← Quay lại trang sách

MỞ ĐẦU Bộ Râu Của Joseph

Đó là một bộ râu kì cục, khác người, nhìn khá khôi hài. Được tạo hình giống một chiếc khiên cách điệu, nó được uốn cong phình ra từ phần cằm đã bị che phủ hoàn toàn xuống và phủ lên luôn cả phần cổ áo. Có nét gì đó vừa mềm mại vừa cao quý trong những lọn râu hoàn hảo đó, giống như chòm râu uy nghiêm của thần Zeus. Nhưng, vẻ đẹp thu hút mọi ánh nhìn lại không nằm ở cái phần cong phình ra hai bên ấy; mà điều kì diệu thực sự nằm ở màu sắc của bộ râu.

Đó thực sự là bộ râu của Joseph * , được nhuộm sắc đen, xanh da trời và xanh lá cây theo từng vệt cũng giống chiếc áo của Joseph mà ta thường thấy trong tranh vẽ. Phải chăng nó đã phai màu dưới ánh mặt trời rực rỡ? Hay nó nhạt màu vì những lí do bí hiểm, giả như ông đã dành hàng giờ bên bàn thí nghiệm, chải chuốt bộ râu của mình trong một chậu hóa chất? Một bộ râu như của một vị thần như thế không thể có một xuất thân tầm thường. Bộ râu đó phải được ghi vào lịch sử; dứt khoát phải cho vào viện bảo tàng để gìn giữ đến muôn đời sau.

Bây giờ thì thám tử Thumm, từng làm việc ở Sở cảnh sát New York, đã nghỉ hưu, nhưng vốn quen bận rộn, đang đắm chìm trong công việc tại phòng thám tử tư, sau bốn mươi năm quá quen thuộc với những điều bất ngờ trong xã hội loài người. Nhưng kể cả như vậy thì ông cũng phát hoảng lên, sau đó thực tâm thích thú với bộ râu phi thường trên cằm của vị khách đến vào một buổi sáng thứ Hai dịu nhẹ đầu tháng Năm. Ông chưa bao giờ nhìn thấy một bộ sưu tập gồm những sợi tơ sặc sỡ đến vậy. Thumm nhìn chằm chằm, rồi nhìn chằm chằm, như thể dù nhìn bao nhiêu lâu vẫn thấy không đủ.

Cuối cùng ngài cũng nói: “Mời ngồi,” bằng giọng nhỏ nhẹ, liếc mắt qua lịch để bàn, hi vọng nhờ một điều kì diệu nào đó, hôm nay trở thành ngày Cá tháng Tư , để ngài có thể ngồi tụt sâu vào ghế, cào nhẹ lên bộ hàm rộng của mình và nhìn vị khách kia một cách sững sờ sửng sốt.

Râu Cầu Vồng bình thản ngồi xuống, hoàn toàn thư thái. Ông ấy là một người cao gầy, thám tử Thumm quan sát - ngài không thu được thông tin gì khá khẩm hơn, bởi phần còn lại của ông ta, hệt như cái cằm, cũng được gói kỹ trong bộ trang phục cũng bí ẩn và kì quái. Ông ta vận rất nhiều lớp áo, cả cơ thể được phủ lên vài lớp vải dày cộp; nên đôi mắt tinh anh của vị thám tử chỉ phát hiện được đôi cổ tay mảnh dẻ dưới đôi tay mang găng và đôi chân lòng khòng - những dấu hiệu không che giấu được. Đôi kính mắt màu xanh biển che đi cặp mắt ông ta. Chiếc mũ phớt có vẻ bình thường, nhưng lại toát lên nét thờ ơ quyến rũ không giấu giếm khi ông bước chân vào văn phòng thám tử, che kín phần đầu và màu tóc của ông. Và ông ta ngồi đó, giống thần Zeus, im lặng hoàn toàn.

Thumm húng hắng. “Vâng?” ông cố khích lệ.

Bộ râu hơi lay động, như thể đang cười.

“Vâng? Tôi có thể giúp gì ông?”

Đột nhiên vị khách vắt chéo đôi chân mảnh khảnh, đặt bàn tay đeo găng lên đầu gối. “Hẳn ngài thực sự là thám tử Thumm, tôi đoán vậy?” một giọng nói nhừa nhựa vang lên. Thumm giật mình, như thể ông vừa nghe một bức tượng phát ra tiếng nói.

“Là tôi đây.” Thumm uể oải nói. “Còn ông là…?”

Ông ta phẩy tay. “Chuyện này không quan trọng, ngài thám tử à. vấn đề là… tôi phải nói sao nhỉ? Tôi muốn yêu cầu ngài một điều hết sức đặc biệt.”

Hẳn đó là một yêu cầu đặc biệt, vị thám tử nghĩ thầm, nếu như ông không mang bộ dạng kì quặc kia! Thumm nhanh trí giấu đi ánh mắt kinh ngạc. Bàn tay ông nhẹ nhàng gạt một chốt nhỏ dưới ngăn bàn, có tiếng vo vo khe khẽ, mà chắc chắn quý ông với bộ râu sặc sỡ kia không thể nhận ra.

“Những người ngồi trên chiếc ghế đó thường có các yêu cầu như vậy.” Thumm vui vẻ nói.

Một mẩu đầu lưỡi của ông ta nhô ra nơi cánh rừng rậm rạp trên bờ môi, rồi như thể sợ hãi bởi màu sắc kì lạ nơi đó, đã vội vàng rụt lại. “Tôi có thể nói với ngài, ngài thám tử ạ. Rằng tôi đang tìm kiếm ngài. Điều làm tôi thấy lí thú là ngài có vẻ không… à, giống một thám tử tư bình thường.”

“Chúng tôi đều cố làm khách hàng hài lòng.”

“Thực vậy. Thực vậy… À, ngài thực sự giữ mọi chuyện riêng tư chứ? Ý tôi là, bây giờ ngài không còn liên quan đến cảnh sát, phải không ngài thám tử?”

Thumm đăm đăm nhìn ông ta. “Ngài thấy đó, tôi cần phải chắc chắn. Chuyện tôi nhờ ngài cần được giữ bí mật tuyệt đối.”

“Tôi cực kì kín tiếng,” Thumm làu bàu, “tôi sẽ không nói với ai, kể cả với bạn thân nhất của tôi. Nếu đó là điều khiến ông lo lắng. Trừ phi đó là một chuyện bẩn thỉu. Tôi căm ghét lũ chuột bọ, thưa ngài. Văn phòng của Thumm không chơi đùa với lũ lừa lọc.”

“Ồ, không, không đâu,” Râu Cầu Vồng nói nhanh, “không phải những chuyện đó, tôi cam đoan. Chỉ là một chuyện nhỏ thôi… chỉ có điều hơi đặc biệt một chút, ngài thám tử ạ.”

“Nếu về chuyện vợ ông và anh bạn giai,” vị thám tử quan sát khách hàng của mình, “thì thôi nhé. Văn phòng tôi cũng không nhận mấy vụ kiểu đó.”

“Không, không đâu, ông bạn thám tử, không phải mấy vụ rắc rối gia đình đâu. Không phải mấy chuyện kiểu đó. Mọi chuyện, thực ra thì, gói gọn trong một từ thôi,” Râu Cầu Vồng nói, hơi thở nhè nhẹ lay động bụi cây nho nhỏ trên cằm mình, “tôi muốn ngài giữ một vật cho tôi.”

“Ồ,” Thumm nói, hơi nhúc nhích, “giữ cái gì?”

“Một chiếc phong bì.”

“Một chiếc phong bì?” Vị thám tử cau mày. “Có gì trong đó vậy?”

Râu Cầu Vồng tỏ ra cực kì kiên quyết. Đôi môi ông ta mím chặt. “Không,” ông nói, “tôi sẽ không nói với ông. Như thế chắc cũng không có gì khác biệt?”

Đôi mắt xám lạnh lẽo của viên thám tử chăm chú nhìn vị khách đặc biệt nhưng không dò được gì sau cặp kính xanh. “Tôi hiểu,” Thumm nói, dù rõ ràng là vẫn chưa hiểu mô tê gì. “Nhưng ý ông là gì - giữ nó cho ông?”

“Hãy giữ nó an toàn. Cho đến khi tôi gọi đến. Nguyên vẹn, như lúc ban đầu.”

Thumm ngáp dài. “Chúa ơi, tôi đâu điều hành một cái két sắt. Sao ông không đến ngân hàng? Chắc chắn nơi đó sẽ rẻ và tốt hơn nhiều.”

“Tôi e là ngài không hiểu chuyện, ngài thám tử,” Râu Cầu Vồng nói một cách dè dặt. “Chuyện đó không giúp gì hết, ngài thấy đó. Tôi cần nó được giữ an toàn trong tay một người, một người đáng tin cậy,” và ông ta dò xét khuôn mặt cứng rắn nghiêm nghị của Thumm một cách cẩn thận, như thể đang dò xét mức độ đáng tin của quý ông can đảm này.

“Tôi nghe rồi,” Thumm nói. “Tôi đã nghe và đã hiểu. Được rồi, hãy xem xét nó đã, quý ông Vô Danh. Hãy cho tôi xem nào, đến lúc rồi!”

Vị khách của ông khựng lại trong giây lát, nhưng khi ông ta bắt đầu, mọi chuyện hết sức trôi chảy, như thể ông ta đã quyết định sau khi cân nhắc kĩ lưỡng. Bàn tay phải đeo găng luồn xuống nếp gấp của chiếc khăn choàng, sau đó rút ra một chiếc phong bì lớn, dài, màu nâu sậm. Đôi mắt Thumm sáng lấp lánh, rồi ông đưa tay ra. Chiếc phong bì rơi nhẹ vào tay ông.

Đó là một chiếc phong bì màu nâu sẫm hết sức bình thường, có thể dễ dàng tìm thấy ở bất kì tiệm tạp hóa nào, cả mặt trước và mặt sau đều không có dấu hiệu gì bất thường. Nó được niêm phong bằng lớp keo sẵn có; ngoài ra, vị khách của ông còn hết sức cẩn thận đóng kín phong bì lại - chắc để phòng ngừa bản tính tò mò vốn có của con người - bằng sáu mẩu giấy trắng nhỏ rẻ tiền, cắt thành những hình dạng kì dị khác nhau rồi dán lên phần mép giống như dấu niêm phong.

“Khá gọn ghẽ,” Thumm nhận xét, “gọn gàng và không có gì đặc biệt. Hừm.” Ông vuốt ngón tay lên nó một cách vô thức. Mắt nheo lại. Vị khách vẫn ngồi bất động. “Có gì trong đó? Ông không thể mong rằng…”

Hẳn phải có một lí do nào đó khiến Râu Cầu Vồng mỉm cười, vì phần râu nơi mép đột nhiên hơi nhích lên phía trên. “Tôi thích sự kiên trì của ngài, ngài thám tử, tôi thực sự ấn tượng đấy. Điều này xác thực những gì tôi đã nghe về ngài. Ngài khá nổi tiếng, ngài biết đấy. Thái độ cẩn trọng của ngài…”

“Được rồi, có gì trong đó vậy?” Thumm cằn nhằn.

Người đàn ông - nếu như đó là một người đàn ông, sự nghi ngờ có vẻ phi lý lướt qua tâm trí Thumm - ngả người về phía trước. “Nếu như tôi nói với ngài rằng,” ông ta khàn khàn thì thầm, “giả như tôi nói với ngài rằng, trong cái phong bì tầm thường đang nằm trong tay ngài kia, ngài thám tử, có chứng cớ của một bí mật, một bí mật cực kì quan trọng, vĩ đại, hết sức lớn lao, mà tôi không dám tin bất kì ai trên thế giới này một cách trọn vẹn.”

Thám tử Thumm hấp háy mắt. Có lẽ ngài đã biết. Bộ râu này, cặp mắt kính kia, lớp quần áo giả trang nặng trịch, trò hề mà vị khách kia đang diễn - tại sao ư, rõ ràng hắn ta là một tên điên trốn trại! Này thì bằng chứng. Rồi bí mật. Rồi bất kì ai trên thế giới… Lớp vỏ tồi tàn vỡ toác ra.

“Ồ, hãy bình tĩnh nào,” thám tử nói. “Ngài không cần kích động đến vậy, thưa ngài.” Thumm thấy cần nhanh chóng nắm lấy khẩu tự động nhỏ xíu để trong bao da bên sườn. Thằng điên này có thể mang theo vũ khí!

Rồi Thumm giật mình khi nghe thấy Râu Cầu Vồng cười khùng khục. “Ngài nghĩ tôi bị điên phải không? Tôi không thể trách ngài, ngài thám tử. Tôi cho rằng mọi chuyện có vẻ hơi… ừm, khác thường. Nhưng tôi đảm bảo với ngài rằng,” và giọng nhừa nhựa kì lạ đột nhiên trở nên tỉnh táo lạ thường, “tôi đã nói với ngài toàn bộ sự thực mà không hề phóng đại bất kì điều gì, và ngài cũng không cần đặt tay lên khẩu tự động của mình đâu, ngài thám tử, tôi không cắn ngài đâu.” Thumm rút tay ra khỏi áo khoác, mặt đỏ bừng, nhìn chằm chằm vào vị khách của mình. “Thế tốt hơn rồi, thật đấy. Giờ thì hãy nghe thật kĩ nhé, vì tôi không có nhiều thời gian và điều quan trọng là ngài phải hiểu rõ chuyện này. Tôi nhắc lại, rằng chiếc phong bì đó đang chứa một bí mật hết sức vĩ đại. Hay,” ông ta nói một cách điềm tĩnh, “một bí mật trị giá cả triệu.”

“Được thôi, nếu ông không điên,” Thumm gừ gừ, “thì tôi cũng vậy. Ông phải nói thêm cho tôi biết nếu ông muốn tôi nhận vụ này. Ý ông là sao - bí mật triệu đô? Trong cái phong bì mỏng manh này?”

“Chính xác.”

“Bí mật chính trị hả?”

“Không.”

“Khủng hoảng dầu mỏ? Thư tống tiền, thư tình? Kho báu? Đá quý? Thôi nào, thưa ngài, hãy rõ ràng nào. Tôi sẽ không nhận thứ gì tôi hãy còn mù mờ như này.”

“Nhưng tôi không thể nói với ngài chuyện đó,” Râu Cầu Vồng lặp lại, lúc này đã trở nên thiếu kiên nhẫn. “Đừng tỏ ra ngu ngốc, ngài thám tử. Tôi đảm bảo với ngài, bằng danh dự của mình, rằng những thứ bên trong phong bì không hề xấu xa. Bí mật này hoàn toàn hợp pháp. Không phải mấy thứ nhảm nhí ngài mới nói. Nó liên quan đến những thứ chắc chắn thú vị hơn và có giá trị hơn nhiều. Xin hãy nhớ, chiếc phong bì này không chứa đựng bí mật, ý tôi là, nó chỉ chứa đựng một manh mối dẫn đến bí mật đó.”

“Ông cũng sẽ làm tôi phát điên mất,” Thumm rên rỉ. “Bí ẩn đó là cái quái gì chứ? Tại sao ông muốn tôi giữ cái thứ chết tiệt đó vậy?”

“Vì một lý do hết sức tốt đẹp.” Râu Cầu Vồng mím môi. “Tôi đang theo sát… được rồi, giả như chúng ta nói rằng nguyên gốc của chứng cứ trong phong bì đó, bí mật mà tôi đề cập đến. Ông nên hiểu rằng, tôi vẫn chưa tìm được nó. Nhưng dấu vết hãy còn mới, thực sự nóng hôi hổi! Tôi hoàn toàn tin chắc mình sẽ thành công. Giờ đây, nếu điều gì đó, à, có xảy đến với tôi, ngài thám tử, tôi muốn ông mở chiếc phong bì đó.”

“Ha,” viên thám tử cười.

“Trong trường hợp có chuyện gì đó xảy ra với tôi — và khi ngài mở chiếc phong bì - ngài sẽ tìm được chút manh mối nhỏ bé của tôi. Nó sẽ dẫn ngài đến một manh mối khác rõ ràng hơn nhiều - tới tôi. Hoặc số mệnh của tôi. Tôi không định chống lại sự ngẫu nhiên đến từ bất kì linh hồn báo thù nào, tôi chỉ mong ngài hiểu. Nếu có chuyện gì đó xảy ra, tôi không mong mình được báo thù nhiều bằng việc giữ gìn nguyên gốc bí mật này. Tôi nói đủ rõ chưa?”

“Chưa!”

Râu Cầu Vồng thở dài. “Chứng cứ trong phong bì này chỉ có vậy không hơn; nó nói lên rất ít về chính mình. Nhưng đó chính là điều tôi cần! Sự không hoàn hảo của nó sẽ bảo vệ tôi khỏi - tôi không có ý xúc phạm ngài, ngài thám tử đáng kính! - thậm chí sự tò mò của ngài, hay của bất kì ai khác có thể thấy nó. Nếu ngài mở nó ra trước thời điểm tôi yêu cầu, tôi đảm bảo rằng những thứ bên trong phong bì là hoàn toàn vô nghĩa đối với ngài.”

“Thôi được rồi!” Thumm cao giọng. Mặt ông đỏ lên. “Ông đang cố biến tôi thành một tên ngốc. Có ai điên mà mắc vào cái trò đùa cợt trẻ con điên khùng này chứ, mẹ kiếp? Tôi không thể lãng phí…”

Một vật gì đó rung rung liên hồi trên bàn thám tử. Vị khách của ngài ngồi yên. Thám tử Thumm tạm dẹp cơn thịnh nộ của mình và túm lấy ống nghe nội bộ. Một giọng nữ vang lên nho nhỏ. Thumm lắng nghe vẻ chua chát trong giây lát, gác máy và ngồi xuống.

“Tiếp đi,” ông nói giọng nghèn nghẹt. “Tiếp tục đi. Để đó cho tôi. Tôi sẽ cắn xé. Tôi sẽ nuốt trọn cả mũi câu, dây câu và phao. Gì nữa?”

“Chà, ông bạn của tôi,” Râu Cầu Vồng dè dặt tỏ sự quan tâm. “Thực sự là, ngài thám tử, tôi không có cố ý… Hoàn toàn không phải vậy.”

“Hẳn là không đối với cuộc đời của ông,” Thumm nói giọng cay nghiệt. “Nếu tôi vướng vào vụ này, tôi sẽ xử lý nó ổn thỏa. Phải có chuyện gì khác. Dù nó điên rồ thế nào, nó cũng không thể điên rồ như cách ông bỏ nó lại.”

Ông ta vuốt bộ râu kì cục của mình. “Tôi ngày càng thích ngài hơn,” ông lầm bầm. “Đúng vậy, có những chuyện khác nữa. Ngài cần hứa rằng sẽ không bao giờ mở phong bì đó ra trừ khi…” ông ta im lặng.

“Trừ khi sao?” Thumm gầm gừ.

Vị khách liếm môi. “Hôm nay là mồng sáu tháng Năm. Hai tuần sau tính từ ngày này, vào ngày hai mươi, tôi sẽ gọi cho ngài. Tôi dám chắc sẽ gọi cho ngài vào hôm đó. và cũng vào ngày hai mươi tháng Sáu, và hai mươi tháng Bảy - vào ngày hai mươi hàng tháng cho đến khi tôi tìm ra nó. Việc gọi điện đều đặn như vậy sẽ nhắc ngài rằng tôi hãy còn sống, rằng tôi chưa lao vào bất kì nguy hiểm không lường trước nào.” Giọng nhừa nhựa của ông ta vang lên niềm phấn khởi rõ rệt. “Nếu tôi vẫn gọi điện, ngài chỉ cần giữ gìn chiếc phong bì đó trong két an toàn cho đến khi tôi cần nó. Mặt khác, nếu cho đến sau nửa đêm của bất kì ngày hai mươi nào, ngài không nhận được cuộc gọi của tôi, ngài sẽ biết rằng tôi có lẽ sẽ không bao giờ gọi nữa. Khi đó - và chỉ khi đó - ngài mới được mở phong bì ra, đọc những gì ghi trong đó, và tiếp tục quá trình bởi tôi khá chắc chắn rằng, sự quả quyết của ngài sẽ dẫn đường cho ngài.”

Thumm ngồi đó, mặt nhăn nhúm và chua chát, chìm lút trong chiếc ghế; chiếc mũi gẫy của ông nhăn lại, rõ ràng sự bướng bỉnh đang cố làm hòa với tính tò mò. “Ông sẽ gặp cả đống rắc rối đó, thưa ngài, để giữ bí mật này của ông. Hẳn ai đó đang theo sát nó hả? Ai đó ông tin rằng sẽ đụng đến ông trước hoặc sau khi ông nắm được nó?”

“Không, không đâu,” Râu Cầu Vồng kêu lên. “Ngài đang hiểu lầm rồi. Theo như tôi được biết, không có ai khác đang theo đuổi bí mật này. Nhưng luôn có khả năng rằng có ai đó cũng theo sát nó, ai đó mà tôi không biết cả nhân dạng và động cơ. Tôi chỉ đang thực hiện những biện pháp cần thiết chống lại những rủi ro ngẫu nhiên đó, vậy thôi. Những rủi ro này viển vông đến mức tôi thậm chí không cần nói với ngài tên mình hay bất cứ gì khác! Bởi sẽ không xảy ra chuyện gì - và tôi cũng không mong có chuyện gì đó xảy ra - tôi không muốn ngài hay bất kì ai khác sở hữu manh mối rõ ràng dẫn đến bí mật của tôi. Tôi chắc mình đã đủ thành thực, ngài thám tử…”

“Chúa ơi,” Thumm rên rỉ, “chuyện đi xa quá rồi đấy. Hãy nghe tôi, thưa ông.” Viên thám tử đập tay lên bàn. “Đầu tiên, tôi nghĩ ông bị điên. Rồi tôi lại nghĩ ai đó xui ông đến trêu chọc tôi. Giờ tôi không biết phải nghĩ gì khác ngoại trừ: chắc chắn tôi sẽ vui hơn rất nhiều nếu ông biến khỏi đây ngay lập tức. Đi đi! Xùy!”

Bộ râu cong xuống trên khuôn mặt xị ra vì hoang mang vừa lúc tiếng chuông bộ đàm réo vang lần nữa. Thumm bắt đầu đỏ mặt như một cậu bé bị bắt quả tang hái trộm táo, đấm mạnh nắm tay mình vào túi. “Được rồi, được rồi,” ngài thì thầm vào ống nghe, rồi quay ra nói lớn: “Thứ lỗi cho tôi. Tôi… Sáng nay tôi thấy trong người hơi khó chịu. Thực ra tôi không quen với trường hợp của ông,” ông rên rỉ to hơn, “vụ của ông. Tôi chỉ là một thám tử bình thường, và tôi nghĩ rằng mình không quen với ý tưởng làm bảo mẫu cho một cái phong bì… Ổn thôi, tôi cũng sẽ điên, để cho có đôi có cặp! Khi ông gọi cho tôi vào ngày hai mươi, làm sao tôi biết được đó là ông?”

Vị khách thở phào một cách nhẹ nhõm. “Tôi rất mừng. Hừm. Rất thông minh, ngài thám tử, thực sự rất thông minh. Tôi chưa nghĩ đến chuyện đó.” Ông ta mỉm cười và xoa xoa hai bàn tay đeo găng. “Thực vậy, chuyện này thật thú vị! Giống một chương điên rồ trong Những cuộc phiêu lưu của Lupin !” *

“Của ai?” Thumm nói giọng tò mò.

“Arsène bất tử. Hừm. Mật khẩu. Mật khẩu, tất nhiên rồi! Đó là một câu trả lời hợp logic, ngài thám tử. Rất tốt, khi tôi gọi ngài tôi sẽ nói… để tôi xem nào, ha! ‘Đây là người đến từ Hư không. Hàng triệu!’ và khi đó, ngài sẽ biết đó chính là tôi. Ha, Ha!”

“Ha, ha,” Thumm nói. “Đây là người từ…” ông lắc đầu ngán ngẩm. Sau đó, một tia hi vọng lóe lên trong mắt ngài thám tử. “Nhưng chắc chi phí của tôi sẽ không…”

“À, thù lao cho ngài,” Râu Cầu Vồng nói. “Đúng, đúng vậy, tôi hầu như quên béng mất. Mức thù lao ngài mong muốn là bao nhiêu, ngài thám tử, để có thể nhận vụ việc kì lạ bé nhỏ này của tôi?”

“Chỉ để giữ cái phong bì chết tiệt này trong két sắt của tôi?”

“Vậy thôi.”

“Vậy chi phí là,” thám tử nói một cách tuyệt vọng, “chỉ năm vé.”

“Vé á?” Râu Cầu Vồng lặp lại, rõ ràng đang không hiểu gì.

“Người thép. Tiền trong The Sims. Đôla. Năm trăm đô!” Thumm gào lên. Ông tìm kiếm dấu hiệu sửng sốt trên gương mặt thân chủ mình; bộ râu tóc xum xuê kia sẽ sụp xuống, và đó sẽ là một vinh quang an ủi cho ông khi vị khách rút lui không thương tiếc trước lời đề nghị quá sức phi lý này.

“Ồ, đôla hả,” vị khách mỉm cười. Ông ta không có vẻ gì hoảng hốt, ông lần mò trong lớp vải dưới áo, lôi ra một chiếc ví bự, rút ra một tờ giấy mới cứng, và ném nó lên bàn.

Đó là một tờ ngân phiếu một ngàn đô mới tinh.

“Tôi nghĩ là,” Râu Cầu Vồng tỏ ra phấn khởi, “một ngàn đô đây cũng là một khoản thù lao tương đối xứng đáng, ngài thám tử. Đây là một nhiệm vụ hơi bất thường, chắc chắn rồi, nhưng đối với tôi nó là tất cả. Cảm giác yên tâm, an toàn.”

“Ừ, hử,” Thumm ậm ừ, rụt rè chạm tay vào tờ ngân phiếu.

“Chuyện này quyết định thế đi,” vị khách nói tiếp. “Chỉ có thêm hai điều kiện nữa. Tôi cần ngài đảm bảo, ngài thám tử. Thứ nhất, ngài không được bám theo - không biết từ chính xác là gì - theo đuôi tôi khi tôi rời khỏi văn phòng này, và trừ khi tôi không thể gọi cho ngài vào ngày hai mươi ngài không được tìm cách lần ra tôi.”

“Chắc chắn, chắc chắn rồi,” giọng Thumm run run. Cả ngàn đô! Những giọt nước mắt hạnh phúc dâng lên trong đôi mắt hóa đá của ông. Giờ đang là những ngày khó khăn. Những một ngàn đô chỉ để giữ cái phong bì mỏng manh kia an toàn!

“Hai là,” người đàn ông nhẹ nhàng bước ra cửa, “nếu tôi không thể gọi điện cho ngài vào ngày hai mươi, ngài không được mở phong bì trừ khi có mặt ngài Drury Lane.”

Thumm há hốc miệng. Đây chính là cú chốt quyết định. Vở diễn kết thúc. Râu Cầu Vồng cười cầu tài, lủi nhanh qua cửa và biến mất.

Cô Patience Thumm - độc thân, da trắng, chừng hai mươi mốt tuổi, tóc màu mật ong, và nói như một thợ làm vườn, thực sự là hạt giống quý trong mắt bố cô * - giật tai nghe ra khỏi đầu và nhanh chóng quăng nó vào ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc trong phòng khách, ngăn kéo đó trở thành điểm đến cuối cùng của “thiết bị đo thái độ thám tử” trong văn phòng vô cùng hiện đại này. Ngay sau đó, cánh cửa phòng thám tử bật mở và một người cao lớn đeo kính xanh với một bộ râu kì lạ xuất hiện. Có vẻ như ông ta không thấy Patience, tiếc cho ông ta, vì ông chỉ chăm chăm duy nhất một việc: giữ cho kính, bộ râu và bản thân ông ta tránh xa khỏi lễ từ biệt của Văn phòng thám tử Thumm mà dấn thân vào hành trình vĩ đại nhất. Cánh cửa ngoài đóng sập lại sau lưng ông và ngay tức khắc Patience, người ít tò mò hơn phần lớn phụ nữ khác - vì rằng, cô có hứa gì đâu - lao vội ra phía cửa để kịp ngó thấy một góc bộ râu hoành tráng ở góc hành lang vì chủ của nó không đợi thang máy, mà phi như bay xuống thang bộ. Patience lãng phí ba giây quý giá của cuộc đời đứng cắn môi; rồi cô lắc đầu, phẩm hạnh cuối cùng đã chiến thắng, cô nhanh chóng quay lại phòng chờ. Cô lao vào thánh đường của bố mình, đôi mắt xanh thẳm của cô đầy phấn khích.

Thám tử Thumm, hãy còn kinh ngạc, ngồi ngả trên ghế, một tay cầm chiếc phong bì nâu dài, tay kia cầm tờ ngân phiếu một ngàn đô.

“Pat,” ông khàn khàn nói. “Pat, con thấy không? Con có nghe thấy không? Gã này kì cục thật? Là ta bị điên, hay là ông ta, hay cái gì thế?”

“Ôi, bố ơi,” cô kêu lên, “đừng ngốc thế nữa.” Cô tóm lấy chiếc phong bì, đôi mắt lấp lánh. Ngón tay cô ấn nhẹ lên nó, và có gì đó lột sột bên trong. “Hừm. Có một chiếc phong bì khác ở bên trong. Nhưng không cùng cỡ. Có vẻ là hình vuông, bố à. Con tự hỏi…”

“Ôi, không, con đừng,” ông bố nói nhanh, giật lấy phong bì khỏi tay cô. “Bố đã nhận mồi từ con chim đó rồi, hãy nhớ lấy. Pat, đây là một tờ ngân phiếu ba số không, cả ngàn đô đấy!”

“Con nghĩ bố thật ích kỉ,” Patience phàn nàn. “Con không thể tưởng tượng rằng…”

“Nghe này, bồ câu bé bỏng của ta, con sẽ có một bộ váy mới, và chỉ vậy thôi.” Viên thám tử càu nhàu và cất phong bì vào góc xa nhất trong két an toàn. Ông đóng sập cửa thép lại và quay lại bàn làm việc, ngồi xuống và vuốt hàng lông mày nâu của mình.

“Nhẽ ra bố đã đá đít ông ta ra,” ông lầm bầm. ”Ta chưa bao giờ làm một vụ điên rồ như này. Và bố hẳn đã làm vậy, đúng, nếu con không nháy bố qua bộ đàm. Bực thật, nếu ai đó đưa đoạn hội thoại ban nãy vào sách, chắc chắn sẽ không ai tin được!”

Đôi mắt của Patience lộ vẻ mơ mộng. “Đây là một vụ dễ thương. Đáng yêu thật!”

“Cho bác sĩ tâm lý,” thám tử càu nhàu. “Nếu không vì một khìn này, ta sẽ…”

“Không! Ông ta… ồ, ông ta thật kì lạ. Con chưa bao giờ tưởng tượng nổi một người trưởng thành lại có một trí óc rối loạn đến vậy - ông ta không bị điên, bố à! - thích ăn mặc như thể mới bước ra từ chuyện cổ tích và… Con đoán rằng bố cũng ấn tượng với bộ râu đó?” Patience đột nhiên nói.

“Bộ râu đó! Như len nhuộm màu vậy.”

“Một tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm kì dị. Những vòng xoắn xinh xắn đó! Không, chắc chắn có điều gì đó kì dị trong chuyện này,” Patience lẩm bẩm. “Con có thể hiểu cảm giác của một người cần che giấu thân phận của mình…”

“Vậy con cũng thấy hả? Nó là đồ giả, đúng không,” viên thám tử quạu quọ. “Bộ râu giả kì quặc nhất ta từng thấy.”

“Không còn nghi ngờ gì nữa. Bộ râu, cặp kính, cả đống quần áo - tất cả chỉ để che giấu vẻ ngoài thực sự của ông ta. Nhưng tại sao bộ râu lại sặc sỡ đến thế?”

”Ông ta bị điên, bố nói con nghe. Bộ râu xanh lục và xanh nước biển.”

“Có thể nào ông ta đang muốn giấu chuyện gì đó?” Patience thở dài. “Nhưng điều này thật phi lý. Nếu bỏ lớp hóa trang bên ngoài ra ông ta sẽ là một người cao, gầy với các đường nét sắc sảo, có lẽ tầm trung niên, nói giọng mũi…”

“Để che giấu giọng thật nữa,” vị thám tử lầm bầm. “Nhưng con nói đúng. Có điều gì đó thực sự đáng ngờ. Ông ta không phải mấy tay đến từ vùng Maine, Patty. Không phải kiểu giọng mũi đó.”

“Tất nhiên là không rồi. Hẳn bố cũng đoán ra? Ông ta là người Anh, bố à.”

Viên thám tử đập mạnh vào bắp vế. “Chúa ơi, Pat, đúng rồi!”

“Ông ta không thể giấu được,” Patience nói. “Và ngôn từ ông ta sử dụng là kiểu Anh. Khẩu âm của ông ta giống ở Oxford hơn là ở Cambridge. Và ông ta không hiểu cách ví von của bố về “đôla”, nhưng đó có thể là cố tình.” Cô nhún vai. “Con nghĩ ông ta là người nắm khá vững về phong tục văn hóa. Nhìn ông ta cũng ra dáng giáo sư phết, bố không thấy vậy sao?”

“Có gì đó kì dị về người đàn ông này,” Thumm cằn nhằn. Ông đặt một điếu xì gà lên môi và nhăn mặt nhìn con gái. “Nhưng ông ta có nói một việc,” ông hạ giọng xuống, “khiến bố thấy không ổn. Nếu ông ta không gọi đến vào ngày hai mươi và chúng ta buộc phải mở phong bì đó, chúng ta sẽ phải đến nhờ ông bạn già Drury Lane để giải đáp bí mật. Nhân danh Ceasar bé nhỏ, tại sao chứ?”

“Đúng vậy, tại sao?” Patience lặp lại, cảm thấy khó hiểu. “Con sẽ nói rằng, đó mới là mục đích chính của chuyến viếng thăm này.”

Cả hai ngồi yên lặng, trao đổi cái nhìn đầy ẩn ý. Phần đặc biệt đó trong yêu cầu từ vị khách người Anh giả trang che khuất những bí ẩn khác. Ngài Drury Lane, con người hoa mỹ, một trong những quý ông cao tuổi ít bí ẩn nhất trên thế giới. Đã hơn bảy mươi tuổi, nghỉ hưu đã hơn mười hai năm, đang sống cuộc đời ẩn dật của một nghệ sĩ già giàu có trên vùng thượng Westchester trong một trang viên rộng lớn, có lâu đài, những mảnh vườn và những ngôi làng nhỏ xinh quyến rũ theo kiến trúc thời Elizabeth mà ông hết sức yêu thích. Hamlet, tên ông gọi khu dinh thự của mình, hoàn toàn phù hợp với ông. Trong những năm qua, Drury Lane đã trở thành diễn viên xuất sắc nhất trong các vở kịch của Shakespeare. Khi đến tuổi sáu mươi, ở thời kì đỉnh cao trong sự nghiệp diễn xuất của mình, một bi kịch đã ập đến khiến ông mất đi thính giác. Cực kì tỉnh táo đối phó với bi kịch này, ông đã học cách đọc khẩu hình - một nghệ thuật mà ông hết sức thành thạo - và lui về Hamlet sống dựa vào khoản tài sản cá nhân khổng lồ, và mang đến một nơi trú chân cho những diễn viên bơ vơ và những nghệ sĩ nghèo khổ khác. Hamlet trở thành ngôi đền học vấn; nhà hát nơi đây trở thành sân khấu cho kịch thể nghiệm; và thư viện chứa đầy những cuốn sách thời Elizabeth và của Shakespeare giống như thánh địa Mecca đối với các học giả tham vọng. Như một sở thích đặc biệt, quý ông của sân khấu đó hướng trí tuệ sắc sảo của mình vào việc điều tra tội phạm. Chính vì sở thích đó mà ông đã gặp thanh tra Thumm, rồi sau đó là trong quá trình hoạt động của Văn phòng thanh tra, Sở cảnh sát New York, và tình bạn kì lạ của hai người đã nảy nở từ đó. Cả hai đã hợp tác hiệu quả trong vô số vụ điều tra án mạng cả trước và sau khi Thumm nghỉ hưu ở sở cảnh sát và mở văn phòng thám tử riêng. Con gái của Thumm, Patience, người mới trở về quê hương sau khi du lịch quanh châu Âu cùng một người nữa, đã ngay lập tức hăng hái tham gia vào các vụ án cùng bố cô và người diễn viên già.

Có gì đó đã lọt qua mắt Thumm. Liệu có liên quan gì giữa vị khách bí ẩn, khoa trương với vẻ ngoài giáo sư bác học cùng cái bí mật triệu đô và người bạn già khiếm thính, bệnh tật - Lane những năm cuối đời phải chịu đựng khá nhiều bệnh tật do tuổi già - thẳng thắn, đáng quý và thông minh?

“Con có nên viết thư cho ông ấy không?” Patience thì thầm.

Viên thám tử ném điếu xì gà ra xa, tỏ ý không tán đồng. “Không đâu, Patty. Bố đã nói với con vụ này quá kì quặc. Mối liên quan giữa Ông bạn già Drury với chúng ta chỉ hết sức bình thường, và có thể tên hề với bộ cằm đầy râu giả mạo chỉ đang cố dùng tên của Lane để lòe chúng ta. Tay đó định chơi đến cùng đây! Không cần thiết phải làm phiền Lane bây giờ. Chúng ta hãy còn thời gian đến ngày hai mươi. Bố nói với con, đến ngày hai mươi Râu Cầu Vồng sẽ không gọi đến đâu - hắn không có ý định gọi. Hắn muốn chúng ta mở phong bì ra. Sẽ có điều gì đó đặc biệt, và ta không thích mùi vị đó… Hãy còn đủ thời gian để Lane tham gia.”

“Vậy cứ theo ý bố đi,” Patience ngoan ngoãn nói; nhưng đôi mắt cô đảo về phía cánh cửa đóng kín của két an toàn, và một vết nhăn sâu xuất hiện giữa đôi lông mày.

Hóa ra vị thám tử của chúng ta là một nhà tiên tri tồi, và ông đã ngạc nhiên cay đắng khi nhận được cuộc gọi vào ngày hai mươi tháng Năm. Giọng Anh nhừa nhựa vang lên: “Ngài thám tử Thumm?”

“Vâng?”

Patience, đang nghe qua một đầu điện thoại khác, tim đập thình thịch.

“Đây là người đến từ Hư không. Hàng triệu!” giọng Anh nhừa nhựa đó cất lời; có một tiếng cười thầm từ đầu dây bên kia và, trước khi viên thám tử hết ngạc nhiên, có một tiếng dập máy và tín hiệu bị ngắt.