Chương 23 Giải Mã
Không còn gì cần làm ở nơi này nữa. Maxwell được khuyên rằng hãy quên đi ông chủ của mình và quay trở lại Tarrytown để tiếp tục cuộc sống tuy buồn tẻ nhưng yên bình. Bolling, một người luôn tràn đầy nhiệt huyết, sẽ trông coi ngôi nhà, bằng cách cắt cử hai người của mình theo dõi cả hai làn đường dẫn tới ngôi nhà và phía sau, mặc dù nơi đằng sau ấy là bất khả xâm phạm trừ khi băng qua một đám bụi cây mốc thấp và khó đi. Còn chàng trai trẻ Rowe dần dần im lặng hơn về việc phát hiện ra cái hốc bí mật trong phòng làm việc, đi đến kết luận: đêm đó Maxwell đã khóa chặt mọi cửa nẻo, như mọi khi. Rowe đã tự mình khám phá căn nhà, anh phát hiện rằng ngoại trừ cửa trước, mọi cửa sổ và cửa ra vào đều được khóa từ bên trong. Còn trần nhà, không cần thiết phải kiểm tra bởi không có lối nào để leo vào mặc dù có một cầu thang gần bếp trong nhà. Chuông treo trước cửa đã kêu váng lên ngay sau khi họ rời khỏi căn nhà.
Theo yêu cầu của Lane - Bolling đưa Maxwell đến Tarrytown bằng xe cảnh sát - Patience và Rowe đi theo sau xe limousine của Dromio đến Hamlet. Hai người đi đến căn phòng được sắp xếp sẵn cho mình, tắm rửa sạch sẽ và xuống lầu dùng bữa trưa muộn, cảm thấy khoan khoái cả về thể xác và tinh thần. Ba người cùng ăn trong bầu không khí thân mật tại căn phòng riêng. Không ai nói gì về những việc đã xảy ra, Patience dùng bữa một cách yên lặng, Rowe đang trầm ngâm suy nghĩ gì đó, còn Lane cố hết sức mình để giữ cho cuộc thảo luận được ôn hòa và không nói gì về sự kiện diễn ra buổi sáng. Sau bữa ăn, ông nhờ Quacey chăm sóc cho hai người, xin vắng mặt, rồi quay trở lại phòng làm việc của mình.
Patience và Rowe đi lang thang trong khuôn viên rộng lớn của Hamlet. Khi đi đến một khu vườn nhỏ dễ thương, họ thả mình trên bãi cỏ. Quacey nhìn họ chăm chú, cười khúc khích và biến mất ngay sau đó.
Chim hót và mùi cỏ thơm mát ngọt ngào. Không ai nói gì. Rowe nằm xuống, quay sang ngắm nhìn gương mặt người bạn đồng hành của mình. Mặt cô đang đỏ lên dưới ánh mặt trời hay cô đang xấu hổ, thân hình mảnh khảnh đang duỗi ra thoải mái, phô bày những đường cong khỏe mạnh. Đối với Rowe, người đang nhìn cô hết sức háo hức và tò mò, cô thật vừa hấp dẫn nhưng vừa xa cách. Đôi mắt cô nhắm chặt và một nếp nhăn nhỏ giữa hai hàng lông mày như ngăn cản bất kì ai muốn trêu đùa hay tán tỉnh cô.
Rowe thở dài: “Em đang làm gì vậy, Pat? Vì Chúa, đừng nhăn nhó như vậy chứ! Anh muốn người phụ nữ của anh thật vô tư!
“Em nhăn nhó ư?” cô thì thầm, mở mắt và mỉm cười với anh. “Anh cứ như một đứa trẻ vậy, Gordon ạ. Em đang suy nghĩ mà.”
“Anh đoán là anh sắp phải chịu đựng một cô vợ thông minh,” chàng trai trẻ nói một cách khô khan. “Vấn đề là, em cũng vậy - nên chúng ta có đôi.”
“Vợ ư? Điều đó không vui chút nào đâu! Em đang nghĩ rằng ngôi nhà của Tiến sĩ Ales tối qua đã bị đột nhập không chỉ bởi một mà hai người.”
“À,” Rowe nói, nằm ngửa ra và ngắt một ngọn cỏ. Cô ngồi dậy, mắt sáng lên. “Anh cũng nghĩ thế à, Gordon? Một người là chủ nhân của chiếc rìu. Hiện trạng của ngôi nhà cho ta thấy rằng hắn ta đang tìm kiếm thứ gì đó nhưng không biết chính xác nó ở đâu - và đã tìm nó một cách tuyệt vọng - phá hủy mọi mọi đồ đạc bằng rìu. Điều quan trọng là đấy không phải Tiến sĩ Ales.”
Rowe ngáp “Dĩ nhiên rồi. Nếu đó là Tiến sĩ Ales thì ông ta phải biết rõ đồ vật của mình nằm chỗ nào - chắc chắn Ales là người đã tạo ra khoang tường để giấu nó.” Rowe lại ngáp. “Thế còn người thứ hai?”
“Đừng có tỏ ra chán nản như thế,” Patience cười lớn. “Anh biết rằng anh đã nghĩ rất kĩ… Em cũng không biết nữa. Anh đúng về lý do. Tên đột nhập là một ẩn số; Tiến sĩ Ales sẽ không cần phải chém nát nơi ấy để nhóm lửa - ông ấy chắc chắn biết nơi cất giấu thứ mà tên đột nhập đang tìm kiếm. Tuy nhiên, thứ hắn đang truy lùng lại được tìm thấy rồi - chúng ta đã nhìn thấy những ngăn kéo bí mật được mở ra bởi ai đó.”
“Điều đó khiến em nghĩ rằng có hai người ở trong ngôi nhà đêm qua à? Tại sao không phải là chính kẻ đột nhập - cái từ rắc rối chết tiệt! - đã tự tìm thấy cái ngăn ấy, sau khi hắn ta xong việc với cái rìu?”
“Ồ, thông minh đấy,” Patience cướp lời, “đầu tiên là chúng ta đã thấy cái ngăn đó được giấu rất khôn ngoan. Thực tế là Bolling đã biết rằng cái ngăn ấy ở đó khi nhìn vào cánh cửa mở khiến ông ta tìm được hoa văn hoa hồng. Với một cánh cửa đóng và cả bức tường trống trơn như thế, chỉ có một phần triệu cơ hội cho người tìm kiếm có thể tìm ra đúng cơ quan, đúng cái hoa văn ấy, rồi phải xoay nó hai lần, như Bolling đã làm để mở cửa. Nói cách khác, cái ngăn này không thể nào bị tìm thấy một cách tình cờ được. Nếu như kẻ đột nhập biết được cái hoa văn và ngăn rỗng ấy thì hắn ta cần gì phải tìm kiếm nữa. Vậy nên em mới nói kẻ đột nhập không phải người đã xoay hoa văn, mở ngăn rỗng, lấy thứ ở trong đó đi và để cửa mở. Nếu không phải kẻ đột nhập thì đó chắc chắn là người khác, và do đó có hai người, anh thân yêu ạ. Q.E.D * ”
“Đúng là một quý cô thám tử,” Rowe vui sướng. “Pat, em đúng là một viên ngọc quý. Việc này thật vô cùng hợp lý. Và cũng có một kết luận khác nữa. Khi nào thì tên còn lại, nếu như hắn có thật, tìm thấy cái ngăn ấy? Hắn ta tới trước hay sau tên đột nhập?”
“Dĩ nhiên là sau rồi, thưa thầy. Nếu như người mở ngăn kéo tới trước, rồi sau đó mới là kẻ đột nhập, thì hắn hẳn phải thấy cánh cửa ngăn này đang mở và do đó hắn cũng biết luôn nơi cất giấu. Kết quả là: hắn chẳng cần phải xẻ căn nhà ra từng mảnh để tìm nơi cất giấu… Gordon ạ, kẻ đột nhập đến trước, cũng như hắn ta là người đã giam cầm Maxwell và trói lão trong gara. Và tiếp theo người thứ hai đến, cái gì xảy ra sau đó chỉ có Chúa mới biết được.”
Họ yên lặng một lúc lâu. Cả hai cùng nằm trên bãi cỏ, ngước nhìn lên bầu trời mây bay lưa thưa. Rowe cầm lấy bàn tay cô. Nó vẫn ở đó, cô đã không rút tay lại.
Sau bữa tối sớm, cả ba trở lại thư phòng của Lane, một căn phòng kiểu Anh cổ với mùi da thuộc, mùi sách và mùi gỗ cháy. Patience ngồi xuống cái ghế của ông lão, xé một mẩu giấy và bắt đầu vẽ nguệch ngoạc. Lane và Rowe cùng ngồi trước bàn làm việc, thư giãn trong ánh đèn mờ mờ trên bàn giấy.
“Bác biết không,” Patience chợt nói, “trước khi ngủ, cháu thường viết ra một vài thứ… ừm, khiến cháu quan tâm. Chúng thường là những bí ẩn nhất định. Một số làm phiền cháu đến chết.”
“Thật hả?” Lane thì thầm. “Con ta, con có một sự quyết tâm đáng kể so với một người phụ nữ đấy.”
“Bác à, đấy là đức tính nổi bật nhất của cháu. Cháu sẽ đọc những ghi chép của mình nhé?” Cô ấy lôi một cuộn giấy dài ra khỏi túi và bắt đầu mở nó ra. Cô bắt đầu đọc bằng một giọng rõ ràng:
_(1): Chính Tiến sĩ Ales đã bỏ cái phong bì dán kín cùng với các kí hiệu trong nó ở chỗ chúng ta - bằng chứng, bộ râu và cặp kính được tìm thấy trong tủ quần áo; bằng chứng, ông ấy là “một người mê sách bị mất tích”. Chính Tiến sĩ Ales đã cử Villa đi ăn trộm cuốn Jaggard năm 1599 trong nhà Saxon. Chính Tiến sĩ Ales đã tham gia vào đoàn người đi xe buýt và đột nhập căn phòng chứa cuốn Jaggard ở Britannic - lời thú tội của Villa đã chỉ ra vậy, và điều này được chứng minh bằng việc tìm thấy chiếc mũ xanh và bộ râu giả màu xám tại phòng ngủ của Ales. Nhưng ai là Tiến sĩ Ales? Liệu đó có phải là Hamnet Sedlar, như Crabbe và Villa khẳng định, hay là một ai đó hoàn toàn khác? Lẽ nào đã có sự nhầm lẫn ở đây?
(2): Ai là người được biết đến với cái tên Hamnet Sedlar? Có một Hamnet Sedlar mà chúng ta biết ở Scotland Yard và sự thực là một người như thế đã được thuê làm người quản lý mới của Bảo tàng Britannic. Nhưng liệu người đàn ông xuất hiện ở Britannic và tự xưng là Hamnet Sedlar có thực sự là Hamnet Sedlar, hay là ai khác đóng giả làm Hamnet Sedlar, như bố đã nghĩ? Ông ta hẳn có động cơ mờ ám; ông ta nói dối về ngày mình đến. Hamnet Sedlar thực sự đã chết chăng? Có phải người đàn ông này đã thế chỗ và cướp tên của ngài ấy? Đâu là động cơ cho việc nói dối về ngày ông ta đến? Ông ta đã làm gì trong thời gian giữa ngày thực sự đến và ngày ông giả bộ đến trình diện?_
“Phù,” Rowe nói, “đúng là cách suy luận sắc sảo!” Patience lườm anh và tiếp tục:
_(3): Nếu Hamnet Sedlar không phải Tiến sĩ Ales, thì điều gì đã xảy ra với Tiến sĩ Ales? Tại sao ông ta lại biến mất?
(4): Điều gì đã thực sự xảy ra với Donoghue?
(5): Ai đã ngăn cản Gordon và tôi rồi lấy cắp chiếc phong bì?
(6): Ai là kẻ đột nhập? Đó không phải là Tiến sĩ Ales, mà là một người khác.
(7): Ai là người đã theo sau kẻ đột nhập và mở cái ngăn chứa? Đó có thể là chính Tiến sĩ Ales - bởi ông ta biết bí mật nơi ông ta cất giấu._
“Một điểm nữa, Patience.” Lane nói. “Làm sao cháu biết chủ nhân của cây rìu không phải Tiến sĩ Ales, hay hai người đàn ông trong nhà Ales tối hôm qua?” Patience giải thích lại. Lane nhìn chằm chằm vào môi cô, gật gù. “Đúng, đúng,” ông thì thầm khi cô ấy nói xong. “Thật phi thường. Phải không, Gordon? Và hoàn toàn đúng… Đó là tất cả à?”
“Không, còn một điểm nữa,” Patience nói tiếp, nhăn mặt, “đây cũng là điểm quan trọng và khó hiểu nhất.” Cô tiếp tục:
(8): Những điều bí ẩn khó hiểu này xoay quanh điều gì? Không nghi ngờ gì đó chính là ‘bí mật đáng giá hàng triệu bảng’ mà Tiến sĩ Ales đã nhắc đến. Nhưng cái bí mật triệu đô ấy được gắn liền với kí hiệu Ales để lại cùng với những thứ bố đang giữ. Vì thế mọi thứ phụ thuộc vào câu hỏi cuối: Cái kí hiệu này có ý nghĩa gì?
Cô đặt tờ giấy xuống mặt bàn và lại bắt đầu vẽ nguệch ngoạc. Không ai nói gì vào thời điểm này. Rowe nhìn lơ đãng vào sự di chuyển nơi đầu bút Patience, ngồi thẳng dậy và hơi nhổm lên khỏi chiếc ghế. Patience và Lane nhìn anh ta một cách nghiêm túc.
“Em đang vẽ cái gì đấy?” Chàng trai hỏi.
“Gì cơ?” Patience nháy mắt. “Cái ký tự bí ẩn ấy. 3HS wM.”
“Ơ-rê-ka!” Rowe gào lên. Anh nhảy cẫng lên, đôi mắt sáng rực. “Anh hiểu rồi, anh hiểu rồi! Tuyệt vời thật, nó dễ như trò trẻ con.”
Ngài Drury Lane đứng dậy và bước đến cạnh bàn. Khuôn mặt ông ló ra khỏi bóng tối, với những nếp nhăn như hằn sâu thêm. “Cuối cùng cậu cũng tìm ra nó,” ông thì thầm. “Ta thấy nó, ta biết nó, cái ngày chúng ta ngồi trong văn phòng của bố con, Patience, khi ông ấy mở ra tờ giấy nhớ gốc của thư viện Saxon và tiết lộ những gì được viết trong đó. Nói với con bé đi, Gordon.”
“Thật chẳng hiểu hai người nói cái gì,” Patience phàn nàn.
“Anh đã ngồi thế nào khi em vẽ các biểu tượng xuống?” Rowe nói.
“Trước cái bàn, đối diện em.”
“Chính xác! Nói cách khác, anh nhìn thấy những chữ cái của kí hiệu giống hệt khi ông Lane nhìn chúng lúc ông ấy đứng đối diện bố em qua cái bàn khi ngài thanh tra mở tờ giấy. Anh nhìn nó ngược với em.”
Patience thét lên. Cô chộp lấy tờ giấy và xoay ngược nó lại. Kí hiệu ấy bây giờ được đọc là: Wm SHε . ⬕
Cô nhắc lại chậm rãi: “ Wm SHe ,” nghiền ngẫm từng từ như đang nếm thử hương vị của chúng. “Nó… nó trông như một từ viết tắt “W - m… William…” Hai người đàn ông nhìn cô chăm chú.
“ William Shakespeare ,” Cô kêu lên, hai chân nhún nhẩy. “ William Shakespeare !”
Một lúc sau, Patience ngồi xuống tấm thảm dưới chân ông già; những ngón tay dài, trắng của ông chơi đùa các lọn tóc của cô. Rowe ngồi sụp xuống đối diện họ.
“Ta đã hết sức đau đầu kể từ ngày hôm đó.” Lane mệt mỏi giải thích. “Có vẻ mọi việc đã khá rõ ràng từ những gì chúng ta phân tích. Tiến sĩ Ales đã không sao chép bản sao chữ kí của Shakespeere, một bản sao của bản thảo thời Elizabeth với những dấu hiệu tuyệt vời khiến mọi thứ rõ ràng hơn - những chữ cái in hoa này chính là chữ kí đặc biệt của Shakespeare. Điểm đặc biệt chính là chữ m viết thường và chữ e. Nhưng tại sao chữ H lại viết hoa? Có thể do Ales tự nhiên muốn vậy. Nó chẳng quan trọng.”
“Điều quan trọng ở đây,” Rowe lẩm bẩm, “là một biến thể chữ kí của Shakespeare. Thật kì lạ!”
Lane thở dài. “Bởi vì cậu biết nhiều hơn ta, Gordon, chỉ có sáu chữ kí thật của Shakespeare là còn tồn tại.”
“Hãy nói về sự kì lạ,” chàng trai trẻ chỉ ra. “Một trong số chúng được viết là Willm Shak’p’ .”
“Đúng. Nhưng có hàng đống những chữ ký đáng ngờ, và một trong số đó được viết giống các kí tự của Ales - một chữ W in hoa, một chữ m nằm ngang phần đầu chữ w, sau đó là chữ S in hoa, chữ H in hoa, và một chữ e viết tay cũng nằm phía trên.”
“Như là lối tiếng Anh cổ khi viết chữ ‘ye’ à?” Patience hỏi.
“Chính xác. Cái chữ kí đáng ngờ này xuất hiện trong các phiên bản Aldine của tác phẩm Sự hóa thân của Ovid , tại thư viện Bodleian ở Oxford.”
“Tôi đã thấy nó khi còn ở Anh.” Chàng trai trẻ cướp lời.
“Tôi đã kiểm tra với thư viện Bodleian,” ông già tiếp tục. “Và cuốn Ovid vẫn ở đó. Tôi đã nghĩ, cậu hiểu không, có lẽ toàn bộ chuyện này đã cũng có liên quan đến tên cướp tập sách đó. Thật là lố bịch, tất nhiên rồi.” Patience cảm nhận những ngón tay của ông trên đầu cô. “Để tôi giải thích rõ hơn. Tiến sĩ Ales nói là bí mật đó đáng giá hàng triệu đô , nên ông ta đã để lại bản sao chữ kí của Shakespeare như chìa khóa cho bí mật này: vì thế chúng ta sẽ bắt đầu từ đây. Bây giờ mọi người đã biết bí mật là gì chưa?”
“Có phải ông muốn nói,” Patience hỏi bằng một giọng kinh sợ, “rằng tất cả những vụ trộm, những bí ẩn và mọi thứ đều xoay quanh cuộc tìm kiếm chữ kí thứ bảy của Shakespeare?”
“Trông có vẻ là vậy, đúng không?” Rowe cười một cách cay đắng. “Tôi đã phung phí tuổi trẻ của mình ở đây - ha, ha! - loạn lên vì những bản ghi chép từ thời Nữ hoàng Elizabeth, và chưa từng bắt gặp một dấu hiệu nào của sự phi thường như thế này.”
“Gì nữa?” Lane thì thầm. “Nếu bí mật đó thực sự đáng giá hàng triệu, thì Tiến sĩ Ales hẳn phải có lý do để tin rằng đây là bản gốc. Vì sao nó đáng giá hàng triệu? Quả là một câu hỏi hay.”
“Bản thân nó,” chàng trai trẻ nói khẽ, “là vô giá. Nó có giá trị lịch sử và văn học không thể đo nổi.”
“Đúng, chữ kí thật thứ bảy mới được phát hiện ra của Shakespeare thậm chí sẽ đem lại một cuộc đấu giá, và tôi đã đọc được ở đâu đó, khoảng một triệu hoặc hơn. Và tôi không biết chuyên gia của mình đang nói về đồng đôla hay bảng Anh nữa. Không có chữ kí nào tồn tại mà không có mục đích. Những chữ kì này thường đi liền với các văn bản.”
“Tờ giấy trong quyển sách!” Patience thét lên.
“Suỵt, Pat. Điều đó đúng, mặc dù không phải lúc nào cũng vậy.” Rowe phản bác lại. “Dĩ nhiên sáu chữ kí gốc đã được ghi chép lại: một đã được chứng nhận pháp lý trong một phiên tòa có liên quan đến ông ấy, một trong một vụ chuyển nhượng mua bán nhà ông ấy đã thực hiện vào năm 1612, một cái nữa trong một khoản vay bất động sản liên quan đến căn nhà trên, và ba chữ kí cuối cùng nằm ở ba bản di chúc của ông ấy. Nhưng nó cũng có thể nằm ở bìa trong của cuốn sách.”
”Ta nghĩ không phải, bởi Patience đã nhìn rồi.” Lane nói. “Liệu chữ kí thứ bảy này có xuất hiện trong một tài liệu nào đó, giấy chuyển nhượng hay hợp đồng cho thuê mà ngay bản thân nó chỉ có giá trị lịch sử rất nhỏ. Có thể lắm chứ.”
“Không nhỏ đâu.” Rowe bác lại. “Nếu nó là giấy chuyển nhượng hay hợp đồng cho thuê thì nó phải rất quan trọng. Nó sẽ cho thấy nơi Shakespeare ở vào thời điểm cụ thể - làm rõ mọi vấn đề.”
“Đúng, đúng. Nhưng ý ta nó là nhỏ so với độ quan tâm của mỗi người ấy. Nhưng giả sử nó ở trong một bức thư thì sao?” Lane chồm lên trước, ngón tay ông ấy xoắn tóc Patience mạnh đến nỗi khiến cô suýt hét lên. “Nghĩ về mọi khả năng đi! Một chữ kí dưới bức thư, bởi Shakespeare bất tử!”
“Tôi đang suy nghĩ!” Rowe cằn nhằn. “Thế thì gần như hơi nhiều. Bức thư sẽ gửi đến ai? Nó viết gì trong đó? Một thông điệp tự sự. Một bản viết tay của chính Shakespeare!”
“Rõ ràng điều đó hoàn toàn có khả năng.” Ông lão say mê nói tiếp. “Nếu nó xuất hiện ở cuối bức thư, bức thư này còn đáng giá hơn cả cái chữ kí. Chẳng ngạc nhiên khi các học giả lớn tuổi sẽ tức giận và không đồng tình. Nó giống như phát hiện ra bức thư của Thánh Pauls trên thiên đường!”
“Bức thư đó nằm trong cuốn Jaggard 1599.” Patience thì thầm quyết liệt. “Hiển nhiên Tiến sĩ Ales đã tìm kiếm hai bản sao của cuốn Jaggard 1599 và chẳng tìm thấy gì, và đã dồn hết sức để tìm ở cuốn thứ ba nằm trong bộ sưu tập của Saxon. Và ông ta đã làm thế. Có khả năng điều này sẻ xảy ra chứ…?”
“Có vẻ như là vậy” Rowe cười nhếch mép, “lão ta đã tìm ra, đồ chó may mắn.”
“Và giờ thì ai đó đã đánh cắp nó. Ôi, tôi cá rằng nó nằm trong cái hộc tại thư phòng của Tiến sĩ Ales.”
“Có vẻ thế.” Lane nói. “Còn một điều khác nữa. Tôi phát hiện ra bản thứ ba này, bị đánh cắp và đã quay trở lại, thực chất là do Samuel Saxon mua lại từ ngài John Humphrey Bond, nhà sưu tập người Anh.”
“Người đã giới thiệu Hamnet Sedlar với ngài Wyeth ư?” Patience thốt lên kinh ngạc.
“Chính xác.” Lane nhún vai. “Humphrey Bond đã chết; ông ta mới chết vài tuần trước. Không, không.” Ông nói với một nụ cười khi cả hai nhìn chằm chằm. “Đừng có hoảng hốt. Đây là một cái chết tự nhiên, nghĩa là không có ai khác dính líu đến cả. Ông ta đã tám mươi chín tuổi và chết bởi bệnh viêm phổi. Nhưng người của tôi ở bên kia đã đánh điện rằng cuốn Jaggard, được Saxon mua từ Humphrey Bond, chính là thứ đã gây ra tất cả những rắc rối này, thuộc về gia đình của Humphrey Bond từ thời Nữ hoàng Elizabeth. Ngài John là người cuối cùng trong gia đình - không còn người thừa kế khác.”
“Ông ta hẳn không biết rằng có một bức thư được giấu ở mặt sau cuốn Jaggard.” Rowe chỉ ra, “nếu không ông ta đã không bán cuốn sách.”
”Dĩ nhiên là không. Có khả năng là nhiều thế hệ trong gia đình Humphrey Bond đều không biết đến sự tồn tại của thứ tài liệu như thế trong cuốn sách.”
“Nhưng tại sao?” Patience thắc mắc. “Bức thư đã được dán vào đường viền trong suốt những năm qua à? Ai đã giấu nó ở đấy?”
“Đó là một câu hỏi,” Lane nói. “Ta nghĩ rằng nó đã ở đấy hàng thế kỷ; có thể nó được gửi cho một ai đó cùng thời, ai biết được? Nhưng sự thật là nó đã được cất giấu qua nhiều thập kỉ nên có thêm giá trị hoặc có liên quan chặt chẽ đến bản thân bức thư đó. Ta tin là vậy.”
Lão Quacey bước vào phòng. Gương mặt đầy nếp nhăn, và mỗi nếp nhăn như mang theo một tin xấu. Ông kéo tay áo của ông chủ. “Có người đàn ông tên Bolling,” ông ta phàn nàn, “cảnh sát từ Tarrytown, thưa ngài Drury.”
Lane nhăn mặt, “Caliban bất tử * ! Ông ta thông báo gì vậy?”
“Ông ta gọi điện đến. Ông ấy nhờ nhắn với ngài là khoảng một giờ trước,” đồng hồ đang chỉ bảy giờ, “ngôi nhà của Tiến sĩ Ales đã bị phá hủy bởi một vụ nổ bất ngờ”.