← Quay lại trang sách

Chương 29 Ảo Ảnh Thị Giác

Họ tìm thấy người đàn ông tự xưng là Hamnet Sedlar tại nơi làm việc cùng với Tiến sĩ Choate trong văn phòng của người quản lý bảo tàng. Viên quản lý trông có vẻ hơi giật mình khi họ bước vào; nhưng ông nhanh chóng bước ra phía trước với một nụ cười trên môi.

“Thật quá vinh dự,” ông nói với một nụ cười chân thành. Sau đó, nụ cười tắt dần khi ông nhìn thấy sự trang nghiêm trên nét mặt mọi người. “Tôi nghĩ rằng không có gì không ổn chứ?”

“Chúng tôi đều tin thế,” ngài thanh tra gầm gừ. “Tiến sĩ Choate, liệu ông có thể cho chúng tôi ngồi riêng với Tiến sĩ Sedlar một lúc không? Đây là một chuyện bí mật.”

“Bí mật?” Người cựu quản lý bảo tàng mới nhỏm người dậy, đứng yên và nhìn chằm chằm vào họ từ người này qua người khác. Sau đó, ông nhìn xuống và mò mẫm với mấy giấy tờ trên bàn. “À… tất nhiên.” Mặt ông đỏ dần, bắt đầu lan ra từ những sợi râu dê của ông. Ông đi vòng quanh bàn và nhanh chóng rời khỏi phòng. Tiến sĩ Sedlar không di chuyển, và trong khoảnh khắc không ai nói lời nào. Sau đó, Thumm gật đầu với Lane, và Lane bước về phía trước. Hơi thở nặng nề của ngài thanh tra là âm thanh duy nhất trong căn phòng.

“Tiến sĩ Sedlar,” Lane nói không chút biểu cảm, “điều này là cần thiết, vì lợi ích của - chúng tôi sẽ nói là nghiên cứu khoa học - để ông làm một thử nghiệm rất đơn giản… Patience, hãy đưa túi xách của cháu ra đây.”

“Một thử nghiệm ư?” Nét cau có xuất hiện trên khuôn mặt của vị tiến sĩ, và ông thọc tay sâu vào túi mình.

Patience nhanh chóng đưa cho Lane túi xách của mình. Ông mở nó ra, nhìn vào bên trong, lấy ra một chiếc khăn sặc sỡ, rồi đóng túi lại. “Bây giờ, thưa ngài,” ông khẽ nói, “xin vui lòng cho tôi biết chiếc khăn này có màu gì.”

Patience thở hổn hển, đôi mắt mở to như thể đột ngột hiểu ra điều gì đó. Những người khác chỉ nhìn chằm chằm một cách ngớ ngẩn.

Tiến sĩ Sedlar đỏ mặt. Sự kết hợp của nhiều thái cực cảm xúc dường như đang tranh đấu để hiện diện trên khuôn mặt cứng rắn của ông. Ông bước một bước lùi. “Đây là thứ rác rưởi ghê sợ nhất,” ông nói cay nghiệt. “Tôi có thể hỏi mục đích của trò trẻ con này là gì không?”

“Chắc chắn rồi,” Lane lẩm bẩm, “nhưng chẳng phải xác định màu sắc của một chiếc khăn vô tội không gây hại gì cho ông hay sao?”

Im lặng. Rồi, người đàn ông đến từ Anh trả lời, mà không quay người lại, bằng một giọng lạnh lẽo: “Xanh da trời.”

Chiếc khăn có màu xanh lá cây, vàng và trắng. “Thế còn chiếc cà vạt của anh Rowe đây, Tiến sĩ Sedlar?” Lane tiếp tục, không thay đổi nét mặt.

Ngài tiến sĩ cử động chậm chạp, đôi mắt của ông như thể bị tra tấn. “Nâu”.

Nó có màu xanh ngọc.

“Cảm ơn ông.” Lane trả lại chiếc khăn tay và túi cho Patience. “Ngài thanh tra, người đàn ông này không phải là Tiến sĩ Hamnet Sedlar. Ông ta là William Sedlar, đôi khi được gọi là Tiến sĩ Ales.”

Vị tiến sĩ người Anh đột nhiên ngồi sụp xuống ghế và vùi mặt vào hai lòng bàn tay.

“Bằng cách kì diệu nào * mà ông biết được?” Thumm thở hổn hển.

Lane thở dài. “Hết sức cơ bản, ngài thanh tra à. Ông thấy đấy, đây là Tiến sĩ Ales, hay William Sedlar, người đã đến thăm văn phòng của ông vào ngày mùng sáu, và gửi lại chiếc phong bì trong két sắt của ông. Người đàn ông này không thể là Hamnet Sedlar, như chính ông ta vừa chỉ ra; Hamnet Sedlar đã ở London vào ngày bảy tháng Năm để tham dự một bữa tiệc vinh danh mình. Bây giờ thì Tiến sĩ Ales, người đã mang đến chiếc phong bì dán kín, tất nhiên là người đàn ông đã viết ra các kí tự đó trong phong bì - đó là những điều ông ta thừa nhận với ông vào sáng hôm đó trong văn phòng. Tờ giấy và kí hiệu cho chúng ta thấy những gì?”

“À… à, chỉ là một… trời, tôi không biết,” ngài thanh tra nói.

“Tờ giấy,” Lane mệt mỏi giải thích, ”có màu xám trung tính, và dòng chữ đề tên Thư viện Saxon ở phía trên cùng của tờ giấy được in bằng mực màu xám sẫm. Điều đó, kết hợp với cách mà các kí tự được viết, tôi chợt nhận ra mọi thứ.”

“Ý ông là gì? Chúng ta đều nhìn nó sai cách, vậy thôi. Và nhờ may mắn ông đã nhìn nó theo đúng cách.”

“Chính xác. Nói cách khác, William Sedlar đã viết đúng các ký tự Wm SHe nhưng ngược chiều giấy! Vì vậy, khi đọc đúng các kí tự, phần tiêu đề lại ở phía dưới cùng của tờ giấy. Điều này là cực kì rõ ràng. Khi một người nhặt một mẩu giấy với ý định viết gì đó lên nó, theo bản năng anh ta sẽ dùng đúng chiều giấy, và viết xuống dưới sau tiêu đề ở đầu trang. Tuy nhiên, tác giả của những kí tự này đã nhặt lấy tờ giấy và lộn ngược lại! Tại sao?” Lane dừng lại, lấy chiếc khăn mùi soa ra, và thấm lên môi mình. Gã người Anh đã bỏ tay khỏi khuôn mặt của mình và bây giờ đang ngồi lún sâu vào ghế, nhìn chằm chằm một cách cay đắng xuống sàn.

“Cháu biết rồi,” Patience thở dài. “Trừ khi đó thuần túy là một sơ suất, hắn ta chỉ đơn giản là không thấy dòng chữ in đổ!”

“Đúng, cháu yêu, chính xác là như vậy. Mặc dù chuyện này mới nhìn qua là không thể. Hoàn toàn có thể xảy ra rằng, Tiến sĩ Ales đã quá vội vàng và đơn giản là viết các ký tự lên một tờ giấy lộn ngược, không để ý rằng những người đọc sau đó có thể đọc sai. Nhưng có một khả năng khác hợp lý hơn tồn tại, và ta đã không thể bỏ qua nó. Ta tự hỏi mình: Điều kì diệu nào đã khiến hiện tượng này, nếu đó là sự thật, có thể xảy ra? Tại sao Tiến sĩ Ales không thấy dòng chữ in đậm màu xám trên tờ giấy ghi chú của Saxon? Ông ta có mù không? Chuyện đó không cần bàn cãi; người đã đến thăm văn phòng của ngài thanh tra, có đầy đủ mọi bằng chứng chứng minh mình sở hữu thị lực tốt. Sau đó, tôi nhớ ra một điều, và tôi chợt nhìn thấy câu trả lời lóe lên… bộ râu.”

Tay tiến sĩ người Anh ngước đôi mắt đau đớn; có một sự tò mò thoáng qua. “Bộ râu ư?” gã lẩm bẩm.

“Ngài thấy không?” Lane mỉm cười. “Đến tận lúc này, ông ta vẫn không biết có gì sai với bộ râu giả mình đang đeo! Ông Sedlar, bộ râu ông chưng diện ngày hôm đó thật kinh khủng, một con quái vật thực thụ! Nó có sọc xanh da trời và xanh lá cây, có Chúa mới biết còn gì khác.”

Miệng Sedlar mở to; ông rên rỉ. “Chúa ơi. Tôi mua nó từ một người thợ may. Tôi nghĩ rằng mình đã không nói rõ ràng và gã đó đã nghĩ tôi muốn có một - một bộ râu hoạt họa để hóa trang, hoặc một cái gì đó điên điên kiểu vậy…”

“Thật không may,” Lane nói khô khốc. “Tuy nhiên, bộ râu và mảnh giấy ghi chú hoàn toàn phù hợp. Tôi đã cảm thấy có một khả năng lớn là người viết ra các kí tự đó bị mù màu hoàn toàn. Tôi đã nghe nói về trường hợp này và đã hỏi ý kiến bác sĩ riêng, bác sĩ Martini. Ông ấy nói với tôi rằng trường hợp mù màu hoàn toàn là rất hiếm; nhưng khi chúng xảy ra bệnh nhân sẽ nhìn các màu dưới những tông màu xám khác nhau, như một bản vẽ bút chì. Ông ấy đã nói rằng vì hoàn toàn mù màu, bệnh nhân không có nhận thức về màu sắc; trường hợp mù màu hoàn toàn này còn tệ hơn khi chữ in và màu của giấy giống hệt nhau, lúc đó chữ in sẽ gần như hoàn toàn vô hình. Khi bác sĩ Martini kiểm tra mẫu giấy ghi chú của thư viện Saxon, ông khá chắc chắn rằng những điều kiện quang học trong trường hợp này sẽ ảnh hưởng đến người viết các kí tự.”

Người Anh lắc đầu. “Tôi chưa bao giờ,” ông nói giọng khàn khàn, “nhìn thấy một màu nào hết.”

Tất cả đều im lặng một lúc. “Tiến sĩ Ales, do vậy,” Lane tiếp tục với một tiếng thở dài, “đã bị mù màu, trong thâm tâm tôi tin chắc vậy. Ông, thưa ông, vừa chứng minh rằng mình đang bị ảnh hưởng dưới các điều kiện tương tự; ông đã đoán bừa màu khăn tay cô Thumm và cà vạt của Rowe, mà không có khái niệm mờ nhạt nào về màu sắc thật sự của chúng. Bây giờ, ông tự xưng mình là Hamnet Sedlar. Nhưng Hamnet Sedlar không mù màu! Ngày đầu tiên tôi gặp ông ta, tại Phòng Saxon của bảo tàng này, ông đã xem qua chiếc hộp kính trưng bày mới được sửa lại chứa bản in Jaggard 1599 đã bị đánh cắp và đã nhận ra một cách rõ ràng và chính xác không chỉ những màu khác nhau trên lớp bọc sách; mà cả những sắc thái khác nhau của cùng một màu, bởi ông ta đã nói một cách hết sức chính xác màu nâu vàng, một nhận xét tinh tế không thể đến từ một người bị mù màu. Vì ông phải là một trong hai, hoặc William hoặc Hamnet, và bởi Hamnet có thị lực bình thường trong khi William bị mù màu, và ông bị mù màu, rõ ràng là ông phải là William. Đây là loại đơn giản nhất của phép tam đoạn luận. Tôi đề nghị thử nghiệm để xác định xem ông có nói dối hay không. Ông đã nói dối. Câu chuyện ông kể trong bệnh viện là giả mạo, mặc dù tôi nghi ngờ nhiều phần trong đó là sự thật. Bây giờ, xin ngài hãy kể cho những người bạn của tôi một câu chuyện hoàn chỉnh.”

Ông ngồi xuống ghế, lại lấy tay chấm nhẹ lên môi.

“Vâng,” vị tiến sĩ người Anh thấp giọng nói: “Tôi là William Sedlar.”

Lần đầu tiên đến gặp ngài thanh tra dưới danh nghĩa Tiến sĩ Ales, ông ta đã để lại các kí tự trong két sắt của ngài thanh tra như đầu mối nếu có bất cứ điều gì xảy ra với ông trong quá trình truy đuổi bức thư của Shakespeare - tại thời điểm đó ông nghĩ chuyện còn rất xa vời. Lý do khiến ông không gọi điện thoại vào ngày hai mươi tháng Năm là do đã xảy ra biến cố. Anh trai của ông là Hamnet, như William mới biết, đã nhận vị trí quản lý Bảo tàng Britannic cho mục đích duy nhất là, đến gần hơn với bản in Jaggard 1599. Hamnet đã bắt cóc ông vào buổi tối cùng ngày William đánh cắp bản in Jaggard từ bảo tàng. Chuyện diễn ra ngay sau chuyến thăm của Donoghue, và cùng trong đêm đó, Donoghue cũng đã bị bắt cóc, nhận thức về thời gian của anh chàng Ai len bị bẻ cong bởi chính anh cũng không biết mình bất tỉnh bao lâu… William không thể tham gia vào cuộc đua này, kể từ ngày ăn trộm tại bảo tàng cho đến tận ngày cảnh sát giải cứu ông khỏi cái lán biệt lập nơi ông bị giam giữ như một tù nhân!

Bất chấp tất cả những lời đe dọa từ Hamnet, William từ chối tiết lộ nơi cất giấu bức thư; Donoghue, tất nhiên, không biết chút gì về sự tồn tại của nó, không thể nói với Hamnet điều gì. Hamnet, mỗi lần đến phòng giam đều hết sức vội vã và gấp gáp, do vừa phải đến bảo tàng và duy trì một vẻ ngoài vô tội, cuối cùng đã trở nên tuyệt vọng. Vào một ngày, gã nói với William, rằng đằng nào thì bức thư cũng đang được cất trong nhà của Wìlliam, nên gã sẽ đặt một quả bom dưới hầm, khi nó sẽ phá hủy ngôi nhà cùng với bức thư luôn! - một quả bom tự tạo nhờ sự giúp đỡ của một tay chế bom nghiệp dư. Đến lúc đó, William mới nhận ra mục đích thực sự của anh trai mình là theo đuổi bức thư của Shakespear; không phải để lưu giữ mà là để phá hủy.”

“Nhưng tại sao?” Rowe gầm lên, hai tay nắm chặt. “Đó là… đó là sự phá hoại dã man nhất! Tại sao lại phá hủy nó, vì Chúa?”

“Ông ta bị điên à?” Patience kêu lên.

Đôi môi của vị tiến sĩ người Anh mím chặt; ông liếc nhanh qua phía Lane, nhưng ông lão chỉ nhìn lặng lẽ vào khoảng không. “Tôi không biết,” ông nói.

Hamnet đã đặt quả bom hẹn giờ phát nổ trong hai mươi bốn giờ. Nhận ra rằng nếu mình để quả bom phát nổ bức thư sẽ biến mất vĩnh viễn, William cuối cùng cũng đầu hàng, lý luận rằng dù muộn còn hơn không; ông có thể tự giải thoát chính mình và cứu lấy bức thư. Vì vậy, ông đã nói với Hamnet vị trí ngăn bí mật và cách mở nó. Tuy nhiên, ông đã không thể thoát ra được. Hamnet đã kêu lên hả hê rằng gã có ý định quay trở lại ngôi nhà của William và tự mình hủy nó đi; rồi hãy còn rất nhiều thời gian. Gã sẽ hủy kíp nổ của quả bom… Hamnet đã rời đi với chìa khóa của William, chìa gốc, và William không gặp gã nữa. Ông ta không biết gì về những chuyện đã xảy ra cho đến khi ông được giải cứu bởi các cảnh sát sau khi Donoghue trốn thoát. Trong bệnh viện, ông đọc báo và nghe phóng viên; đến lúc đó ông mới biết vụ nổ đã xảy ra và việc phát hiện trong đống đổ nát một thi thể được cho là của một trong hai anh em Sedlar. Ngay lập tức ông nhận ra mọi chuyện: trong khi Hamnet ở nhà tìm kiếm bức thư gã đã gặp tên đao phủ của mình, một người thứ ba cũng đang tìm kiếm bức thư, chính người thứ ba này đã giết Hamnet để chiếm quyền sở hữu bức thư, không biết gì về quả bom được cài dưới hầm rượu và đã bỏ đi với tờ giấy quý giá đó. Do Hamnet đã chết nên không ai biết về quả bom ngoại trừ William, người đang bị giam cầm bất lực trong nhà; vụ nổ xảy ra đúng như kế hoạch, phá hủy ngôi nhà.

“Tôi ngay lập tức hiểu ra,” vị tiến sĩ phẫn nộ nói, “rằng vẫn có một người thứ ba đang thực sự sở hữu bức thư đó. Tôi đã hy sinh rất nhiều, rất nhiều năm cuộc đời theo đuổi bức thư đó… Tôi đã nghĩ rằng nó đã bị phá hủy, nhưng giờ đây tôi có thể chắc chắn rằng nó vẫn còn tồn tại, không hề hấn gì! Tôi phải bắt đầu lại một lần nữa, giải quyết bí ẩn về kẻ đã giết anh trai mình, và lấy lại bức thư. Việc thừa nhận bản thân mình là William Sedlar sẽ đặt dấu chấm hết cho kế hoạch này; tôi đang bị cảnh sát Bordeaux truy nã. Khi đó, tôi sẽ bị dẫn độ sang Pháp và phải đối mặt với hình phạt, bức thư hẳn sẽ rời xa tôi mãi mãi. Vì vậy, lợi dụng thực tế là cảnh sát đã không chắc chắn cái xác được tìm thấy trong đống đổ nát là của ai, và thực tế là anh trai và tôi nhìn khá giống nhau, ngay cả về giọng nói - tôi quyết định nhận mình là Hamnet. Tôi chắc rằng Tiến sĩ Choate đã nghi ngờ; tôi nhận thấy điều đó suốt cả tuần qua.”

Khi William nói xong, mọi người đã nhận ra kẻ truy đuổi Patience và Rowe trên đường đến lâu đài Hamlet chính Hamnet. Sau khi đi theo Lane và đọc bản điện tín Lane gửi cho Thumm yêu cầu mang tài liệu đó đến lâu đài Hamlet, hắn ta đã nghĩ rằng đó chính là bức thư quý giá.

Ngài thanh tra cáu kỉnh mím chặt môi, còn Patience nhìn có vẻ hết sức mệt mỏi. Rowe bước quanh, cau mày. Chỉ Lane ngồi lặng lẽ.

“Nghe đây,” cuối cùng Thumm nói. “Tôi sẽ cho ông biết ngay bây giờ rằng tôi không tin ông. Tôi sẵn sàng tin rằng ông là William, nhưng điều đó không chứng minh ông không phải là người đàn ông thứ hai đã bước vào nhà đêm đó! Tôi nghĩ rằng có khả năng là ông đang nói dối. Tôi nghĩ rằng không có gì chứng minh ông đã không thoát khỏi nơi anh trai ông giam giữ, bám theo ông ta đến ngôi nhà, và giết ông ta vì bức thư. Tôi khẳng định chuyện một người thứ ba giết Hamnet và đang cầm bức thư là chuyện nhảm nhí - tôi không tin rằng có một người thứ ba hay thế nào đó!”

William Sedlar nhợt nhạt dần. “Ồ, tôi nói…” ông bắt đầu bằng giọng sửng sốt.

“Không đâu, bố,” Patience nói mệt mỏi. “Bố đã sai về chuyện đó. Ông Sedlar không giết anh trai và con có thể chứng minh điều đó.”

“À,” Lane nói, mắt chớp chớp. “Con có thể ư, Patience?”

“Chúng ta biết bây giờ ông ta là William; bây giờ chúng ta cũng biết rằng người đàn ông đã chết là một trong hai anh em Sedlar nên người chết phải là Hamnet. Câu hỏi là: Hamnet là người đàn ông đầu tiên hay thứ hai đã đến ngôi nhà vào đêm xảy ra vụ giết người? Chúng ta biết rằng người đàn ông đầu tiên buộc phải lấy chìa khóa của Maxwell để quay trở lại nhà sau khi nhốt ông già trong nhà để xe. Người đàn ông đầu tiên này, do đó, đã không mang chìa khóa. Nhưng Hamnet Sedlar đã có chìa khóa khi hắn đến, do lấy từ em mình Wỉlliam, thứ sau đó chúng ta tìm thấy trên cái xác. Vậy Hamnet phải là vị khách thứ hai. Hamnet là người đến thứ hai, đã bị giết chết bởi người đầu tiên, do chỉ có hai người trong nhà theo tiếng chuông làm chứng của Maxwell. Vậy ai là người đến đầu tiên, người đàn ông đeo mặt nạ?” Môi Patience cử động đầy háo hức. “Chúng ta đã chứng minh từ lâu là người đàn ông đầu tiên là chủ của chiếc rìu, kẻ chặt chém. Sau đó, Hamnet đã bị giết bởi kẻ này. Liệu William có thể là kẻ đó không, như bố vừa nhìn thấy, thưa bố? Con nghĩ là không, vì không ai khác ngoài William biết về ngăn bí mật; ông ta không cần chém nát ngôi nhà thành từng mảnh vụn trong bất kỳ hoàn cảnh nào! Vì vậy, con nói rằng William Sedlar không phải là kẻ mang rìu, không ở căn nhà cả đêm đó, không giết chết anh trai của mình, và đã có một người đàn ông thứ ba trong trường hợp này, chủ nhân của chiếc rìu, người đàn ông không biết nơi cất bức thư, người đã giết Hamnet sau khi Hamnet lấy nó từ ngăn bí mật, người đàn ông đã đặt xác Hamnet xuống hầm và trốn thoát cùng bức thư!”

“Tuyệt hảo,” Rowe nói nhanh. “Nhưng hắn ta là ai?”

“Chúng ta sẽ phải bắt đầu lại từ đầu, em sợ là thế,” Patience nói, nhún vai. Cô đột nhiên im lặng, nhăn mày. Đột nhiên, cô thốt ra một tiếng kêu khô khốc và khuôn mặt cô trở nên trắng bệch, “Ồ!” cô nói, và chân cô có vẻ run run. Cô hơi loạng choạng, và Rowe ngay lập tức nhảy đến bên cạnh cô.

“Pat, vì Chúa. Có chuyện gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra?”

Ngài thanh tra gạt anh ngay sang một bên. “Patty, con thấy không ổn à, con yêu?”

Patience rên rỉ yếu ớt: “Con… Cảm giác thật kì lạ. Con… con thực sự nghĩ rằng mình đang bị bệnh… ” Giọng cô nhỏ dần. Cô loạng choạng và ngã vào cánh tay bố mình.

Lane và người đàn ông đến từ Anh bật dậy về phía trước. “Ngài thanh tra!” Lane nói gay gắt. “Con bé sẽ… coi kìa!”

Rowe lao về phía trước và kịp bắt lấy cô khi cô bắt đầu trượt xuống sàn.

Khi Thumm và Rowe rời đi cùng với Patience, cùng trên một chuyến taxi đến căn hộ của Thumm, Patience vẫn còn run rẩy. Drury Lane và William Sedlar nhìn nhau trong văn phòng của người quản lý.

“Hẳn là do sức nóng,” Sedlar lẩm bẩm. “Tội nghiệp cô gái.”

“Không nghi ngờ gì nữa,” Lane nói. Ông đứng lên, cao lớn như một cây thông tuyết phủ trên đỉnh; và đôi mắt như hai hố sâu không đáy, tối tăm và sâu hoắm.

Sedlar đột ngột rùng mình. “Tôi cho rằng đó là tất cả, hả? Nhiệm vụ đã kết thúc,” ông chua chát nói. “Tôi đã không quan tâm quá nhiều như thế nếu như…”

“Tôi hoàn toàn hiểu được cảm xúc của ông, ông Sedlar.”

“Vâng. Tôi cho rằng ngài sẽ giao tôi cho nhà chức trách…”

Lane nhìn ông ngạc nhiên. “Vì sao ông lại nghĩ thế? Tôi không phải là cảnh sát, thanh tra Thumm cũng không còn quan hệ với cảnh sát nữa. Chúng tôi chỉ là những người duy nhất biết chuyện này. Thực sự không có tội danh nào chống lại ông; đồ ăn trộm ông đã trả lại; ông cũng không phải là kẻ giết người.” Vị tiến sĩ nhìn chằm chằm vào Lane với một niềm hy vọng bùng lên trong đôi mắt hốc hác của mình. “Tôi không thể nói thay cho ngài thanh tra, nhưng với tư cách một trong những người bảo trợ của Bảo tàng Britannic, tôi đề nghị ông gửi đơn từ chức ngay đến James Wyeth và…”

Đôi vai gầy của người đàn ông rũ xuống. “Tôi hoàn toàn hiểu rõ. Nó có vẻ khó khăn… Tôi biết tôi phải làm gì, ông Lane.” Ông thở dài. “Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện này khi chúng ta tiến hành cuộc chiến trí tuệ trên các trang báo của tờ Stratford Quarterly.”

“Rằng nó sẽ dẫn tới một kết cục ấn tượng đến mức này?” Lane nhìn ông một lúc và sau đó càu nhàu không rõ tiếng. “Được rồi, một ngày tốt lành,” ông nói, và nhặt mũ cùng cây gậy của mình, bước ra khỏi phòng.

Dromio kiên nhẫn chờ đợi bên lề đường cùng chiếc xe. Ông già khó khăn chui vào xe, các khớp xương đau nhức. Xe chạy, ông nhắm mắt lại một lúc, đắm chìm trong suy tư rồi nhanh chóng ngủ thiếp đi.