← Quay lại trang sách

Chương 7 .

Tối muộn hôm đó, chuông điện thoại reo trong căn hộ thuộc Lâu đài San Angelo: Alessandro Calfo giật mình. Ông vừa thuyết phục được Sonia – càng ngày cô càng khó khăn hơn trong việc tiếp nhận các đòi hỏi của ông - và đang thực hiện nốt một dàn cảnh phức tạp, nó phải tuyệt đối hoàn hảo.

Vào giờ này, chỉ có thể là Hồng y Giáo chủ.

Đúng là ông ấy, vừa từ Nhạc viện Saint Cecilia ngay gần đó quay về Vatican. Nghe giọng nói, Calfo lập tức hiểu ngay là có chuyện gì đó không ổn.

- Đức ông, ông có biết chuyện này không?

- Nhưng chuyện gì kia, thưa Đức Hồng y?

- Tôi vừa trở về từ buổi hòa nhạc của một người Isarel tên là Lev Barjona. Cách đây vài hôm, Cơ quan đã cảnh báo tôi về người này, và tôi ngạc nhiên khi biết rằng có thể Hội Thánh Pie V đã …nói thế nào nhỉ, sử dụng những tài năng ẩn giấu của anh ta. Ai cho phép ông ra lệnh cho điệp viên nước ngoài hành động nhân danh Vatican?

- Thưa Đức Hồng y, Lev Barjona chưa bao giờ là một điệp viên của Vatican! Anh ta trước hết là một nhạc công piano lỗi lạc, và tôi đã chấp nhận sự hợp tác của anh ta do anh ta là con trai của Abraham giống như chúng ta, và anh ta hiểu rõ mọi việc. Nhưng tôi chưa bao giờ gặp anh ta.

- Thế à, còn tôi, tôi vừa nhìn thấy anh ta xong, ở Saint Cecilia. Và hãy đoán xem trong khán phòng còn có ai nữa?

Calfo thở dài.

- Hai tu sĩ của ông, Catzinger tiếp tục, người Mỹ và người Pháp.

- Đức Hồng y …có gì là xấu nếu đi nghe một buổi nhạc hay?

- Trước hết, chỗ của một tu sĩ không phải là ở nơi biểu diễn. Nhất là vào cuối buổi diễn tôi lại thấy họ đi về phía hậu trường. Hẳn là họ sẽ gặp Lev Barjona.

"Còn tôi, Calfo nghĩ, tôi lại rất hy vọng họ sẽ gặp anh ta"

- Thưa Đức Hồng y, trước đây, ở Jerusalem, Leeland đã làm quen với Barjona, khi anh ta là học trò của Arthur Rubinstein. Ông ta cũng có cùng niềm đam mê âm nhạc với anh ta. Tôi thấy có vẻ bình thường…

Catzinger cắt lời ông:

- Tôi có thể nhắc ông rằng Leeland làm việc tại Vatican, và chính tôi đã cho phép ông sử dụng ông ta làm mồi nhử cha Nil không? Rất nguy hiểm nếu để họ gặp một nhân vật bốc đồng như Lev Barjona, hẳn ông cũng biết như tôi rằng anh ta không chỉ là một nhạc công tài năng. Lòng kiên nhẫn của tôi đã đến mức giới hạn: trong tuần lễ trước Noel, sáng nào tôi cũng làm lễ mixa tại titulum 1 của tôi ở Saint Mary in Cosmedin, mai là ngày đầu tiên. Hãy làm thế nào để tôi có thể gặp Leeland vào đầu giờ chiều mai. Tôi sẽ cho gọi ông ta đến văn phòng tôi, và khiến ông ta phải đối diện với trách nhiệm của mình. Về phần ông, đừng quên ông đang phục vụ Giáo hội, chức trách đó cấm ông đưa ra một số… sáng kiến.

Vừa gác máy, Calfo vừa mỉm cười. Ông không muốn mình ở địa vị của tu sĩ người Mỹ: con mồi này sắp bị Đức Hồng y nuốt chửng. Chẳng có gì quan trọng: ông đã đảm nhận vai trò của mình một cách hoàn hảo, đầu tiên là khiến cha Nil phải nói chuyện và bây giờ là khiến ông gặp gỡ người Isarel. Con mồi là để dành cho Hồng y. Còn ông thì chỉ tìm cách điều khiển con cá.

Ông quay về phòng, và kiềm chế một cử chỉ bực tức: Sonia đã cởi bộ quần áo vui mắt của cô và đang trần truồng ngồi trên mép giường. Gương mặt cô lộ vẻ bướng bỉnh, và những giọt nước mắt lăn dài trên má.

- Thôi nào, người đẹp của ta, không đến nỗi kinh thế đâu!

Ông đỡ cô đứng dậy và buộc cô phải khoác lên người một chiếc khăn trùm, che đi mái tóc rực rỡ, rồi đội lên trên một chiếc mũ bà xơ hồ bột có chỏm buông xuống đôi vai tròn của cô. Sau khi đã phục sức theo kiểu một nữ tu thời cổ đại như vậy – "chỉ bên trên thôi, phần còn lại là dành cho ta" – ông để cô quỳ gối trên một ghế cầu kinh bằng nhung đỏ đặt trước một hình thánh theo phong cách Byzance. Vốn là người ân cần, ông đã nghĩ rằng một hình thánh có thể sẽ giúp cô gái người Rumani này đảm nhận tốt hơn vai trò mà ông đang mong đợi.

Ông lùi lại: bức tranh hoàn hảo. Trần truồng nhưng khuôn mặt trái xoan được tôn lên dưới chiếc mũ bà xơ, mắt ngước nhìn lên hình thánh, Sonia chắp đôi tay mảnh dẻ và có vẻ như đang cầu nguyện. "Một tư thế trinh trắng, trước hình Đức mẹ Đồng Trinh. Rất gợi cảm."

Roma chìm trong bầu không khí tĩnh mịch ban đêm. Đức ông Calfo quỳ phía sau Sonia và áp sát mình vào đường cong nơi thắt lưng cô, bắt đầu nghi lễ tôn thờ thần thánh. Cẳng chân ông tì lên chiếc ghế cầu kinh êm ái ông ưa thích. Đôi tay bám chặt vào ngực cô gái, có một lát ông cảm thấy ngượng nghịu trước ánh mắt của Đức Mẹ Đồng Trinh trên hình thánh ông đang nhìn thẳng vào như một lời trách móc câm lặng. Ông nhắm mắt lại: trong công cuộc kiếm tìm sự hợp nhất bí ẩn, không có gì trong ông xen vào giữa con người và thần thánh, xác thịt và tâm linh.

Trong khi ông bắt đầu thì thầm những lời rời rạc đối với cô, Sonia gắn mắt vào hình thánh, buông hai bàn tay đang chắp ra để lau những giọt lệ đang làm mắt cô nhòe đi.

70

Cùng lúc đó, Lev nâng cốc lên trước mặt những người cùng đi.

- Vì cuộc gặp gỡ của chúng ta!

Anh đã dẫn hai tu sĩ vào một nhà hàng nhỏ ở Trastevere, khu phố đông dân của Roma. Khách hàng chỉ toàn là người Ý, đang ngấu nghiến những suất pasta khổng lồ.

- Tôi khuyên các ông dùng món penne arrabiate của họ. Món ăn được nấu theo kiểu gia đình, tôi thường đến đây sau mỗi buổi hòa nhạc: họ đóng cửa rất muộn, chúng ta sẽ có thời gian để làm quen với nhau.

Từ khi họ đến nhà hàng, cha Nil vẫn im lặng: người Isarel này không thể không nhận ra ông. Nhưng Lev, vui vẻ hồn nhiên và rất thoải mái, có vẻ như không nhận thấy sự im lặng của người đối diện. Anh trao đổi với Leeland về những kỉ niệm thời xa xưa, cuộc gặp gỡ của họ ở Isarel, những phát hiện của họ trong âm nhạc.

- Thời kì đó, ở Jerusalem, cuối cùng chúng tôi cũng có thể sống lại sau cuộc chiến Sáu Ngày. Tư lệnh Ygaël Yadin hẳn đã rất muốn tôi ở lại Tsahal cùng ông ấy…

Lần đầu tiên, cha Nil tham gia vào câu chuyện:

- Nhà khảo cổ học nổi tiếng đó, anh biết ông ấy à?

Lev chờ cho đến khi ba đĩa pasta bốc khói được đặt trước mặt họ rồi mới quay sang cha Nil. Anh bĩu môi rồi mỉm cười.

- Tôi không chỉ biết ông ấy, mà nhờ có ông ấy tôi đã trải qua một cuộc phiêu lưu không hề ngớ ngẩn. Ông là một chuyên gia về các văn tự cổ, một người nghiên cứu, hẳn điều này sẽ khiến ông quan tâm…

Cha Nil có cảm giác khó chịu vì bị rơi vào một cái bẫy. "Làm sao anh ta lại biết mình là một chuyên gia và một nhà nghiên cứu nhỉ? Tại sao anh ta lại dẫn bọn mình đến đây?" Không thể trả lời, ông quyết định cứ để Lev tự bộc lộ, và im lặng đồng ý.

- Năm 1947 tôi lên tám, chúng tôi sống ở Jerusalem. Cha tôi là bạn của một nhà khảo cổ trẻ thuộc trường Đại học Do thái, Ygaël Yadin: tôi lớn lên bên ông ấy. Khi đó ông ấy hai mươi tuổi, và cũng giống như tất cả những người Do Thái khác sống ở Palestin, ông ấy có một cuộc sống kép: là sinh viên, nhưng chủ yếu là chiến sĩ thuộc Hagana 2và nhanh chóng trở thành tư lệnh. Tôi biết điều đó, tôi vô c ùng ngưỡng mộ ông ấy và chỉ mơ ước có một điều: cũng được chiến đấu cho đất nước tôi.

- Ở tuổi lên tám?

- Rembert, những chiến sĩ đáng gờm của Palmakh 3 và Hagana đều là thiếu niên, ngây ngất phấn khích trước sự hiểm nguy! Họ không ngần ngại kêu gọi trẻ em chuyển tải các thông điệp của họ, chúng tôi không có bất kỳ phương tiện thông tin nào. Sáng ngày 30 tháng Mười một, Liên hợp quốc chấp thuận việc thành lập một Nhà nước Do Thái. Chúng tôi biết rằng chiến tranh sẽ nổ ra: Jerusalem bị bao phủ bởi dây thép gai, từ đó trở đi, chỉ một đứa trẻ mới có thể đi lại trong thành phố mà không cần có giấy thông hành.

- Đó là điều anh đã làm?

- Tất nhiên: Yadin bắt đầu dùng đến tôi hàng ngày, tôi được nghe mọi chuyện xoay quanh ông. Một buổi tối, ông ấy đã nói về một phát hiện kỳ lạ: khi đuổi theo một con dê trong vùng vách đá nhô ra ở biển Chết, một người Ả Rập di cư đã bắt gặp một cái hang. Bên trong, anh ta thấy có những cái vại chứa những cái gói phủ dầu mà anh ta bán với giá năm pound cho một người thợ giày theo đạo Cơ đốc ở Bethlehem. Người này giao lại cho Giáo chủ Samuel, cấp trên của tu viện Saint-Marc, nằm trong phần đất của Jerusalem vừa mới thuộc về người Ả Rập.

Cha Nil dỏng tai lên: ông đã từng nghe nói đến câu chuyện phiêu lưu huyền hoặc của các bản thảo vùng biển Chết. Sự nghi ngại trong ông biến mất tức thì: ông đang đối diện với một nhân chứng trực tiếp, một cơ hội hoàn toàn bất ngờ đối với ông.

Vừa thưởng thức món penne, Lev vừa liếc mắt nhìn cha Nil, vẻ quan tâm đột nhiên của ông có vẻ khiến anh vui thích. Anh tiếp tục:

- Giáo chủ Samuel yêu cầu Yadin nhận dạng các bản thảo này. Phải đi qua thành phố, đến Saint-Marc, mỗi con phố là một điểm phục kích. Yadin đeo vào cổ tôi một chiếc tạp dề và một chiếc cặp học sinh, và chỉ cho tôi hướng đi đến tu viện. Tôi đã luồn lách giữa những chướng ngại vật của người Anh, những xe tăng của người Ả rập, những trung đội thuộc Hagana: tất cả đều ngừng bắn một lát để cho đứa trẻ là tôi đi đến trường! Trong cặp, tôi mang từ tu viện về hai cuộc giấy, và Yadin ngay lập tức hiểu ra đó là cái gì: những bản thảo cổ nhất chưa từng được phát hiện trên đất Isarel, một kho báu theo luật phải thuộc về Nhà nước Do Thái mới.

- Ông ấy đã làm gì với chúng?

- Ông ấy không thể giữ chúng, vì như thế là ăn cắp. Ông đã trả chúng lại cho Giáo chủ, và cho họ biết ông sẵn sàng mua lại tất cả các bản thảo mà những người Ả Rập di cư phát hiện được trong các hang đá ở Qumran. Mặc dù đang có chiến tranh, nhưng tin tức đã lan đi: người Mỹ ở Trường học Mỹ phương Đông và các thầy tu Pháp dòng Dominique thuộc Trường thánh ở Jerusalem đã tổ chức bán đấu giá. Không cần bước quá độ, Yadin chuyển ngay từ việc chỉ huy các chiến dịch quân sự sang những vụ mặc cả bí mật với các thương gia đồ cổ ở Bethlehem và Jerusalem. Người Mỹ đã vơ hết…

- Tôi biết, cha Nil cắt ngang, ở tu viện tôi đã xem được các bản sao của Thư viện Huntington.

- A, các ông đã nhận được một bản à? Rất ít người có may mắn đó, tôi hy vọng rằng một ngày nào đó chúng sẽ được xuất bản. Và thế là tôi đã vô tình trở thành người gây ra một vụ rắc rối, hẳn ông sẽ quan tâm…

Anh đẩy chiếc đĩa của mình ra, tự rót cho mình một cốc vang. Cha Nil nhận thấy gương mặt anh đột nhiên đanh lại – giống như trên tàu, giống như khi anh chơi nhạc của Rachmaninov!

Sau một lát im lặng, Lev cố gắng tiếp tục:

- Một hôm, Giáo chủ Samuel cho Yadin biết ông ta sở hữu hai tài liệu được bảo quản đặc biệt tốt. Người Ả Rập di cư kia đã tìm thấy chúng khi đến hang lần thứ hai, trong chiếc vại thứ ba ở bên trái từ cửa vào, bên cạnh bộ xương của một người hẳn đã từng là Hiệp sĩ vì vẫn còn được bọc trong một chiếc áo choàng trắng có dấu thập đỏ. Tôi lại một lần nữa đi qua thành phố và mang về cho Yadin thứ được tìm thấy trong chiếc vại: một cuộn to bọc ngoài bằng vải dầu, và một tấm giấy da nhỏ – chỉ có duy nhất một mảnh, buộc sơ sài bằng một sợi lanh. Trong căn phòng mà ông ấy dùng làm đại bản doanh, dưới làn bom, Yadin đã mở cuộn giấy có bề mặt phủ đầy những kí tự Do thái: đó là Sổ tay môn đồ của người Esseni. Rồi ông mở tấm giấy da, nó được viết bằng tiếng Hy Lạp, và dịch to dòng đầu tiên trước mặt tôi. Khi đó tôi là một đứa trẻ, nhưng tôi vẫn nhớ: "Ta, môn đồ cưng, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…"

Cha Nil tái mặt, và nắm chặt bộ đồ ăn để kiềm chế:

- Anh chắc chứ? Có đúng là anh đã nghe thấy "môn đồ cưng, tông đồ thứ mười ba" không?

- Tuyệt đối đúng. Yadin có vẻ bị đảo lộn. Ông ấy đã nói với tôi rằng ông ấy chỉ quan tâm đến các bản thảo bằng tiếng Do Thái, vì chúng là di sản của Isarel: bức thư được viết bằng thứ tiếng Hy Lạp giống như trong các Kinh Thánh này có liên quan đến người Cơ đốc, phải trả lại nó cho Giáo chủ. Ông ấy đã giữ lại Sổ tay môn đồ, và nhét vào cặp sách của tôi một tập đô la, kèm theo đó là tấm giấy da nhỏ viết chữ Hy Lạp. Rồi ông ấy cho tôi quay lại Saint-Marc, giữa màn bom.

Cha Nil sững sờ. "Anh ta đã cầm trong tay bức thư của tông đồ thứ mười ba, bản duy nhất thoát khỏi Giáo hội – có thể còn là bản chính!"

Gương mặt vẫn đanh lại, Lev tiếp tục:

- Đến cách tu viện khoảng một trăm mét, một viên đạn cối rơi trên phố: tôi bị hất tung lên, và bất tỉnh. Khi tôi mở mắt ra, một tu sĩ đang cúi xuống tôi. Tôi đang ở trong tu viện, da đầu bị rách từ dưới lên trên – anh nhăn mặt chạm vào vết sẹo – và chiếc cặp học sinh của tôi đã biến mất.

- Biến mất?

- Vâng. Tôi đã bất tỉnh hai mươi bốn giờ, ở giữa sự sống và cái chết. Khi Giáo chủ đến thăm tôi vào hôm sau, ông nói rằng một trong số các tu sĩ của ông đã nhặt được tôi trong phố và đưa lại cho ông chiếc cặp. Khi mở ra, ông ấy đã hiểu: Yadin trả tiền mặt cho bản thảo Qumran, nhưng không muốn mua bức thư bằng tiếng Hy Lạp. Bức thư này, ông ấy vừa bán cho một thầy tu dòng Dominique, cùng với một lô lẻ các bản thảo tiếng Do Thái mà những người Ả Rập di cư đã mang đến. Ông ấy còn vừa cười vừa nói thêm rằng ông ấy đã nhét tất cả, bức thư và các bản thảo, trong một thùng rượu cognac Napoleon rỗng, thứ mà ông ấy rất ham thích. Và rằng hình như thầy tu dòng Dominique đó hoàn toàn không biết gì về giá trị của những thứ mà ông ta vừa có được.

Những câu hỏi chất chồng trong đầu cha Nil.

- Anh có cho rằng Giáo hội đã đọc bức thư trước khi bán lại nó cho thầy tu này không?

- Tôi chả biết, nhưng nếu thế thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Giáo chủ Samuel có thể là bất kỳ người nào, nhưng không bao giờ là một học giả. Đừng quên chúng tôi đang trong thời chiến, ông ấy cần tiền để nuôi sống các tu sĩ của mình, và chăm sóc những người bị thương mà người ta chuyển đến tu viện mỗi lần hàng chục người. Đó không phải là lúc để tiến hành nghiên cứu các văn tự! Chắc chắn ông ấy đã không đọc bức thư.

- Thế còn… thầy tu dòng Dominique kia?

Lev quay sang ông: anh biết rằng câu chuyện này đã khiến tu sĩ nhỏ bé người Pháp kia quan tâm tột độ. "Thế theo ông, cha thân mến, tại sao tôi lại mời ông bữa tối nay? Chỉ để thưởng thức món bánh phủ xốt cay thôi sao?"

- Tôi đã nói với ông rồi, những kỉ niệm này khắc sâu trong trí nhớ của tôi. Rất lâu sau, trước khi chết, Yadin đã nói lại với tôi về bức thư, và yêu cầu tôi tìm lại dấu vết của nó. Tôi đã làm một điều tra nhỏ, dựa vào Mossad, tổ chức mà tôi đã trở thành… cứ cho là một cộng tác viên thời vụ. Có vẻ như đây là cơ quan tình báo tốt nhất thế giới, sau cơ quan tình báo của Vatican!

Lev rất vui vẻ và lại thể hiện thái độ phấn khởi của mình: mọi căng thẳng trên mặt anh đã biến mất.

- Thầy tu dòng Dominique đó thật ra là một thầy dòng cần vụ 4, một người trung hậu và hơi đần. Ngay trước khi Isarel tuyên bố độc lập, tình hình ở Jerusalem đã trở nên căng thẳng đến nỗi nhiều thầy tu bị bắt hồi hương về châu Âu. Hình như thầy tu đó đã nhồi vào hành lý của mình thùng rượu cognac Napoleon kia – ông ta hoàn toàn không biết về giá trị của nó, và mang nó theo tới tận Roma, nơi ông ta chấm dứt cuộc đời tại Tòa chung dòng Dominique, ở Aventin. Chúng tôi đã biết rằng thùng rượu không còn ở đó nữa, khi ông ta chết người ta không tìm thấy gì khác ngoài một tràng hạt bằng gỗ ô liu.

- Thế … nó có thể ở đâu được?

- Mỗi Tòa chung là một cơ quan hành chính, nó không lưu trữ những tài liệu vô ích. Hẳn là họ đã giao lại những thứ tài sản lẻ bộ đến từ Jerusalem cho Vatican, ở đó chắc chắn nó đã gia nhập đống đồ cũ mà người ta không biết dùng làm gì- hoặc người ta không muốn khai thác. Có lẽ nó đang ngủ quên đâu đó, trong góc của một trong những thư viện hoặc một căn phòng khuất nẻo nào đó của Thành phố Thánh: nếu người ta mở ra, thì rốt cuộc nó cũng sẽ được biết đến.

- Tại sao lại thế, Lev?

Bị lây sự thoải mái của người Israel, cha Nil gọi anh bằng tên riêng. Lev nhận thấy điều đó, và rót cho ông một cốc vang khác.

- Vì Ygaël Yadin đã đọc bức thư trước khi trả lại cho Giáo chủ. Và những điều ông ấy nói với tôi trên giường bệnh khiến tôi nghĩ rằng nó chứa đựng một bí mật kinh khủng, mà không một Giáo chủ nào, không một Nhà nước nào- dù kín như bưng và quân chủ như Vatican- có thể ngăn cản nó rò rỉ ra ngoài trong một thời gian dài. Nếu có ai đó đã nhìn thấy bức thư này, cha Nil ạ, thì hoặc giờ này người ấy đã chết, hoặc có lẽ Vatican và Giáo hội Cơ Đốc đã sụp đổ, và điều này hẳn sẽ gây tiếng vang lớn hơn cả cuộc chiến Israel-Ả Rập năm 1947, hơn cả các cuộc Thập Tự Chinh, hơn bất kỳ một sự kiện nào khác trong lịch sử phương Tây.

Cha Nil căng thẳng xoa mặt.

Hoặc giờ này người ấy đã chết…

Cha Andrei!

71

Rượu vang nhẹ Castelli khiến đầu óc cha Nil hơi quay cuồng. Ông ngạc nhiên thấy người phục vụ đặt trước mặt mình một tách cà phê: hoàn toàn bị lôi cuốn bởi câu chuyện của Lev, ông đã ngốn hết món penne arrabiate và lát thịt làm theo kiểu Milan kế tiếp mà không hề để ý. Vẻ lo lắng, Leeland khuấy chiếc thìa trong tách của mình. Ông quyết định hỏi Lev một câu mà cha Nil đã từng đặt ra cho ông, trong sân Belvedere:

- Nói xem, Lev… Tại sao anh lại gửi cho tôi hai giấy mời đến buổi hòa nhạc, và lại còn thêm một lời nhắn nói rõ rằng có thể bạn tôi cũng sẽ quan tâm? Làm thế nào mà anh biết rõ rằng ông ấy đang ở Roma, và rất đơn giản là làm thế nào mà anh biết về sự tồn tại của ông ấy?

Lev nhướng mày vẻ ngạc nhiên.

- Nhưng… chính ông đã cho tôi biết điều đó! Hôm sau khi tôi đến đây, ở khách sạn trên đường Giulia tôi đã nhận được một bức thư, có rập huy hiệu của Vatican. Bên trong có vài dòng đánh máy – nếu tôi nhớ rõ, đại ý là: "Đức ông Leeland và bạn ông là cha Nil sẽ hân hạnh được tham dự v.v…" Tôi đã nghĩ là ông nhờ thư ký báo cho tôi, và tôi cũng thấy chuyện này hơi mau lẹ, nhưng hẳn đó là do phong tục của Vatican đã ảnh hưởng đến ông.

Leeland nhẹ nhàng trả lời:

- Tôi không có thư ký, Lev ạ, và tôi chưa bao giờ gửi thư cho anh. Thậm chí tôi còn không biết khách sạn nơi anh ở trong chuyến lưu diễn của anh tại Roma. Hãy nói xem… bức thư đó có chữ ký của tôi không?

Lev lùa tay vào mái tóc dày.

- Tôi cũng không biết nữa! Không, không phải chữ ký của ông, ở bên dưới chỉ có một chữ cái đầu. Một chữ C viết hoa, tôi nghĩ thế, sau đó là một dấu chấm. Dù sao, Rembert ạ, tôi cũng đã có ý định gặp ông nhân dịp qua đây, và hẳn là tôi cũng sẽ làm quen với cha Nil.

Gương mặt Leeland đột ngột kín bưng: Catzinger hay Calfo? Cơn giận dữ lại dâng lên trong ông.

Chìm đắm trong dòng suy nghĩ, cha Nil theo dõi câu chuyện một cách lơ đãng. Ông đang vướng bận với rất nhiều câu hỏi khác, và đột ngột cắt ngang:

- Chỉ kết quả là đáng kể thôi, vì chính nhờ bức thư này, tối nay tôi được nghe phần trình diễn tuyệt vời bản hòa tấu của Rachmaninov. Nhưng anh nói xem, Lev… Tại sao anh lại tâm sự với chúng tôi những chuyện này? Anh đoán được việc phát hiện ra một bức thư tông đồ mới, bức thư được lôi ra khỏi sự quên lãng một cách thần kỳ vào cuối thế kỷ XX, và có thể sẽ khiến chúng tôi phải xem lại đức tin của mình, có ý nghĩa như thế nào đối với Rembert và tôi. Tại sao anh lại nói với chúng tôi toàn bộ chuyện này?

Lev trả lời bằng nụ cười quyến rũ nhất. Anh không thể nói sự thật với cha Nil: "Vì đó là chỉ thị của Mossad".

- Vậy còn ai có thể quan tâm đến chuyện này hơn các ông?

Dường như anh không hề coi trọng câu hỏi của cha Nil, và quan sát ông một cách thân tình.

- Cha Nil… liệu một tài liệu cổ đơn giản phản bác thiên chất của Jesus, có thể thực sự làm thay đổi điều gì đó đối với các ông?

Những khách hàng cuối cùng vừa rời khỏi cửa hàng, lúc này chỉ còn lại họ trong căn phòng nơi người chủ bắt đầu nhẹ nhàng thu dọn. Cha Nil suy nghĩ một lúc lâu trước khi trả lời, dường như ông đã quên mất mình đang nói chuyện với ai:

- Tối nay, anh đã cho tôi biết rằng một bức thư của tông đồ đã được phát hiện tại Qumran cùng với các bản thảo vùng biển Chết: từ vài tuần nay, tôi đã tích lũy được các bằng chứng về sự tồn tại của nó. Vào thế kỷ III với một bản thảo chữ Ai Cập cổ, vào thời điểm bản lề của thế kỷ IV với một văn bản của Origène. Vào thế kỷ VIII với một mật mã được đưa vào Tín điều Nicée ở Germigny, và cuối cùng là vào thế kỷ XIV với vụ án các Hiệp sĩ. Tất cả những chuyện này sau nhiều năm giải mã văn bản viết vào cuối thế kỷ I, nơi bắt đầu tất cả: kinh Phúc âm theo thánh Jean. Bức thư của tông đồ thứ mười ba, tôi đã lần theo được dấu vết của nó, nhờ có cái bóng nó in vào lịch sử phương Tây.

Ông nhìn thẳng vào Lev.

- Giờ đây, anh vừa nói với tôi rằng anh đã mang nó trong chiếc cặp học sinh của mình, khi tìm cách hoàn thành dưới làn bom một nhiệm vụ đối với người lãnh đạo của Hagana. Rồi anh cho tôi biết rằng nó đang nằm ở đâu đó ở Vatican, bị che giấu hoặc đơn giản là không được biết tới. Anh đã nghe Ygaël Yadin nói rằng nó chứa đựng một bí mật kinh khủng. Dù tôi có biết được nội dung của nó – hẳn là phải rất kinh khủng, thật thế, để trong suốt những thế kỷ qua có thể gây ra ngần ấy vụ thanh trừng, giết người và cạm bẫy – thì điều đó cũng không làm thay đổi chút nào mối quan hệ giữa tôi với Jesus. Tôi đã gặp Người một cách riêng tư, Lev ạ, anh có thể hiểu điều đó không? Con người của Jesus không thuộc về bất cứ Giáo hội nào, Người không cần đến chúng để tồn tại.

Lev có vẻ bị ấn tượng mạnh. Anh nhẹ nhàng đặt bàn tay lên cánh tay cha Nil.

- Tôi chưa bao giờ là một tín đồ chăm chỉ, cha Nil ạ, nhưng mọi người Do Thái đều hiểu điều ông đang nói với tôi, vì mọi người Do Thái đều xuất thân từ dòng dõi của các nhà truyền giáo, dù muốn hay không. Tôi muốn ông biết rằng tôi thấy ông vô cùng dễ mến, và nếu trong đời mình tôi đã nói dối nhiều, thì khi nói với ông điều này tôi hoàn toàn chân thành.

Anh đứng dậy, chủ quán bắt đầu đi quanh bàn của họ.

- Với tất cả tấm lòng mình, tôi mong rằng ông sẽ thành công trong việc tìm kiếm. Đừng cho rằng nó chỉ liên quan đến ông, và tôi sẽ không nói thêm điều gì nữa. Hãy cẩn thận: tất cả các nhà truyền giáo và những người giống họ đều phải chịu một cái chết tàn khốc. Cả điều này, một người Do Thái cũng biết được bằng bản năng, và anh ta chấp nhận nó giống như Jesus, người Do Thái đã chấp nhận trước đây. Bây giờ là hai giờ sáng: hãy cho phép tôi trả tiền taxi để đưa ông về San Girolamo.

Lún sâu người trong ghế ô tô, cha Nil nhìn mái vòm của Vatican lướt qua, ánh nhẹ lên trong đêm tháng Mười hai lạnh lẽo, mắt ông nhòe nước. Cho đến ngày hôm nay, bức thư này vẫn chỉ là một giả thiết, chỉ là một sự thật giả tưởng. Vậy mà ông vừa bắt bàn tay đã từng chạm vào nó, vừa bắt gặp ánh mắt đã từng nhìn thấy tài liệu này.

Đột nhiên, giả thiết trở thành sự thật. Bức thư của tông đồ thứ mười ba hẳn đang nằm đâu đó sau bức tường thành Vatican cao ngất.

Ông sẽ đi đến tận cùng. Ông cũng vậy, ông cũng sẽ được tận mắt nhìn thấy bức thư này.

Và sẽ cố gắng sống sót, khác với tất cả những người đi trước ông.

72

Leeland đang chơi một khúc dạo của Bach thì cha Nil bước vào căn phòng trên đường Aurelia. Cho đến lúc bình minh, ông đã nghiền ngẫm những điều Lev Barjona tiết lộ. Đôi mắt thâm quầng cho thấy nỗi lo lắng trong lòng ông.

- Tớ đã không chợp mắt suốt đêm qua: cùng lúc, có quá nhiều điều mới mẻ! Không sao cả, chúng ta hãy đến kho sách, làm việc với các bản thảo giai điệu Grégoire của cậu sẽ giúp đầu óc tớ hồi tỉnh. Cậu có ý thức được điều đó không, Rembert, bức thư của tông đồ thứ mười ba có thể đang ở ngay Vatican!

- Chúng ta chỉ có thể ở đó sáng nay. Tớ vừa nhận được một cú điện thoại của Đức ông Calfo: Hồng y cho gọi tớ đến văn phòng ông ta vào mười bốn giờ chiều nay.

- Làm gì mới được chứ?

- Ồ … Leeland đậy nắp đàn piano, vẻ lúng túng, tớ nghĩ là tớ biết tại sao, nhưng tớ muốn chưa trả lời cậu ngay bây giờ. Nếu bức thư bí ẩn mà cậu tìm kiếm từ bấy nhiêu năm đang ở Vatican, cậu sẽ làm thế nào để chạm được tay vào nó?

Đến lượt cha Nil có vẻ ngần ngại.

- Xin lỗi cậu, Rembert, tớ cũng muốn không trả lời cậu ngay lập tức. Cậu đã thấy Vatican biến chúng ta thành thế nào rồi: những người anh em không còn hoàn toàn là anh em nữa, bởi vì họ không nói hết mọi chuyện với nhau…

Ở tầng dưới, Moktar dùng máy ghi âm và huýt gió. Cha Nil vừa nói một câu đáng giá nhiều đô la: bức thư của tông đồ thứ mười ba có thể đang ở Vatican! Hắn đã đúng khi nghe theo lệnh của Cairo, và chưa làm gì hại đến tu sĩ người Pháp bé nhỏ này. Fatah cũng biết nhiều thông tin ngang với Calfo về bức thư kia, và về tầm quan trọng sống còn của nó đối với đạo Cơ đốc: gọng kìm đang siết lại quanh cha Nil, phải để ông ta đi đến cùng.

Calfo bảo vệ Cơ đốc giáo, nhưng còn hắn, Moktar, hắn bảo vệ đạo Hồi, kinh Coran và Đấng tiên tri của hắn – cầu cho tên người được ban phúc.

Khi đi dọc hành lang dài dẫn đến văn phòng của người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, Leeland cảm thấy dạ dày quặn lại. Thảm lót dạ phớt, đèn vách kiểu Venise, tường lát gỗ quý: sự sang trọng này đột nhiên trở nên không thể chịu đựng nổi đối với ông. Đó là dấu hiệu phô trương quyền lực của một tổ chức không ngần ngại nghiền nát những thành viên của chính nó, để duy trì sự tồn tại của một đế chế rộng lớn được xây dựng trên một chuỗi những điều dối trá. Từ khi cha Nil đến đây, ông ý thức được rằng bạn mình đã trở thành nạn nhân của quyền lực này, giống như ông – nhưng vì một lý do hoàn toàn khác. Leeland chưa bao giờ thực sự đặt ra cho mình câu hỏi về đức tin: những phát hiện của cha Nil làm cho ông bị đảo lộn, và củng cố cuộc nổi loạn trong con người ông. Ông kín đáo gõ vào cánh cửa cao được trang trí bằng những lát vàng mảnh.

- Mời đức ông vào, tôi đang chờ ông.

Leeland đã chuẩn bị tinh thần gặp ông ta có Calfo đi kèm, nhưng Catzinger chỉ có một mình. Trên bàn làm việc trống trơn có đặt một hồ sơ đơn giản có gạch chéo màu đỏ.

Khuôn mặt Hồng y vốn tròn và hồng hào, giờ cứng như đá.

- Đức ông, tôi sẽ không vòng vo. Từ ba tuần nay ngày nào ông cũng gặp cha Nil. Giờ đây ông còn dẫn ông ấy đến dự một buổi hòa nhạc, và để ông ấy gặp một người không mấy đáng tin cậy, người mà những thông tin chúng tôi có được đều rất xấu.

- Thưa Đức Hồng y, Roma không phải là một tu viện…

- Sufficit! 5 Chúng ta đã có một thỏa thuận: ông phải cho tôi biết về những cuộc trò chuyện của ông với cha Nil, và về quá trình tiến triển trong các nghiên cứu cá nhân của ông ấy. Không nghiên cứu nào có thể là cá nhân trong Giáo hội Cơ đốc: mọi suy nghĩ, mọi phát hiện phải có ích cho nó. Tôi không nhận thêm được bất kì báo cáo nào từ ông, và những báo cáo ông đã gửi cho tôi thì hoàn toàn hỏng – đó là điều tối thiểu mà ta có thể nói. Chúng tôi biết rằng cha Nil đang đi theo một hướng nguy hiểm, và chúng tôi biết rằng ông ấy có chia sẻ với ông. Tại sao, thưa Đức ông, ông lại chọn đứng về phía mạo hiểm thay vì đứng về phía Giáo hội, nơi ông thuộc về và cũng là mẹ của ông?

Leeland cúi đầu. Với người này, ông có thể trả lời thế nào?

- Thưa đức Hồng y, tôi không hiểu gì nhiều về công việc nghiên cứu uyên thâm của cha Nil…

Catzinger khô khan cắt ngang:

- Tôi không yêu cầu ông phải hiểu, mà phải báo cáo lại điều ông nghe thấy. Tôi cảm thấy rất khó khăn phải nhắc cho ông nhớ, nhưng ông không ở trong tình thế được lựa chọn.

Ông ta nghiêng xuống bên bàn, mở kẹp hồ sơ và đẩy nó về phía Leeland.

- Ông nhận ra những bức ảnh này chứ? Có thể thấy ông đang ở cùng với một trong số các tu sĩ của ông ở St Mary, thời kỳ ông là tu viện trưởng. Ở đây - ông ta ve vẩy trước mũi Leeland một tấm ảnh đen trắng - hai người đang đối diện nhau trong vườn tu viện, và cái nhìn mà ông trao cho anh ta nói lên nhiều điều. Và ở đây, lần này là một tấm ảnh màu, ông đang ngồi sát vào lưng anh ta, và tay ông đặt lên vai anh ta. Giữa hai nhà tu hành, những tư thế này là không đoan chính.

Leeland tái mặt, và tim ông đập dữ dội trong lồng ngực. Ansenlm! Sự trong trắng, sự đẹp đẽ, sự cao quý của em Anselm! Hồng y này không bao giờ có thể hiểu được điều gì về những tình cảm đã gắn kết họ. Nhưng ông sẽ không đời nào để ông ta làm ô danh mình bằng ánh mắt lồi đó, bằng những từ ngữ thoát ra từ cái miệng làm bằng đá cứng rắn và lạnh lẽo đó.

- Thưa Hồng y, tôi đã chứng tỏ điều đó và ngài cũng biết, không có gì xảy ra giữa đạo hữu Anselm và tôi làm ảnh hưởng đến lời nguyện trinh bạch. Chưa bao giờ có một hành động nào, hay thậm chí là một mẩu hành động nào đi ngược lại với đạo đức Cơ Đốc giáo!

- Đức ông, sự trinh bạch Cơ đốc không chỉ bị xâm phạm bởi những hành động, nó ngự trị trong sự làm chủ trí tuệ, tấm lòng và tâm hồn. Ông đã xâm phạm lời thề của mình bằng những ý nghĩ xấu xa, thư từ trao đổi giữa ông với đạo hữu Anselm, ông ta chỉ cho Leeland hàng chục bức thư được xếp cẩn thận dưới những tấm ảnh, quá đủ để chứng tỏ điều đó. Bằng việc lạm dụng quyền hạn của ông đối với anh ta, ông đã dẫn đạo hữu bất hạnh này theo khuynh hướng sôi sục trong ông, và chỉ nhắc đến khuynh hướng đó thôi cũng đủ để khiến một linh mục như tôi cảm thấy ghê tởm.

Leeland đỏ mặt đến tận chân tóc, và phẫn nộ. "Làm sao họ lại có được những bức thư này? Anselm, người bạn tội nghiệp, họ đã làm gì em rồi?"

- Thưa Hồng y, những bức thư này không chứa đựng gì ngoài sự trìu mến, đúng là rất nồng nhiệt, nhưng trong trắng, giữa một tu sĩ và cấp trên của anh ta.

- Ông đùa à! Những tấm ảnh này, cộng thêm những bức thư này, và cộng thêm quan điểm công khai của ông về chuyện hôn nhân của các linh mục, mọi thứ đều chỉ ra rằng ông đã rơi vào tình trạng xuống cấp về đạo đức đến nỗi chúng tôi phải che chở ông sau phẩm tước Giáo mục nhằm tránh xảy ra một vụ bê bối kinh khủng ở Mỹ. Giáo hội Cơ Đốc Mỹ đang trong cơn bão, những vụ việc lặp đi lặp lại liên quan đến chứng yêu trẻ em đã làm suy giảm trầm trọng uy tín của nó đối với con chiên. Tưởng tượng xem một tờ báo hung dữ nào đó chống lại chúng ta sẽ biến thông tin này thành: "Tu viện St. Mary, nhà phụ của Sodome và Gomorrhe!" 6 Bằng cách che chở ông dưới cái bóng bảo vệ của Vatican, tôi đã buộc được các nhà báo không làm trầm trọng thêm về con người ông, và chúng tôi phải trả giá rất đắt cho điều đó. Hồ sơ này, Đức ông ạ…

Ông ta cẩn thận xếp lại những bức ảnh vào dưới tập thư, và đóng kẹp hồ sơ lại bằng một cử chỉ khô khan.

- … hồ sơ này, tôi không thể giữ bí mật lâu hơn nếu ông không hoàn thành thỏa thuận của chúng ta theo cách mà tôi thấy là thỏa đáng. Từ nay trở đi, ông báo cáo trực tiếp với tôi về tất cả những tiến triển của ông bạn người Pháp của ông. Với lại, bằng việc để ý sao cho ở Roma ông ấy không gặp thêm ai ngoài ông ra, ông sẽ đảm bảo được cho sự an toàn của ông cũng như ông ấy. Capito? 7

Khi Leeland ra đến hành lang dài vắng vẻ, ông phải tựa vào tường một lát. Ông thở hổn hển: cố gắng vừa rồi của ông trước bản thân khiến ông mệt lả, chiếc áo phông dính bết vào ngực. Ông từ từ trấn tĩnh lại, đi xuống cầu thang lớn bằng đá cẩm thạch và ra khỏi tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin. Như một người máy, ông rẽ sang phải, đi theo lối đầu tiên trong số ba lối đi quanh hàng cột Bernin. Rồi lại rẽ phải, và tiến về phía đường Aurelia. Đầu óc trống rỗng, ông bước đi mà không hề nhìn xung quanh.

Ông có cảm giác thể xác ông vừa bị Hồng y giẫm nát. Anselm! Liệu họ có thể biết, liệu họ có thể hiểu được tình yêu là gì không? Đối với những người của Giáo hội này, tình yêu dường như chỉ là một từ, một chủng loại chung, bên trong cũng trống rỗng như một chương trình chính trị. Làm sao người ta có thể yêu một đức Chúa vô hình, khi mà người ta chưa từng yêu một sinh linh bằng xương bằng thịt? Làm sao có thể là "anh em toàn thế giới " nếu không là anh em của anh em mình?

Không rõ làm thế nào, ông đã ở trước căn hộ của mình, và trèo lên ba tầng gác. Ông rất ngạc nhiên thấy cha Nil đang ngồi trên một bậc cầu thang, chiếc túi kẹp giữa hai chân.

- Tớ không thể ở lại San Girolamo mà không làm gì, tu viện đó thật thê thảm. Tớ muốn được nói chuyện, tớ đã đến đây chờ…

Không nói một lời, ông dẫn cha Nil vào phòng khách. Ông cũng đang cần nói chuyện: nhưng liệu ông có thể phá vỡ cái vỏ đang siết chặt ngực ông không?

Ông ngồi xuống và tự rót cho mình một cốc rượu bourbon: mặt ông vẫn còn tái mét, cha Nil nhìn ông, đầu hơi nghiêng.

- Remby, bạn của tôi… có chuyện gì vậy? Cậu trông như bị phá hủy ấy.

Leeland ôm lấy chiếc cốc trong hai bàn tay, và nhắm mắt một lát. "Liệu mình có thể nói với cậu ấy không?" Rồi ông uống thêm một ngụm, và trao cho cha Nil một nụ cười dè dặt. "Người bạn duy nhất của mình kể từ nay." Ông không chịu đựng được bộ mặt kép mà ông buộc phải mang kể từ khi cha Nil đến Roma. Với một sự cố gắng, ông bắt đầu nói:

- Cậu biết rằng tớ vào nhạc viện St.Mary từ khi còn rất trẻ, và tớ đã chuyển thẳng từ ghế nhà trường sang ghế tập tu. Tớ không biết gì về cuộc đời, Nil ạ, và sự chay tịnh không đè nặng lên tớ bởi vì tớ không biết đến sự say đắm. Năm tớ dâng lời nguyện, một thanh niên đã vào tập tu, cậu ấy cũng đến từ nhạc viện như tớ, và cũng giống tớ, cậu ấy trong trắng như một đứa trẻ sơ sinh. Tớ là nhạc công piano, còn cậu ấy là nhạc công violon. Đầu tiên là âm nhạc đã gắn kết chúng tớ, và sau đó là điều gì đấy mà tớ hoàn toàn không biết, trước nó tớ hoàn toàn yếu mềm, điều mà người ta không bao giờ nói đến trong tu viện: tình yêu. Phải mất nhiều năm tớ mới xác định được tình cảm mới lạ này trong tớ, để hiểu rằng niềm hạnh phúc mà tớ cảm thấy khi cậu ấy hiện diện chính là tình yêu. Lần đầu tiên, tớ đã yêu! Và tớ cũng được yêu, tớ biết điều đó vào ngày mà Anselm và tớ cởi mở tấm lòng với nhau. Tớ đã yêu, Nil ạ, một tu sĩ trẻ hơn tớ, mạch nước trong suốt chảy từ một suối nguồn trong vắt, và tớ được cậu ấy yêu!

Cha Nil phác một cử chỉ, nhưng vẫn không cắt lời ông.

- Khi tớ trở thành tu viện trưởng, quan hệ của chúng tớ càng trở nên sâu sắc. Thông qua lựa chọn của tu viện, cậu ấy đã trở thành con trai của tớ trước Chúa: tình yêu tớ dành cho cậu ấy được tô đậm thêm bởi một tình cảm vô cùng dịu dàng…

Hai giọt nước mắt lăn trên má ông: ông không thể nói thêm nữa. Cha Nil nhấc chiếc cốc ra khỏi tay ông, và đặt lên chiếc đàn piano. Ông ngập ngừng một lát:

- Tình yêu song phương đó, tình yêu mà cả hai người đều ý thức được, hai người có thể hiện nó qua một quan hệ thể xác nào không?

Leeland ngước nhìn ông bằng ánh mắt đẫm lệ.

- Chưa bao giờ! Chưa bao giờ cậu hiểu không, nếu cậu muốn ám chỉ điều gì đó dung tục. Tớ hít thở sự hiện diện của cậu ấy, nhưng chưa bao giờ thân thể chúng tớ lao vào một hành vi tiếp xúc thô tục. Chưa bao giờ tớ thôi làm tu sĩ, chưa bao giờ cậu ấy ngừng trong trắng như pha lê. Chúng tớ yêu nhau, Nil ạ, và chỉ cần biết thế thôi là đã đủ cho chúng tớ cảm thấy hạnh phúc. Từ ngày đó, tình yêu Chúa trở nên dễ hiểu hơn, gần gũi hơn đối với tớ. Có thể ngày xưa môn đồ cưng và Jesus cũng đã từng trải qua điều gì đó tương tự chăng?

Cha Nil bĩu môi. Không nên trộn lẫn tất cả, mà phải dừng lại ở sự việc.

- Nếu không có gì xảy ra giữa hai người, nếu chưa từng có hành động nào, nghĩa là không có cơ sở tội lỗi nào, xin lỗi cậu, đó là cách lập luận của các nhà thần học, thì Catzinger có liên quan gì đến chuyện này? Vì cậu vừa ra khỏi văn phòng ông ta, đúng không?

- Trước đây tớ đã viết cho Anselm vài bức thư thể hiện tình yêu này: tớ không biết sau đó Vatican đã gây áp lực thế nào để có được chúng, cùng hai bức ảnh trong sáng trong đó Anselm và tớ đang ở bên nhau. Cậu biết nỗi ám ảnh của Giáo hội đối với tất cả những gì động chạm đến tình dục: chừng ấy là đủ để nuôi dưỡng trí tưởng tượng bệnh hoạn của họ, để kết tội tớ là suy đồi đạo đức, để bêu xấu và phủ một thứ bùn ghê tởm lên một tình cảm mà họ không thể hiểu được. Những giáo sĩ cấp cao này có còn là người nữa không, hả Nil? Tớ nghi ngờ điều đó, họ chưa bao giờ biết đến vết thương tình yêu khiến cho nhân loại sinh ra một con người.

- Như vậy, cha Nil nhấn mạnh, bây giờ Catzinger gây áp lực lên cậu. Nhưng cậu có biết là vì lý do gì không? Ông ta đã nói gì với cậu, tại sao cậu có vẻ bị đảo lộn đến thế?

Leeland cúi đầu, và trả lời trong một hơi thở.

- Ngày cậu đến Roma, ông ta đã cho gọi tớ. Và giao cho tớ nhiệm vụ phải báo cáo ông ta tất cả các cuộc trò chuyện của chúng ta, nếu không ông ta sẽ đưa tớ ra làm mồi cho báo chí: tớ thì chỉ có thể sống sót qua chuyện đó, nhưng Anselm không thể tự vệ được, cậu ấy không được trang bị để đương đầu với lũ chó săn, tớ biết cậu ấy sẽ bị hủy hoại. Vì tớ đã biết cảm giác yêu, vì tớ đã dám yêu, nên người ta yêu cầu tớ theo dõi cậu, Nil ạ!

Giây phút ngạc nhiên ban đầu qua đi, cha Nil đứng dậy và rót cho mình một ly bourbon. Giờ đây ông đã hiểu thái độ nước đôi của bạn mình, những lúc im lặng đột ngột của Leeland. Mọi thứ đã rõ ràng: các tài liệu bị đánh cắp trong phòng riêng của ông bên bờ sông Loire hẳn đã rất nhanh chóng đến một văn phòng của Cơ quan truyền bá đức tin. Việc ông bị gọi về Roma với một cái cớ nhân tạo, việc ông gặp lại Leeland, mọi chuyện đều được sắp đặt trước, mọi chuyện đều là kết quả của một kế hoạch. Theo dõi ư? Ông đã bị theo dõi ở tu viện, ngay sau ngày cha Andrei chết. Khi ông đến Roma, Rembert bất hạnh chỉ còn là một con tốt trên bàn cờ, ông mới chính là quân cờ trung tâm.

Ông suy nghĩ căng thẳng, nhưng nhanh chóng đưa ra quyết định:

- Rembert, hình như những nghiên cứu của tớ và của cha Andrei làm phiền nhiều người. Từ khi tớ phát hiện ra sự hiện diện của một tông đồ thứ mười ba trong căn phòng lớn bên cạnh Jesus, và cách thức mà ông ta không ngừng bị loại bỏ bởi một quyết tâm dai dẳng, đã xảy ra những chuyện mà tớ không thể tin là có thể xảy ra vào thế kỷ XX. Đối với Giáo hội, tớ đã trở thành một con chiên ghẻ vì cuối cùng tớ đã chấp nhận điều hiển nhiên không thể chấp nhận được: việc biến Jesus thành Chúa Christ là một trò bịp bợm. Và cũng vì tớ đã phát hiện ra một mặt bị che giấu trong nhân cách của Giáo hoàng đầu tiên, những thủ đoạn quyền lực bắt nguồn từ Giáo hội. Người ta sẽ không để tớ tiếp tục đi con đường này: giờ đây tớ tin chắc rằng vì vướng vào chuyện này mà cha Andrei đã bị ngã khỏi tàu Roma Express. Tớ muốn trả thù cho cái chết của ông ấy, và chỉ có sự thật mới trả thù được. Cậu có sẵn sàng đồng hành với tớ đến cùng không?

Không ngần ngại, Leeland trả lời bằng giọng trầm đục:

- Cậu muốn trả thù cho người bạn quá cố của cậu, còn tớ, tớ muốn trả thù cho người bạn còn sống của tớ, người đang phải sống khép kín trong xấu hổ và lặng lẽ ở tu viện của chính tớ: từ nhiều tháng nay, cậu ấy không viết cho tớ nữa. Tớ muốn trả thù những điều bẩn thỉu mà họ đã bôi lên chúng tớ, trả thù cho cái chết của điều gì đó quá trong trắng để những người ở Vatican có thể hiểu được. Đúng, tớ sẽ ở bên cậu, Nil ạ: cuối cùng chúng ta lại tìm thấy nhau!

Cha Nil ngả người vào ghế, và nhăn mặt uống cạn ly. "Mình bắt đầu uống như một tên cao bồi!" Đột nhiên, sự căng thẳng trong ông giảm xuống: ông lại có thể chia sẻ mọi điều với bạn mình. Chỉ có hành động mới cho phép họ thoát khỏi tình trạng khép kín.

- Tớ muốn tìm thấy bức thư đó. Nhưng tớ đang tự hỏi về anh chàng Lev Barjona: cuộc gặp gỡ của anh ta với chúng ta không phải là ngẫu nhiên, nó đã được dàn xếp. Nhưng do ai, và để làm gì?

- Lev là một người bạn, tớ tin anh ta.

- Nhưng đó là một người Do Thái, và anh ta từng là thành viên của Mossad. Như anh ta đã nói, người Israel biết về sự tồn tại của bức thư, bởi vì Ygaël Yadin đã đọc nó và đã nhắc đến nó trước khi chết. Còn ai khác biết chuyện nữa không? Có vẻ Vatican không biết rằng nó đang nằm đâu đó giữa những bức tường của mình. Tại sao Lev lại tiết nộ cho tớ thông tin này? Người như anh ta không làm điều gì bộp chộp.

- Tớ không biết gì hết. Nhưng cậu sẽ làm thế nào để tìm thấy một tờ giấy sơ sài, có thể được bo bo bảo vệ, hoặc cũng có thể đơn giản là bị lãng quên trong một góc nào đó? Vatican rất rộng lớn, các bảo tàng, thư viện, nhà phụ, phòng áp mái và hầm ngầm chứa đựng một mớ lộn xộn đến khó tin, từ những bản thảo bị bỏ rơi trong một ngăn kéo cho đến bản sao Spoutnik mà Nikita Khrouchtchev đã tặng cho Jean XXIII. Hàng triệu đồ vật hầu như không được sắp xếp. Và lần này cậu chẳng có gì chỉ dẫn, dù chỉ là một mã số thư viện.

Cha Nil đứng dậy và vươn vai.

- Lev Barjona đã cho chúng ta một chỉ dẫn quý báu, mặc dù có thể anh ta cũng không biết điều đó. Để khai thác nó, quân chủ bài duy nhất của tớ là Breczinsky. Người này là một pháo đài được ngăn chặn từ mọi nơi: tớ phải tìm cách lọt vào trong đó, ông ấy là người duy nhất có thể giúp tớ. Ngày mai chúng ta sẽ vẫn đến kho sách như thường lệ, cậu sẽ để tớ hành động.

Cha Nil rời khỏi phòng: Moktar tháo tai nghe, và cuốn lại những cuộn băng ghi âm. Một cuộn là dành cho Calfo. Hắn nhét cuộn còn lại vào một chiếc phong bì, hắn sẽ mang nó đến đại sứ quán Ai Cập. Qua hành lý ngoại giao, sáng mai hẳn nó sẽ đến tay Người dẫn đường tối cao ở đại học Al-Azhar.

Hắn chun môi lại ngao ngán. Tu sĩ người Mỹ này không chỉ là đồng phạm của cha Nil, ông ta còn là kẻ đồng tính. Cả người này lẫn người kia đều không xứng đáng được sống.

73

Cũng tối đó, Calfo triệu tập một cuộc họp bất thường của Hội Thánh Pie V. Sẽ họp ngắn thôi, nhưng các sự kiện đòi hỏi toàn bộ Mười hai tông đồ phải tập họp về quanh Thầy bị đóng đinh trên giá chữ thập.

Hội trưởng liếc mắt nhìn tông đồ thứ mười hai: đôi mắt khiêm tốn cụp xuống bên dưới chiếc mũ trùm, Antonio đang chờ cuộc họp bắt đầu. Calfo đã giao cho anh xử lý Breczinsky, đồng thời cho anh biết điểm yếu của người Ba Lan này: tại sao anh chàng người Tây Ba Nha lại không đến báo cáo với ông như dự kiến? Phải chăng lòng tin của ông đối với một trong số mười một tông đồ đã bị đặt sai chỗ? Nếu thế thì đây sẽ là lần đầu tiên. Ông ngạt bỏ ý nghĩ khó chịu này. Từ sau lễ nghi hôm qua, quỳ trước Sonia biến đổi thành một hình thái sống, ông đang bơi trong niềm khoan khoái. Cô gái Rumani cuối cùng đã chấp nhận mọi đòi hỏi của ông, giữ đến cùng chiếc mũ bà xơ trên mái đầu nhỏ nhắn xinh xắn.

Táo bạo hơn vì thành công này, khi cho cô về ông đã báo trước với cô: lần sau ông sẽ tổ chức một nghi lễ gợi cảm hơn, nó sẽ hợp nhất họ một cách rất thân mật trong sự hy sinh của Chúa. Khi ông giải thích cho cô nghe về nghi lễ mà ông đòi hỏi cô phải phối hợp, Sonia đã tái mặt, và vội vàng đi mất.

Ông không lo lắng: cô sẽ quay lại, chưa bao giờ cô từ chối ông bất cứ điều gì. Tối nay ông phải giải quyết êm thấm cuộc họp này, để trở về nhà mình, nơi những công việc chuẩn bị lâu dài và tỉ mỉ đang chờ. Ông đứng dậy, và hắng giọng.

- Các anh em, nhiệm vụ đang tiến hành đã có biến chuyển bất ngờ, và rất đáng khích lệ. Tôi đã khiến cho Lev Barjona, người hiện đang có một loạt buổi hòa nhạc ở nhạc viện Saint Cecilia, gặp gỡ cha Nil. Nói đúng ra, tôi can thiệp cũng vô ích: dù sao người Israel đó cũng đã có ý định liên hệ với tu sĩ của chúng ta, điều này cho thấy Mossad quan tâm đến các nghiên cứu của ông ta đến mức nào. Tóm lại, họ đã gặp nhau, và Lev đã để lộ trước mặt nhà trí thức vô hại này thông tin mà chúng ta chờ đợi bấy lâu nay: bức thư của tông đồ thứ mười ba không mất tích. Vẫn còn một bản bức thư này, và hẳn là đang ở Vatican.

Một cái rùng mình lan khắp cử tọa đang vừa ngạc nhiên vừa phấn khích. Một trong số Mười hai hội viên đưa hai cánh tay giao nhau ra phía trước.

- Sao lại thế được? Chúng ta từng nghi ngờ một bản của bức thư này đã thoát khỏi sự cảnh giác của chúng ta, nhưng… ở Vatican.

- Chúng ta đang ở trung tâm của Cơ Đốc giáo, mạng lưới rộng lớn với các mắt lưới bao phủ toàn bộ hành tinh. Mọi thứ đều kết thúc bằng việc đến Vatican vào một ngày nào đó, kể cả các bản thảo hoặc các văn tự cổ phát hiện được ở nơi này nơi kia: đó là điều phải xảy ra. Lev Barjona đưa ra thông tin này không phải không có mục đích: hẳn hắn đang hy vọng nó sẽ khơi dậy sự tò mò của cha Nil, và ông ta sẽ dẫn hắn đến với văn bản mà người Do Thái cũng mong muốn có được không kém gì chúng ta.

- Người anh em Hội trưởng, chúng ta có cần thiết phải mạo hiểm để khai quật bức thư này không? Ông cũng biết đấy, lãng quên đã là vũ khí hiệu quả nhất của Giáo hội chống lại tông đồ thứ mười ba, chỉ có lãng quên mới khiến lời chứng nguy hiểm của ông ta không gây hại được. Có nên kéo dài căn bệnh quên lãng mang tính cứu rỗi này không?

Hội trưởng nhân nhịp này để nhắc nhở Mười một hội viên về tầm vóc lớn lao trong sứ mệnh của họ. Ông trang trọng duỗi bàn tay phải ra, để lộ viên ngọc thạch anh gắn trên chiếc nhẫn.

- Sau hội nghị Giám mục ở Trente, Thánh Pie V, vốn là Antoine-Michel Ghislieri, tu sĩ dòng Dominique, lo sợ trước sự suy yếu của Giáo hội Cơ Đốc, đã làm tất cả để cứu vớt nó khỏi tình trạng chìm xuồng được báo trước. Mối đe dọa nghiêm trọng nhất không xuất phát từ cuộc nổi loạn mới đây của Luther, mà từ một lời đồn đại cổ xưa mà ngay cả Tòa dị giáo cũng không thể dập tắt: nấm mộ có chứa xương cốt của Christ vẫn tồn tại, nó đang nằm đâu đó trong sa mạc ở vùng Cận Đông. Một bức thư bị mất của một nhân chứng có đặc huệ được chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Đấng Cứu thế khẳng định rằng không những Jesus không sống lại, mà thi thể của Người còn được người Esseni chôn cất trong vùng này. Các vị đều biết điều đó, đúng không?

Mười một hội viên gật đầu.

- Trước khi trở thành Giáo hoàng, Ghislieri từng là Thẩm phán Tòa dị giáo: ông đã quen với việc hỏi cung những kẻ ly khai bị thiêu sống vì theo dị giáo, ông đã tham khảo một số biên bản xử các Hiệp sĩ, ngày nay tất cả các tài liệu này đã mất. Ông tin chắc rằng nấm mồ của Jesus có tồn tại, và việc phát hiện ra nấm mồ này sẽ đồng nghĩa với sự kết thúc vĩnh viễn của Giáo hội. Thế là vào năm 1570, ông đã thành lập ra Hội chúng ta để bảo vệ bí mật về nấm mồ.

Điều này, các hội viên cũng biết. Đoán được sự nôn nóng của họ, Hội trưởng giơ cao chiếc nhẫn, nó phát ra một tia sáng ngắn dưới ánh sáng của những ngọn đèn chiếu.

- Ghislieri cho thửa chiếc nhẫn Giám mục có hình quan tài này bằng thứ ngọc thạch anh nguyên chất. Từ đó, dưới hình dạng này, nó nhắc nhở mỗi Hội trưởng, khi lấy nó ra khỏi ngón tay tiền nhiệm đã chết của mình, nhớ đến sứ mệnh của Hội chúng ta: làm thế nào để không bao giờ, không một cỗ quan tài nào có chứa đựng xương cốt của người bị hành hình trên giá chữ thập ở Jerusalem có thể bị phát hiện.

- Nhưng mặc dù tin đồn về bức thư của tông đồ thứ mười ba đã xuyên qua nhiều thế kỷ, không có điều gì chứng tỏ rằng nó chỉ ra vị trí chính xác của nấm mồ. Sa mạc rộng mênh mông, từ rất lâu rồi cát đã bao phủ tất cả!

- Đúng thế, không có nguy cơ nào về việc nấm mồ của Jesus bị phát hiện chừng nào chỉ có lạc đà đến được sa mạc. Nhưng việc chinh phục không gian đã cho chúng ta các phương tiện tìm kiếm vô cùng hoàn thiện. Nếu người ta đã có thể tìm ra dấu vết của nước trên sao Hỏa xa xôi, thì ngày nay người ta cũng có thể kiểm kê tất cả xương cốt trong các sa mạc ở Negreb hoặc ở Idumea, kể cả những bộ xương đã bị cát vùi lấp: điều này thì Giáo hoàng Ghislieri không thể tưởng tượng được. Rằng sự tồn tại của nấm mồ đã trở nên công khai, và hàng trăm máy bay ra đa hoặc máy dò không gian sẽ xem xét sa mạc một cách kỹ lưỡng, từ Jerusalem cho đến tận biển Chết. Sự tham gia bất ngờ và ồ ạt của công nghệ không gian tạo ra một nguy cơ mới, mà chúng ta không thể mạo hiểm được. Chúng ta phải tìm lại được tài liệu tồi tệ này, và phải nhanh chóng, vì người Israel cũng đang đi cùng đường với chúng ta.

Ông cung kính đưa chiếc quan tài bằng ngọc thạch anh lên môi, trước khi rút tay vào dưới ống tay áo lễ.

- Tài liệu nguy hiểm này phải được cất giấu trong chiếc tủ trước mặt chúng ta đây. Phải tìm được nó, không chỉ để đưa nó ra ngoài tầm tay kẻ thù của chúng ta, mà còn để nhờ nó, sở hữu được những phương tiện tài chính đáp ứng khát vọng của chúng ta: ngăn chặn phương Tây đi chệch đường. Các vị biết các Hiệp sĩ dòng Đền đã có được tài sản khổng lồ của họ như thế nào rồi đấy, thánh tích mà chúng ta sùng kính mỗi thứ Sáu ngày 13 nhắc nhở chúng ta điều đó. Tài sản này có thể trở thành của chúng ta, và chúng ta sẽ dùng nó để bảo vệ nhân thân thần thánh của Chúa Cứu thế.

- Ông có đề xuất gì, người anh em Hội trưởng?

- Cha Nil đang đoán được một hướng tìm kiếm, cuối cùng thì có thể đây là hướng đúng: hãy để ông ta đi theo nó. Tôi đã tăng cường việc giám sát xung quanh ông ta: nếu ông ta thành công, chúng ta sẽ là người biết đầu tiên. Và sau đó…

Hội trưởng cho rằng không cần thiết phải kết thúc câu nói. "Sau đó" đã xảy ra hàng nghìn lần, trong hầm ngầm các lâu đài của Tòa dị giáo vốn toát ra sự đau đớn hoặc trên những giàn thiêu vốn chiếu sáng Cơ Đốc giáo suốt chiều dài lịch sử của nó. "Sau đó", họ đã có kinh nghiệm lâu dài. Trong trường hợp hiện nay, Cha Nil sẽ không bị thiêu chết công khai, cha Andrei cũng đã không bị như thế.

74

Mặt trời vuốt ve những viên đá lát trong sân Belvedere khi cha Nil và Leeland bước vào. Nhẹ nhõm vì dốc được bầu tâm sự, tu sĩ người Mỹ đã lấy lại tâm trạng vui vẻ, và trong suốt đoạn đường ông chỉ nói về tuổi trẻ c?