãy nhớ lại điều tớ đã nói với cậu: ở đây, cậu đừng tin tưởng bất cứ ai.

Cha Nil không nói gì: "Tớ biết những điều mà cậu không biết." Ông tháo găng và gõ vào cánh cửa văn phòng của viên thủ thư.

Breczinsky ngồi bất động trước màn hình vi tính đã tắt, hai tay đặt nằm trên bàn.

- Cha ạ, hôm trước cha đã nói là cha sẵn sàng giúp tôi. Tôi có thể nhờ cha một việc không?

Tu sĩ người Ba Lan nhìn ông không nói gì, nét mặt hoảng hốt. Rồi ông cúi xuống nhìn vào đôi bàn tay, và nói bằng giọng trầm đục, như nói với chính mình, như thể cha Nil không có ở đó:

- Cha tôi bị giết chết vào cuối năm 1940, tôi không biết mặt ông. Mẹ tôi kể lại: một buổi sáng, một sĩ quan cao cấp thuộc quân đội Wehrmacht đã đến tìm tất cả đàn ông trong làng, nói là để làm một công việc trong rừng. Cha tôi không bao giờ quay trở lại, còn mẹ tôi chết khi tôi sáu tuổi. Một người anh họ ở Cracovie đã đón tôi về nhà, tôi là một đứa trẻ bơ vơ sau chiến tranh và tôi không thể nói được nữa. Cha xứ trẻ của xứ đạo bên cạnh đã thương xót đứa trẻ câm: ông đón tôi về ở cùng ông, giúp tôi lấy lại niềm vui sống. Rồi một ngày, ông ấy làm dấu thánh lên trán, lên môi và lên tim tôi. Ngày hôm sau, lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi đã nói. Sau đó ông ấy cho tôi vào trường dòng trong địa phận Cracovie nơi ông làm Giám mục. Tôi nợ ông mọi thứ, ông là cha của tâm hồn tôi.

- Thế ông ấy tên là gì?

- Karol Wojtyla. Ông là Giáo hoàng hiện nay. Vị Giáo hoàng mà tôi phụng sự với tất cả sức lực của mình.

Cuối cùng ông ngước mắt lên và nhìn chăm chăm vào mắt cha Nil.

- Cha là một tu sĩ chân chính, cha Nil ạ, giống như cha Andrei: các cha sống trong một thế giới khác. Tại Vatican, có một mạng lưới được dệt nên xung quanh Giáo hoàng, bởi những kẻ trục lợi từ việc ngài không biết được tất cả những điều chúng làm nhân danh ngài. Tại Ba Lan, Karol Wojityla chưa bao giờ biết đến chuyện gì tương tự thế: ở đó, giới tăng lữ hoàn toàn đoàn kết, chống lại kẻ thù Xô Viết chung. Mỗi người đều đặt vào người khác một niềm tin mù quáng, Giáo hội Ba Lan có lẽ sẽ không tồn tại được nếu có những thủ đoạn trong nội bộ. Chính với tinh thần này mà Giáo hoàng đã giao phó các trách nhiệm của ngài cho những người như Hồng y Catzinger. Và tôi, tôi là nhân chứng thầm lặng của rất nhiều điều.

Ông cố gắng đứng lên.

- Tôi sẽ giúp cha, giống như tôi đã giúp cha Andrei. Nhưng tôi đang làm một việc rất mạo hiểm: hãy thề với tôi là cha sẽ không tìm cách hại Giáo hoàng.

Cha Nil trả lời nhẹ nhàng:

- Tôi chỉ là một tu sĩ, cha ạ, không gì khiến tôi quan tâm ngoài khuôn mặt và nhân thân của Jesus. Chính trị và các phong tục của Vatican hoàn toàn xa lạ đối với tôi, tôi không liên quan gì đến Hồng y Catzinger, ông ta không biết gì về công việc của tôi. Cũng như cha Andrei, tôi là con người của sự thật.

- Tôi tin cha: Giáo hoàng cũng vậy, ngài là con người của sự thật. Tôi có thể làm gì cho cha?

Cha Nil đưa ra cuốn sổ tay của cha Andrei.

- Trong thời gian ở Roma, cha Andrei đã tra cứu một cuốn sách mà ông ấy ghi lại mã số ở đây: nó có nói lên điều gì với cha không?

Breczinsky chăm chú xem xét trang giấy trong cuốn sổ, rồi ngẩng đầu lên.

- Tất nhiên, đây là mã số thuộc kho sách này. Nó chỉ toàn bộ kệ sách nơi cất giữ biên bản thẩm tra các Hiệp sĩ dòng Đền. Khi đến đây, cha Andrei đã hỏi tôi xem có thể xem được không, mặc dù ông ấy không có giấy phép. Cha đi theo tôi.

Họ im lặng đi qua phía trước chiếc bàn nơi Leeland đang cúi người trên một bản thảo và không thèm ngẩng lên. Đến căn phòng thứ ba, Breczisky ngoặt sang trái và dẫn cha Nil đến trước một kệ sách đặt trong khu đã được gia cố.

- Ở đây – Ông chỉ vào những giá sách đặt dọc theo tường – cha sẽ thấy các văn bản của Tòa án dị giáo liên quan đến vụ các Hiệp sĩ dòng Đền, các văn bản gốc. Tôi có thể nói với cha rằng cha Andrei đã dừng rất lâu trên các biên bản thẩm tra Hiệp sĩ Esquieu de Floyran do Guillaume de Nogaret thực hiện, và thư từ trao đổi của Philippe le Bel, chính tôi đã xếp lại chúng vào đúng chỗ sau khi ông ấy đi. Tôi hy vọng cha sẽ làm việc nhanh như ông ấy: tôi để cha ở đây trong vòng hai giờ. Và cha nhớ cho: cha chưa bao giờ đến khu vực này của kho sách.

Ông tránh đi như một cái bóng. Trong cái xó vắng vẻ này, chỉ còn nghe thấy tiếng máy điều hòa nhiệt độ kêu ro ro. Khoảng mười chiếc hộp giấy xếp thành hàng, được đánh số thứ tự. Trong một hộp, trên một trang giấy mà cha Andrei tìm thấy do chứng thực viên của Tòa án dị giáo ghi lại trước mặt tù nhân bị tra tấn đến kiệt sức, có lẽ có dấu vết của tông đồ thứ mười ba.

Ông cả quyết kéo chiếc hộp đầu tiên: Lời thú nhận của đạo hữu Esquieu de Floyran, Hiệp sĩ vùng Béziers, do tôi, Guillaume de Paris, đại diện cho vua Phillippe le Bel và Quan tòa Tòa án dị giáo Pháp, ghi lại với sự hiện diện của Đức ông Guillaume de Nogaret

64

Bờ biển Chết, tháng Ba năm 1149

- Cố gắng thêm chút nữa, Peter, chúng đang bám gót chúng ta.

Esquieu de Floyran ôm ngang lưng người đồng hành của mình. Họ đang ở dưới chân một vách núi dốc đứng do những đám đá kết thành, trên đó có những đường mòn quanh co do bầy dê đi lại tạo nên. Thấp thoáng có những cái lỗ màu đen: lối vào các hang động tự nhiên nhô ra phía trên khoảng không.

Từ khi gặp nhau ở Vézelay ba năm trước đây, hai người không rời nhau ra nữa. Hừng hực nhiệt huyết sau khi nghe bài thuyết giáo của Thánh Bernard, họ đã khoác lên người chiếc áo lễ màu trắng có chữ thập đỏ và gia nhập cuộc Thập Tự Chinh lần thứ hai đến Palestine. Ở đó, trong dải Gaza, các Hiệp sĩ rơi vào bẫy của những người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc đế chế Seldjoukide. Esquieu muốn thoát khỏi chiến lũy: dẫn đầu một đoàn khoảng mười lăm kỵ sĩ, giữa ban ngày anh vượt ra ngoài hòng đánh lạc hướng, và đương nhiên bị một số quân địch đang vây hãm đuổi theo. Trên đường chạy về phía Đông, những người đồng hành của anh lần lượt gục ngã. Bên cạnh anh chỉ còn lại Peter de Montbrison, người bạn trung thành

Đến bên bờ biển Chết, ngựa của họ quỵ ngã. Hai Hiệp sĩ nhảy qua một bức tường gỗ, và đi vào một vùng đổ nát vẫn còn mang dấu vết của một trận cháy khủng khiếp. Họ chạy qua một hồ chứa nước lớn đào trong đá, rồi đi dọc theo những con kênh dẫn nước tưới đổ về phía vách đá. Đó là lối thoát của họ

Đúng lúc họ ra khỏi vùng được cây che phủ, Peter thét lên một tiếng rồi ngã xuống. Khi người đồng hành của anh cúi xuống, một mũi tên xuyên qua bụng anh, ở chỗ thắt lưng.

- Để mặc tôi, Esquieu, tôi bị thương rồi!

Để mặc anh rơi vào tay chúng ư? Không bao giờ! Chúng ta sẽ trốn trong vách đá này, và sẽ thoát được nhờ bóng đêm. Có một ốc đảo ngay gần đây, ốc đảo Ein Feshka: đó là con đường về phía Tây, con đường thoát. Anh hãy dựa vào tôi, đây không phải là mũi tên đầu tiên anh bị trúng: lên trên kia chúng ta sẽ rút nó ra, và anh sẽ gặp lại nước Pháp cũng như đội quân của anh

Những lời lẽ sục sôi của Thánh Bernard vẫn văng vẳng bên tai anh: "Các kỵ sĩ của Christ dâng hiến cái chết một cách bình yên. Nếu anh ta chết, là tốt cho anh ta, nếu anh ta giết người, đó là vì Christ." 5. Nhưng lúc này, điều cần nhất là phải thoát khỏi nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ điên cuồng

Allahou Akbar! Tiếng hét của chúng ở rất gần rồi. "Peter không thể trụ được nữa. Chúa ơi, hãy cứu chúng con!"

Người nọ dìu người kia, họ lách vào trong vách đá.

Họ dừng lại bên lối vào một hang đá, và Esquieu đưa mắt liếc nhìn xuống phía dưới: những kẻ đuổi theo hình như đã để mất dấu họ, và đang bàn bạc với nhau. Từ nơi họ đứng, anh có thể nhìn thấy không chỉ những đống đổ nát cháy đen họ vừa đi qua, mà cả vịnh nhỏ thuộc biển Chết đang ánh lên dưới mặt trời buổi sáng

Bên phải anh, Peter đang tựa mình vào vách đá, tái mét

- Anh phải nằm xuống, và tôi sẽ rút mũi tên ra. Lại đây, chúng ta phải lách vào lỗ hổng này, rồi chờ đến đêm

Lối vào hẹp đến nỗi họ phải đưa chân vào trước. Esquieu đỡ người đồng hành đang rên rỉ, người đầy máu. Kỳ lạ là bên trong hang khá sáng. Anh đặt người bị thương nằm xuống bên trái lối vào, đầu gối lên một thứ giống như là cái bát bằng đất nung nhô lên trên cát. Rồi bằng một động tác dứt khoát, anh rút mũi tên ra: Peter thét lên một tiếng và bất tỉnh

"Mũi tên đã xuyên từ bên này sang bên kia bụng, máu chảy nhiều quá: anh ấy hỏng rồi"

Anh nhỏ nốt những giọt nước cuối cùng trong mình vào môi người hấp hối. Rồi xem xét thung lũng phía dưới: bọn người Thổ vẫn ở đó, phải chờ đến lúc chúng đi khỏi. Nhưng có lẽ Peter sẽ chết trước lúc đó

Là người có học thức uyên bác, Esquieu đã tiếp nhận trên đất của mình một tu viện của các tu sĩ da trắng thuộc dòng tu mới do Thánh Bernard khởi lập. Anh dành thời gian rỗi để đọc các bản thảo tập hợp trong phòng viết của họ, và đã nghiên cứu y thuật của Gallien trong văn bản tiếng Hy Lạp: Peter vẫn đang chảy máu, máu tụ lại dưới thân thể anh thành một vũng sẫm màu. Có lẽ anh chỉ còn sống được khoảng một giờ nữa, hoặc ít hơn thế

Anh bối rối đưa mắt nhìn xuống nền đất trong hang. Dọc theo vách bên trái, những chiếc bát bằng đất nung nhô lên khỏi cát. Anh ngẫu nhiên nhấc chiếc thứ ba từ cửa vào lên: đó là một chiếc vại bằng đất, vẫn còn nguyên vẹn. Bên trong, anh nhìn thấy có cuộn vải dày được phủ dầu. Sát thành vại có một cuộn nhỏ hơn được xếp riêng ra. Anh nhấc nó ra không chút khó khăn. Đó là một mảnh giấy da còn tốt, được buộc lại chỉ bằng một sợi dây lanh mà anh dễ dàng tháo ra

Anh liếc nhìn Peter: anh này đang nằm bất động và thở một cách khó nhọc, gương mặt đã mang màu xỉn của những xác chết. "Bạn tội nghiệp của tôi… chết trên một vùng đất xa lạ thế này!"

Anh giở mảnh giấy da ra. Chữ viết trên đó là tiếng Hy Lạp, vẫn còn rất rõ ràng. Một lối viết thanh lịch, và anh dễ dàng nhận ra các từ ngữ: ngôn ngữ của các tông đồ

Anh lại gần lối ra, rồi bắt đầu đọc. Mắt anh mở to, và tay anh bắt đầu run nhè nhẹ

"Ta, môn đồ cưng của Jessus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…" Tác giả nói rằng vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng trong căn phòng lớn, họ không phải có mười hai, mà là mười ba tông đồ, và rằng tông đồ thứ mười ba chính là ông ta. Bằng những từ ngữ trang trọng, ông ta phản đối việc thần thánh hóa Jesus xứ Nazareth. Và khẳng định rằng Jesus không sống lại, mà sau khi chết đã được chuyển đến một nấm mồ, nấm mồ đó nằm ở…

- Peter, nhìn này! Một bức thư của tông đồ ở thời Jesus, bức thư của một trong số các tông đồ của Người…. Peter!

Đầu của anh bạn đã khẽ lệch ra khỏi chiếc bắt bằng đất úp trên chiếc vại đầu tiên trong hang. Bạn anh đã chết

Một giờ sau, Esquieu đưa ra quyết định: thân thể Peter sẽ ở lại đây để chờ đến thời điểm phục sinh cuối cùng. Nhưng bức thư này của một tông đồ của Jesus, bức thư mà anh chưa từng được nghe nói đến, anh phải tiết lộ nó với thế giới Cơ Đốc. Mang mảnh giấy da này theo là quá mạo hiểm: bị thời gian làm cho chai cứng, có thể nó sẽ nhanh chóng bị vỡ vụn ra. Và liệu tối nay anh có thoát khỏi tay đám người Hồi Giáo không? Anh có sống sót để đến được Gaza an toàn không? Bản gốc của bức thư sẽ ở lại hang đá này, nhưng anh sẽ chép ra một bản. Ngay lập tức

Anh kính cẩn lật xác bạn, cởi áo choàng và xé một mảnh lớn từ áo sơ mi của bạn. Rồi anh cẩn thận gọt một mẩu gỗ, đặt mảnh vải lên một phiến đá phẳng. Nhúng ngòi bút tự tạo vào vũng máu đang thấm đỏ nền đất. Và bắt đầu chép lại bức thư của tông đồ, như anh vẫn thường nhìn thấy mọi người làm trong phòng viết của tu viện

Mặt trời lặn sau vách đá Qumran. Esquieu đứng dậy: bức thư của tông đồ thứ mười ba giờ đã được chép lại bằng máu trên áo sơ mi của Peter. Anh cuộn mảnh giấy da, buộc lại bằng sợi dây lanh và cẩn thận đặt lại vào chiếc vại thứ ba – cố gắng để nó không chạm vào cuốn vải phủ dầu. Đậy lại nắp vại, cẩn thận gập bản sao vừa hoàn thành rồi luồn vào thắt lưng

Từ cửa hang, anh đưa mắt nhìn xuống dưới: bọn người Thổ đã giảm xuống chỉ còn một nửa. chỉ có một mình, có lẽ anh sẽ thoát được chúng. Anh phải chờ đến đêm, và chạy qua khu đồn điền của Ein Fesskha. Có lẽ anh sẽ thành công.

Hai tháng sau, một chếc thuyền buồm có đóng dấu chữ thập đỏ vượt qua lạch cảng Saint-Jean-d’Acre, và hướng mũi về phía Tây. Đứng trên mũi thuyền, một kỵ sĩ dòng Đền mặc áo choàng trắng đưa mắt nhìn lần cuối về phía đất nước của Christ

Anh bỏ lại phía sau thi thể người bạn tốt nhất. Trong một cái hang nhô ra phía trên Qumran có chứa hàng chục chiếc vại đựng đầy những cuộn vải lạ lùng. Ngay khi có thể, anh phải quay lại đó. Để lấy lại mảnh giấy da trong chiếc vại thứ ba, ở bên trái lối vào, và mang nó về Pháp, với tất cả sự cẩn trọng xứng đáng với một tài liệu thiêng liêng như vậy

Cái chết của Peter hẳn sẽ không vô ích: bản sao một bức thư của tông đồ mà chưa bao giờ có ai nghe nói đến, anh sẽ trao lại cho Giáo chủ của dòng Đền, Robert de Craon. Nội dung của nó có thể sẽ làm thay đổi bộ mặt thế giới. Và sẽ chứng tỏ với mọi người rằng các Hiệp sĩ dòng Đền đã đúng khi bác bỏ Christ, nhưng lại say mê Jesus

Khi đến Paris, Esquieu de Flyran yêu cầu được gặp riêng Robert de Craon. Trước mặt ông, anh rút từ thắt lưng ra một cuộn vải phủ đầy chữ màu hạt dẻ sẫm, và đưa nó cho Giáo chủ dòng Đền. người thứ hai giữ chức vị này

Không nói một lời, Giáo chủ trải tấm vải ra. Vẫn im lặng, ông đọc văn bản được viết lại rất rõ ràng. Ông nghiêm khắc bắt Esquieu phải thề giữ bí mật, trên máu của người anh em và cũng là bạn của anh, và để anh ra về chỉ với một cái gật đầu

Robert de Craon ở một mình cả tối và đêm trước mặt bàn trên đó có mảnh vải phủ đầy máu một người anh em của ông. Vết máu tạo nên những dòng chữ không thể tin nổi, những dòng chữ có khả năng gây đảo lộn nhất mà ông từng đọc

Ngày hôm sau, vẻ mặt nghiêm trang, ông cho gửi đến các Hiệp sĩ dòng Đền trên khắp châu Âu một lệnh triệu tập bất thường. Không ai trong số các anh em thuộc hội đồng thầy tu, quan án hoặc trưởng tu viện, từ những người được lấy tên đặt cho các pháo đài nổi tiếng cho đến những quân lộc nhỏ nhất, được vắng mặt trong cuộc họp toàn thể này

Không một ai.

65

Khi quay lại gặp người bạn vẫn đang cúi người bên bàn trong phòng làm việc ở kho sách, mặt cha Nil kín bưng. Leeland ngẩng đầu khỏi bản thảo.

- Thế nào?

- Không phải ở đây. Về đường Aurelia đi

Roma đang chuẩn bị mừng đón Noel. Theo truyền thống riêng của Thành phố vĩnh hằng, trong thời gian này, mỗi nhà thờ đều vun đắp thể diện cho mình bằng cách trưng bày một presepio, nghĩa là một máng cỏ được trang trí bằng tất cả những gì mà trí tưởng tượng kỳ cục có thể sáng tạo ra. Người dân Roma dành những buổi chiều tháng Mười hai của mình để lang thang từ nhà thờ này sang nhà thờ khác, so sánh tác phẩm trưng bày của từng nhà thờ rồi vung mạnh tay bình luận.

"Không thể, cha Nil nghĩ khi nhìn các gia đình với đầy đủ thành viên đang đi khuất vào trong những cổng nhà thờ, những đôi mắt mở to vì hạnh phúc của trẻ em, không thể nói với họ rằng tất cả những điều này đều dựa trên một lời nói dối có từ lâu đời. Họ cần có một vị Chúa theo tưởng tượng của họ, một vị Chúa trẻ con. Giáo hội chỉ có thể bảo vệ bí mật của mình: Nogaret đã đúng"

Hai người lặng lẽ bước đi. Về đến phòng, họ tới ngồi bên đàn piano, và Leeland mang ra một chai bourbon. Ông rót cho cha Nil một cốc đầy, ông này làm một cử chỉ ngăn lại.

- Nào, Nil, đồ uống của đất nước chúng tớ mang tên các vị vua Pháp. Uống vài ngụm sẽ giúp cậu kể cho tớ nghe cậu đã làm gì một mình cả sáng nay, trong một khu vực thuộc kho sách Vatican mà về nguyên tắc cậu không có quyền tiếp cận…

Cha Nil không đáp lại lời nói bóng gió đó: lần đầu tiên, có thể ông sẽ giấu bạn mình điều gì đó. Những tâm sự thầm kín của Breczinsky, gương mặt hoảng sợ của ông ấy không có liên quan gì đến việc tìm kiếm của ông: ông cảm thấy mình đang là người nắm giữ một bí mật mà có lẽ ông sẽ không chia sẻ với bất cứ ai. Ông uống một ngụm rượu, nhăn mặt và bật ho

Tớ không biết bắt đầu từ đâu: cậu không phải là một sử gia, cậu không nghiên cứu các biên bản hỏi cung của Tòa án dị giáo mà tớ vừa đọc. Tớ đã tìm thấy những văn bản cha Andrei tham khảo khi đến kho sách, và ngay lập tức chúng nói với tớ: chuyện này vừa rõ ràng, lại vừa mù mờ

- Cậu có tìm thấy thứ gì liên quan đến tông đồ thứ mười ba không?

- Những từ "tông đồ thứ mười ba" hoặc "bức thư của tông đồ" không xuất hiện trong bất kỳ biên bản hỏi cung nào. Nhưng giờ đây khi tớ đã biết thứ mà chúng ta đang tìm, có hai chi tiết khiến tớ chú ý, và tớ không hiểu. Philippe le Bel đã đích thân soạn thảo bản luận tội các Hiệp sĩ, trong một bức thư gửi đến các cảnh sát trưởng trong vương quốc vào ngày 14 tháng Chín năm 1307, một tháng trước cuộc tổng vây ráp tất cả các thành viên dòng Đền. Bức thư này được lưu trữ trong kho sách. Sáng nay tớ đã chép lại nó

Ông cúi xuống và lấy từ trong túi đeo ra một tờ giấy

- Tớ đọc cho cậu nghe lời luận tội đầu tiên: "Đây là một điều cay đắng, một điều tệ hại, rất kinh khủng, một tội ác đáng khinh…" Và đó là điều gì? "Rằng các Hiệp sĩ, khi gia nhập dòng tu của họ, phủ nhận ba lần Đấng Christ và nhổ ngần ấy lần vào mặt Người " 6

- Ồ ồ!

- Sau đó, kể từ cuộc hỏi cung Esquieu de Floyran lần đầu tiên vào hôm sau ngày thứ Sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, cho đến cuộc hỏi cung Jacques de Molay lần cuối cùng trên giàn thiêu vào ngày 19 tháng Ba năm 1314, một câu hỏi không ngừng được đặt ra: "Có đúng là các người phủ nhận Christ không?" Tất cả các Hiệp sĩ, dù bị tra tấn dã man đến thế nào, đều thừa nhận là đúng, họ bác bỏ Christ. Nhưng họ không bác bỏ Jesus, và rằng họ đã được gia nhập quân đội nhân danh chính Jesus

- Thế thì sao?

- Thì đó chính xác là điều mà những người Nazareth đã từng khẳng định theo như Origène tra cứu được trong các văn tự ở Alexandria. Chúng ta biết rằng đó là lời dạy của thầy họ, tông đồ thứ mười ba: nếu chỉ mình bức thư của ông ấy có đủ khả năng phá hủy Giáo hội, nếu nó phải bị hủy bỏ ở khắp nơi theo như yêu cầu trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, thì không chỉ bởi nó phủ nhận việc thánh hóa Jesus - rất nhiều người khác sau ông ấy đã làm điều này – mà còn vì, theo Origène, nó chứa đựng bằng chứng rằng Người không phải là Chúa

- Liệu các Hiệp sĩ có biết về bức thư bị mất của tông đồ thứ mười ba không?

- Tớ không biết, nhưng tớ nhận thấy rằng vào thế kỷ XIV, nhiều Hiệp sĩ đã bị tra tấn và giết chết vì dám tuyên bố một giáo lý giống như người Nazareth, và họ nhấn mạnh lựa chọn của mình bằng một hành động có tính nghi lễ: nhổ vào Christ. Có thể có giả thiết thứ hai - cha Nil đưa tay xoa trán - những người này đã có quan hệ chặt chẽ với người Hồi giáo trong một t