Chương 30 Lời Giải Của Ngài Drury Lane
Ngài thanh tra không phải là một người đàn ông tinh tế; cảm xúc của ông là thô ráp và tự nhiên, giống như nước ép chảy ra từ một trái chanh vắt. Ông làm nhiệm vụ người cha với tâm trạng vừa hoang mang, vừa vui sướng vừa e dè. Càng sống cùng con gái, ông càng yêu cô hơn nhưng lại hiểu cô ít hơn. Cô luôn khiến ông đắm chìm trong cảm giác hỗn độn; người đàn ông khốn khổ không bao giờ thành công, dù ông có cố gắng đến mức nào, để dự đoán tâm trạng tiếp theo của cô hoặc hiểu rõ được tâm trạng bí ẩn gần đây nhất.
Trong sâu thẳm trái tim đầy sóng gió và đau khổ của mình, ông đã đột nhiên vui mừng khi trao cho Gordon Rowe nhiệm vụ làm yên lòng người phụ nữ trẻ hết sức khó hiểu đang mắc chứng rối loạn.
Và Gordon Rowe, người trước nay chỉ từng yêu mỗi sách, nhận ra với một tiếng rên tuyệt vọng rằng yêu một người phụ nữ nghĩa là thế nào.
Patience hãy còn là một câu đố, không phải để nắm bắt và cũng không thể giải quyết được. Khi hết nước mắt, cô lau mặt vào khăn tay của chàng trai, mỉm cười với anh, và lui về phòng mình. Dù đe dọa hay cầu xin cũng không làm cô lay chuyển. Cô khuyên Gordon Rowe đi về. Không, cô không muốn gặp bác sĩ. Đúng, cô hoàn toàn khỏe mạnh; chỉ hơi đau đầu. Không một lời đáp lại những tiếng rên ầm ĩ của ngài thanh tra. Gordon Rowe và ông bố vợ tương lai ủ rũ nhìn nhau, và sau đó Rowe đành miễn cưỡng bỏ đi.
Patience không xuất hiện trong bữa tối. Cô chỉ thốt ra một câu nghẹn ngào ‘chúc ngủ ngon’ mà không mở cửa phòng. Trong đêm, ngài thanh tra nhận thấy trái tim già nua của mình đang đập thình thịch kì lạ, ông trèo ra khỏi giường và đi sang phòng cô. Ông nghe thấy một tiếng thổn thức hoang dại. Ông giơ tay định gõ cửa nhưng rồi lại bỏ đi một cách bất lực. Ông trở lại giường và nhìn chằm chằm một cách cay đắng vào bức tường tối đen cho đến nửa đêm.
Đến buổi sáng, ông chăm chú nhìn vào phòng của cô; cô đang thiếp ngủ, những dấu nước mắt hãy còn trên má, mái tóc màu mật ong đang xõa trên gối. Cô hãy còn trăn trở, nghe được cả tiếng thở dài trong giấc ngủ; và ông vội vàng quay về với bữa sáng cô đơn và văn phòng của mình.
Ông bơ phờ, bước đi đầy mỏi mệt. Patience không xuất hiện ở văn phòng. Lúc bốn giờ ba mươi, ông buột miệng một câu rủa, nắm lấy chiếc mũ của mình, cho Brodie nghỉ đến hết ngày, và quay trở về căn hộ.
“Pat!” Ông lo lắng gọi từ tiền sảnh.
Ông nghe thấy tiếng động trong phòng của cô, và nhanh chóng băng qua phòng khách. Trong bộ đồ chỉnh tề, chiếc băng-đô màu đen cuốn gọn những lọn tóc, cô đang đứng ở cánh cửa phòng ngủ với dáng vẻ mệt mỏi.
”Con định đi ra ngoài à?” ông vội vàng tiến đến, hôn cô.
“Vâng, thưa bố.”
“Tại sao con đóng cửa lại như vậy?”
“Con đang…” Cô cắn môi. “Bố à, con đang đóng đồ.”
Ông ngạc nhiên. “Pat! Con yêu! Có chuyện gì thế? Con định đi đâu?”
Cô từ từ mở cửa phòng. Ngài thanh tra thấy một chiếc vali đặt trên giường của cô. “Con sẽ đi xa vài ngày,” cô nói bằng một giọng run rẩy. “Con… đó là việc rất quan trọng.”
“Nhưng cái…”
“Không, bố à.” Cô đóng sập vali lại và thắt dây đai. “Xin đừng hỏi con đi đâu hay tại sao. Hoặc bất cứ thứ gì. Làm ơn đi bố. Chỉ một vài ngày thôi. Con… Con muốn… “
Ngài thanh tra ngồi xuống một chiếc ghế trong phòng khách và nhìn cô chằm chằm. Cô vội lấy vali và chạy băng qua phòng. Sau đó, cô nhặt lấy túi xách với một tiếng kêu khe khẽ, chạy lại chỗ ông, quàng cánh tay lên cổ và hôn ông. Trước khi ông kịp bình tâm, cô đã biến mất.
Ông ngồi đó, yếu ớt, trong căn hộ trống rỗng, điếu xì gà ngậm trong miệng đã tắt và mũ hãy còn đội trên đầu. Tiếng sập cửa vang lên như sấm bên tai ông. Ông chậm chạp ngồi dựa vào ghế, bình tĩnh nghĩ về mọi chuyện. Càng nghĩ càng thấy khổ sở hơn. Cả đời đối phó với tội phạm và cảnh sát đã cho ông một cái nhìn sâu sắc, khôn ngoan nhất định vào bản chất con người. Khi ông không chỉ coi Patience là cô con gái bé bỏng, ông đánh giá cao sự đặc biệt trong hành động của cô. Con gái của ông là một phụ nữ mới trưởng thành. Nó không có các cơn giận dữ nữ tính hay những cơn bão cảm xúc thông thường. Sự kì lạ trong những hành động… Ông ngồi yên trong phòng tối nhiều giờ. Cho đến nửa đêm, ông đứng dậy, bật đèn, và pha cho mình một tách cà phê mạnh. Rồi ông cố gắng chợp mắt.
Hai ngày trôi qua thật chậm chạp đến đau đớn. Gordon Rowe tự làm cho cuộc sống mình trở nên khổ sở. Chàng trai đã gọi điện thoại, nhảy bổ vào văn phòng vào những giờ giấc quái quỷ, bám lấy ngài thanh tra với sự kiên trì dữ tợn của một con đỉa. Anh không thỏa mãn với lời giải thích càu nhàu của Thumm rằng Patience đã biến mất trong vài ngày qua để nghỉ ngơi .
“Vậy tại sao cô ấy không gọi cho tôi, hoặc để lại một lời nhắn, hoặc một cái gì đó?”
Thanh tra nhún vai. “Tôi không muốn làm tổn thương cảm xúc của cậu, chàng trai, nhưng cậu có là cái gì của nó đâu?”
Rowe đỏ mặt. “Cô ấy yêu tôi, chết tiệt!”
“Có vẻ như vậy hả, phải không?”
Nhưng khi sáu ngày trôi qua mà không vẫn không một lời nào, không một dấu hiệu dù là nhỏ nhất, từ Patience, ngài thanh tra sụp đổ hoàn toàn. Ông đã không còn sự cứng rắn thông thường và lần đầu tiên trong đời trải qua cảm giác hoảng sợ thực sự. Ông không thể che giấu được cảm xúc khi đi làm; ông liên tục đi quanh văn phòng với những bước chân chậm rãi; và cuối cùng vào ngày thứ sáu, ông không thể chịu đựng sự thống khổ thêm nữa. Ông nhặt lấy chiếc mũ của mình và rời khỏi tòa nhà. Patience không lái chiếc mui trần của mình; nó vẫn đứng đó trong nhà để xe công cộng gần căn hộ của Thumm. Ngài thanh tra bước từng bước mệt mỏi và hướng mũi giày về phía Westchester.
Ông thấy Drury Lane đang phơi nắng ở khu vườn nhỏ được cắt tỉa cẩn thận của lâu đài Hamlet; và ngay lập tức ông bị sốc trước vẻ ngoài của người nghệ sĩ. Lane trông già sọm đi chỉ sau một tuần. Da màu vàng sáp và nhăn nheo kinh khủng chẳng khác gì vỉa đá vôi; ông ngồi bọc trong một tấm chăn Ấn Độ, mặc dù trời nắng nóng, như thể ông đang rất lạnh. Cơ thể của ông dường như teo lại; chỉ một vài năm trước, người đàn ông này vẫn khỏe mạnh, tràn trề sức sống, điều này khiến Thumm phải rùng mình và ngồi xuống với đôi mắt trân trối.
“À, ngài thanh tra,” Lane nói bằng một giọng yếu ớt, gần như vỡ vụn. “Thật tốt khi ông đến đây… Tôi cho rằng ông đang phát hoảng bởi vẻ ngoài của tôi?”
“Ờ, không, không,” ngài thanh tra vội nói. “Ông có vẻ ổn.”
Lane mỉm cười. “Ông nói dối tệ lắm, ông bạn à. Tôi nhìn như chín mươi và cảm thấy mình đã trăm tuổi. Mọi thứ đến hết sức đột ngột. Ông có nhớ Cyrano trong màn thứ năm đã ngồi dưới gốc cây? Không biết bao nhiêu lần tôi đã đóng cảnh đó, một tay cao bồi héo úa, nhưng dưới lớp da nhăn nheo đó là trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ! Còn bây giờ…” Ông nhắm mắt lại. “Martini đã công khai lo lắng. Những vị bác sĩ! Họ sẽ không nhận ra thực tế rằng tuổi già, như Seneca đã nói, là một căn bệnh không thể chữa trị.” Ông lại mở mắt ra. Sau đó, ông đột ngột nói: “Thumm, ông bạn của tôi! Có gì đã xảy ra? Có chuyện gì vậy?”
Ngài thanh tra vùi mặt vào hai bàn tay và rơm rớm nước mắt. “Đó… đó là Patty,” ông lẩm bẩm. “Nó đã biến mất - Lane, vì tình yêu của Chúa, ông phải giúp tôi tìm thấy nó!”
Ông lão nhìn có vẻ xanh xao kinh hãi. Ông chậm rãi nói: “Con bé biến mất?”
“Đúng. Ý tôi là không. Nó ra ngoài một mình.” Ngài thanh tra kể lại chuyện. Những nếp nhăn xuất hiện trên đôi mắt kiên định của Lane khi quan sát đôi môi của thanh tra. “Tôi không biết phải làm gì. Đó là lỗi của tôi. Tôi đang thấy những điều sẽ phải xảy ra,” Thumm khóc. “Con bé có một đầu mối, những điều chết tiệt đó đã đưa con bé vào một cuộc rượt đuổi hoang dã. Có thể rất nguy hiểm, Lane. Đã khoảng một tuần nay rồi. Có lẽ…” Ông ngập ngừng và dừng lại, không tìm được từ nào diễn đạt nỗi khiếp sợ mơ hồ trong tâm trí mình.
“Vậy ông có nghĩ rằng,” Lane thì thầm, “rằng con bé, bằng cách nào đó, đang gặp nguy hiểm vì quá gần với sự thật. Rằng nó đang theo dấu kẻ thứ ba, tên giết người. Rằng hắn có thể đã chạm trán con bé…”
Ngài thanh tra gật đầu ngớ ngẩn. Nắm tay xương xẩu lớn của ông đập thình thịch xuống chiếc ghế gỉ sét.
Hai người im lặng một lúc lâu. Một chú chim cổ đỏ đang đậu trên cành cây gần đó đột nhiên cất tiếng hót; vang phía sau họ là giọng nói cũ kĩ của Quacey đang lớn tiếng tranh cãi với một người làm vườn. Nhưng Lane không nghe thấy gì; ông đang ngồi mân mê những ngọn cỏ dưới chân mình. Rồi ông thở dài và đặt bàn tay gân guốc của mình lên tay Thumm, ngài thanh tra nhìn ông với chút hi vọng.
“Ông bạn cũ tội nghiệp của tôi. Tôi không thể nói ông biết tôi thấy thương cho ông đến mức nào. Patience… Shakespeare từng nói một câu rất hay: Hỡi những con quái vật tinh tế nhất! Liệu mấy ai hiểu nổi đàn bà ? Ông quá chân thực và thẳng tuột như con bò đực, bạn của tôi, nên không thể hiểu được những gì đã xảy ra với Patience. Phụ nữ có một năng lực vô tận là tra tấn cánh đàn ông bằng sự tinh tế của mình, mà hầu hết chính họ cũng không biết.” Đôi mắt hốc hác của Thumm nhìn ông chăm chăm. “Ông có mang bút chì và giấy theo không?”
“Bút chì… có, có đây!” ngài thanh tra vội vàng lục túi và lấy ra giấy bút! Ông quan sát người bạn của mình kĩ lưỡng. Lane viết một mạch, rồi nhìn lên.
“Hãy đưa nó lên cột tin nhắn của tất cả các tờ báo ở New York, ngài thanh tra,” ông khẽ nói. “Có lẽ… ai biết được? - nó sẽ có tác dụng.”
Thumm sửng sốt liếc xuống tờ giấy.
“Hãy thông báo cho tôi ngay khi có điều gì đó xảy ra.”
“Chắc chắn, chắc chắn rồi.” Giọng nói của ông vỡ vụn. “Cảm ơn rất nhiều, Lane.”
Một cơn đau làm ông lão nhăn nhó rồi ông lại nở một nụ cười hết sức lạ kì. “Không có gì.” Ông đưa tay ra. “Tạm biệt.”
“Tạm biệt.” Thumm lẩm bẩm, siết chặt Lane. Rồi Ngài thanh tra sải bước vội vã về phía xe của mình. Trước khi khởi động xe, ông đọc lại thông điệp Lane đã viết: Pat. Ta đã biết tất cả. Hãy trở về. D.L.
Ông thở dài nhẹ nhõm, cười toe toét, khởi động động cơ, vẫy tay và biến mất cùng một đám mây sỏi nhỏ và bụi đường. Lane đã đứng dậy và mỉm cười hết sức khác thường cho đến khi chiếc xe biến mất Sau đó, ông rùng mình một chút và ngồi xuống, một lần nữa quấn chặt hơn tấm chăn quanh người.
Buổi chiều hôm sau, ngồi đối diện nhau trong căn hộ là hai người đàn ông, một già một trẻ; cả hai đều hốc hác và đang nghiên cứu sàn nhà. Căn hộ mát mẻ và yên tĩnh. Chiếc gạt tàn đặt giữa hai người đã đầy đầu mẩu thuốc lá. Trên sàn nhà là một đống hỗn độn các tờ báo sáng.
“Ông có nghĩ rằng cô ấy sẽ…?” Gordon Rowe rên rỉ lần thứ hai mươi.
“Ta không biết, con trai.”
Sau đó họ nghe thấy tiếng lách cách của chìa khóa tra vào ổ. Họ đứng bật dậy và lao thẳng vào phòng chờ. Cánh cửa mở ra. Đó là Patience. Với một tiếng kêu nhỏ cô ngã vào vòng tay của ngài thanh tra. Rowe chờ đợi lặng lẽ. Không ai nói một lời. Ngài thanh tra vỗ về bằng những lời vô nghĩa, còn Patience thì khóc nức nở. Cô dường như vô cùng mệt mỏi, kiệt sức; khuôn mặt trắng bệch và đau đớn, như thể cô mới trải qua một nỗi đau tột cùng. Chiếc vali nằm chắn ngay trên bệ cửa, giữ cửa mở.
Patience ngước lên, mắt cô mở to.
“Gordon!”
“Pat.”
Ngài thanh tra quay người đi vào phòng khách.
“Pat, anh đã không bao giờ biết được, cho đến tận bây giờ…”
“Em hiểu, Gordon.”
“Anh yêu em, em yêu… Anh không thể chịu đựng thêm được nữa…”
“Ôi, Gordon.” Cô đặt tay lên vai anh. “Anh là chàng trai ngọt ngào nhất. Em thật ngu ngốc khi làm thế.” Anh ôm chầm lấy cô và chặt đến mức cô có thể thấy trái tim anh đang áp sát vào ngực mình. Họ đứng như vậy một lúc lâu, và sau đó họ hôn nhau.
Rồi không nói một lời nào, cả hai đi vào phòng khách.
Ngài thanh tra xoay người lại; ông đang nở một một nụ cười, và một điếu xì gà mới đang nhả khói từ miệng ông. “Làm hòa rồi hả?” ông cười khúc khích. “Thế là tốt, tốt quá rồi. Gordon, cậu bé của tôi, xin chúc mừng. Đến bây giờ, chết tiệt, chúng ta sẽ có khoảnh khắc bình yên…”
“Bố,” Patience thì thầm; ông dừng lại, niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt. Rowe nắm chặt bàn tay lạnh lẽo của cô; cô chỉ nắm lại yếu ớt. “Ông ấy đã biết tất cả mọi thứ? Thật không?”
“Tất cả mọi thứ? Ai… à, Lane! Đúng, đó là những gì ông ấy nói, Patty”. Ông bước về phía trước và đưa cánh tay dài như vượn của mình về phía cô. “Có khác biệt quái gì không? Vấn đề là con đã trở lại, và chuyện đó mới là tất cả với bố.”
Cô nhẹ nhàng đẩy ông ra. “Không. Có một cái gì đó…”
“Ông ấy nói với bố,” Thumm cau mày, “thông báo ngay cho ông ấy khi con quay trở lại. Có lẽ ta nên gọi điện thoại…”
“Ông ấy bảo vậy ư?” đôi mắt xanh của Patience trống rỗng như thể cô đang lên cơn sốt. Còn hai người đàn ông nhìn chằm chằm vào cô như nhìn một người mất trí. “Không, bố nghe này! Sẽ tốt hơn nếu chúng ta nói trực tiếp với ông ấy. Ôi, con thật là một con ngốc ngu dốt, nổi loạn, hay than vãn!” Cô đứng đó, cắn mạnh môi dưới rồi lao về phía tiền sảnh. “Ông ấy đang trong tình trạng nguy hiểm nhất!” Cô kêu lên. “Đi nào.”
“Nhưng, Pat…” Rowe phản ứng.
“Thôi nào, anh nghe này. Lẽ ra em phải biết… Ô, chúng ta có thể đến quá muộn!” Cô quay lại và chạy nhanh ra khỏi căn hộ. Rowe và Thumm cùng nhìn nhau, khuôn mặt của họ rối bời; hai người chỉ kịp lấy mũ rồi lao theo cô.
Mọi người nhảy vào chiếc mui trần và nổ máy. Rowe lái xe; và nếu như anh ta chỉ là một con mọt sách hiền lành dưới ngọn đèn thì sau vô-lăng lại là một tay đua. Trong một lúc lâu - cho đến khi họ đã thoát khỏi chỗ tắc đường - tất cả đều im lặng; Rowe hoàn toàn tập trung vào con đường trước mặt, mặt Patience trắng bệch, và trông mắt cô có vẻ nôn nao, còn thanh tra Thumm ngồi lặng lẽ như một bức tượng Nhân sư.
Khi thành phố bị bỏ lại phía sau, ông lên tiếng, “Nói cho ta nghe đi, Patty, rõ ràng Lane gặp rắc rối. Ta không hiểu ý con. Con nên nói với ta…”
“Vâng,” cô ngập ngừng. “Đó là lỗi của con… Thật không công bằng cho bố, bố à. Cả anh nữa, Gordon. Điều quan trọng là bây giờ cả hai cần phải biết. Gordon, anh phải nhanh hơn! Sẽ có chuyện xảy ra, bố à.”
Rowe mím chặt môi; chiếc mui trần lồng lên như một con thỏ đang bị truy đuổi.
“Điểm còn sót của vụ án,” Patience nói, mũi cô run run một cách khó hiểu, “nhưng hẳn mọi người đã phát hiện ra rồi chứ. Chúng ta đã kết luận rằng nạn nhân và kẻ sát nhân là anh em nhà Sedlar. Chúng ta đã nghĩ rằng người này đã giết người kia trong căn nhà đó. Nhưng sự thực không phải thế. Tuần trước - ở viện bảo tàng - giả thiết của chúng ta phải thay đổi. Chúng ta biết cái xác trong đống đổ nát là của Hamnet, William là người sống sót, và William không thể là bất cứ ai có mặt trong ngôi nhà đêm đó; hẳn mọi người cũng nhớ con đã chứng minh chuyện đó; do chiếc chìa khóa. Vì vậy, giả thuyết của chúng ta không đứng vững nữa; chúng ta biết nạn nhân là Hamnet Sedlar, nhưng chúng ta vẫn không biết người khách đầu tiên đã đến nhà đêm đó, người đã trói Maxwell, kẻ chặt phá… Con đã suy nghĩ kĩ lại, dò xét từng sự việc mà lúc mới nhìn con chưa hiểu được. Và ý nghĩ đó đến như một tia sét.”
Cô nhìn thẳng về con đường phía trước. “Danh tính vị khách đầu tiên bước vào nhà đã được xác định và vấn đề được giải quyết. Chuyện gì đã xảy ra? Sau khi bỏ lại Maxwell, bị trói và bịt miệng trong nhà để xe, người đàn ông này vào nhà bằng chìa khóa của Maxwell. Do khóa lò xo, cánh cửa tự động đóng lại. Gã lấy chiếc rìu từ hộp dụng cụ trong nhà bếp và tấn công phòng làm việc, nghĩ rằng đây là nơi có khả năng cất giấu thứ gã muốn tìm kiếm, nhưng cũng không hề biết nó có thể được giấu ở vị trí nào. Gã tìm trong những cuốn sách, rạch nát đồ nội thất, ván gỗ trên tường và sàn. Chính xác lúc nửa đêm, gã đã đập vỡ đồng hồ, có thể vì nghĩ rằng đây là nơi cất là thư. Lá thư không nằm trong phòng làm việc cũng như trong phần còn lại của tầng trệt. Vì vậy, gã đã đi lên lầu vào phòng ngủ của William Sedlar vì đây là nơi tiếp theo có khả năng nhất cất giấu bức thư.”
“Chúng ta đều biết tất cả những điều đó, Pat,” Thumm nói, nhìn cô kì lạ.
“Chờ chút bố… Chúng ta biết gã ở trong phòng ngủ lúc mười hai giờ hai tư từ chiếc đồng hồ bị đập vỡ. Và Hamnet đã bị giết trong ngôi nhà đó vào lúc mười hai giờ hai sáu, dựa vào chiếc đồng hồ đeo tay cũng bị đập vỡ. Vậy là chỉ hai phút sau khi kẻ cầm rìu phá vỡ chiếc đồng hồ trong phòng ngủ trên lầu. Câu hỏi là: Hamnet đã bước vào nhà khi nào? Hắn chắc chắn đã phải mở khóa cửa trước, bước vào phòng làm việc, nhìn thấy đống đổ nát ở đó, tìm đến ngăn giấu đồ bí mật phía trên kệ sách, lấy bức thư ra, leo xuống thang, có lẽ đã xem qua bức thư, sau đó gặp phải kẻ giết người, vật lộn, và rồi bị giết. Chắc chắn chuyện này phải kéo dài hơn hai phút! Do đó, chắc chắn rằng, Hamnet phải đi vào nhà trong khi kẻ giết người vẫn còn đang ở trong nhà. “
“À… ừm, sao nữa?” Thumm càu nhàu.
“Con sắp nói đến đó,” Patience nói một cách thẫn thờ. “William Sedlar cho chúng ta biết rằng Hamnet chính là kẻ muốn có lá thư để thiêu hủy nó. Vậy Hamnet sẽ làm gì khi có được nó? Lập tức thiêu hủy nó ngay. Bằng cách nào? À, dùng lửa là nhanh chóng và chắc chắn nhất. Hắn đánh diêm và bắt đầu đốt lá thư.” Cô thở dài. “Tất nhiên đó chỉ là giả thiết, và không chỉ ra được gì ngoài một điểm. Nó giải thích vết chém trên chiếc đồng hồ đeo tay và cổ tay của Hamnet. Khi Hamnet định đốt lá thư thì kẻ đột nhập đã ở trên lầu đi xuống và nhìn thấy, gã muốn cứu bức thư chứ không phải hủy nó đi. Gã muốn ngăn lá thư khỏi bị thiêu hủy. Vì vậy gã lập tức vung rìu đập vào tay Hamnet, khiến hắn đánh rơi cả que diêm và lá thư. Hamnet nhất định sẽ đánh trả; và trong lúc ẩu đả thì kẻ đột nhập đã bắn chết hắn. Có thể vụ ẩu đả đã xảy ra ở phòng làm việc, nơi kẻ đột nhập đánh rơi chiếc rìu, và dọc theo lối đi ra đại sảnh, nơi chúng ta tìm thấy những mảnh vỡ của chiếc kính mắt và cũng có thể là nơi Hamnet bị bắn chết… Kẻ đột nhập kéo xác Hamnet xuống hầm mà không biết rằng quả bom đã được cài trong đó, và mang bức thư đi trong trường hợp bức thư chưa bị thiêu trụi trước đó. Điểm mấu chốt trong vụ tấn công và ẩu đả chính là, gã đột nhập đó sẵn sàng làm bất cứ điều gì kể cả giết người để bảo vệ bức thư đó.”
Rowe tập trung lái chiếc xe lên con dốc dẫn vào lâu đài Hamlet; và Patience bỗng im bặt khi anh khéo léo lượn xe quanh khúc ngoặt. Sau đó, họ qua ngôi làng bao quanh tòa dinh thự; băng qua cây cầu nhỏ kì quái. Bánh xe lạo xạo trong đất sỏi.
”Anh vẫn không hiểu?” Rowe nhíu mày “Cho dù tất cả những điều đó là thật, thì những điều đó dẫn em đi tới đâu hả Pat? Em cũng vẫn không biết được danh tính của kẻ giết người.”
“Anh nghĩ thế à?” Patience kêu lên. Cô nhắm mắt lại nhăn nhó, tựa như đứa trẻ nuốt phải viên thuốc đắng vậy. “Em chắc chắn với anh là mọi thứ đều vô cùng rõ ràng! Nhân dạng của gã đàn ông đó - chính nhân dạng của hắn, Gordon ạ. Những điều xảy ra trong ngôi nhà đó đã phản bội hắn.”
Hai người đàn ông ngây ngô nhìn cô. Họ đang băng qua cánh cổng chính nằm cuối khúc cua ngoằn ngoèo. Quacey cùng vẻ ngoài quỷ quái với đống bướu trên vai xuất hiện giữa một bụi cây sơn mai hoa, nhìn chằm chằm rồi bật thành tràng cười vang dội, vẫy tay và bước ra con đường. Rowe dừng xe. “Quacey!” Patience bần thần gọi to. “Ngài Lane có… ổn không?”
“Xin chào, cô Thumm,” Quacey vui vẻ. “Hôm nay ông ấy khỏe hơn, cảm ơn cô. Trông hoạt bát hơn hẳn. Ngài thanh tra, tôi đang định đi gửi thư này cho ông.”
“Thư à ? Lạ nhỉ, đưa tôi xem nào.”
Quacey đưa cho ông chiếc một phong bì to hình vuông.
“Thư ư?” Patience mơ màng nói, ngồi xuống cạnh hai người đàn ông và ngước nhìn bầu trời trong xanh. Rồi cô thốt lên, “ơn Chúa, ngài ấy vẫn ổn.”
Viên thanh tra lặng lẽ đọc lá thư; và với một cái chau mày, ông hắng giọng:
ÔNG BẠN THÂN MẾN!
Tôi tin là Patience đã trở về có thể cùng với những kí ức đau đớn của cô bé. Tôi biết rằng lời nhắn của tôi sẽ mang cô bé trở về an toàn với ông. Trong khi mọi người chờ đợi, có lẽ ông sẽ không phiền bỏ một chút tâm trí để biết được lời giải đáp cho phi vụ bí hiểm mà ông đã gặp phải trong khi phá án.
Ngài thanh tra chắc còn bối rối, trong khi Patience và Gordon chắc hẳn đều đã nghi ngờ về điều này: tại sao một người hoàn toàn tỉnh táo, có trí tuệ và văn hóa như Hamnet Sedlar lại muốn phá hủy một kiệt tác viết tay quý hiếm, không gì có thể thay thế được, như một bức thư được viết bởi bàn tay bất tử của William Shakespeare? Tôi có thể nói cho ông biết câu trả lời mà tôi đã tự khám phá bằng cách của tôi.
Bức thư được viết cho tổ tiên của ngài John Humphrey Bond, một người bạn vô cùng thân thiết của nhà văn, ngoài ra nó còn viết rằng Shakespeare nghi ngờ là ông ấy đã bị đầu độc, một cách từ từ, thậm chí trong đó còn nêu cả tên nghi phạm đã bỏ thuốc độc… Điều đó thật kì lạ, vô cùng kì lạ. Kẻ bị Shakespeare cáo buộc đầu độc ông ấy tên là Hamnet Sedlar. Hamnet Sedlar, ngài thanh tra, người mà hai anh em Hamnet và William Sedlar chính là hậu duệ!
Thật kì lạ phải không? Giờ chúng ta đã hiểu được tại sao vị học giả này, một người đàn ông có văn hóa, một người sưu tầm đồ cổ nghiêm túc và say mê, một người Anh kiêu hãnh, lại có thể hành động trái với những bản năng khoa học, kiến thức được giáo dục, lại muốn phá hoại một trong những thứ có thể coi là di sản vô giá của nhân loại, tri thức của Shakespeare bất tử, thi nhân của Avon, người được Carlyle đánh giá là trí tuệ vĩ đại nhất và được Ben Johnson nhắc đến như người sống mãi qua các thế hệ, người đã được ngưỡng mộ trong suốt ba thế kỉ của tri thức nhân loại, đã bị mưu sát bởi chính tổ phụ của Hamnet Sedlar, người được xã hội coi trọng và cũng vinh dự mang chính cái tên đấy. Một số người sẽ cho rằng suy nghĩ của gã thật điên rồ, những người khác có thể không tin, nhưng niềm tự hào về tổ tiên, từ thời xa xưa, đã là một chứng bệnh không thể chữa khỏi, và nó sẽ tự thiêu rụi bản thân ông bằng ngọn lửa lạnh lẽo.
William đã không bị căn bệnh đó truyền nhiễm, đức tin khoa học của ông ta đã chiến thắng. Nhưng ông cũng đã quá vất vả trong cuộc sống, nên ông ta không muốn để lại bức thư cho con cháu mình mà để cho chính ông ta. Người đàn ông thứ ba, tham gia vào vụ án chính là kẻ thủ ác thật sự, kẻ đầu tiên và duy nhất dính đến vụ giết người, kẻ sẵn sàng đánh đổi mạng sống của con người để gìn giữ một tài liệu quý giá cho thế giới.
Hãy nói với Patience, Gordon, hay bất kể ai quan tâm rằng sự thật sẽ nhanh chóng được sáng tỏ, ông bạn của tôi, và họ không cần lo sợ về sự an toàn của bức thư nữa. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nó đang trên đường trở về Anh quốc nơi mà nó nên thuộc về, để trở thành tài sản hợp pháp của vương quốc Anh và thành di sản tinh thần cho thế giới; khi mà người chủ sở hữu cuối cùng của nó, ngài Humphrey Bond đã qua đời mà không có người nối dõi và những gia sản của ngài ấy sẽ được chuyển cho Hoàng gia. Nếu tôi có đóng góp nào vào việc bảo tồn lá thư này, thì thưa ngài thanh tra, tôi biết rằng những người bạn của tôi sẽ luôn nghĩ tốt về tôi. Và tôi mong muốn với sự ích kỉ cố hữu của con người, rằng cho dù tôi đã ở tuổi xế chiều thì tôi vẫn có thể giúp ích được gì đó cho nhân loại.
Patience và Gordon, nếu ta có thể được phép đưa ra một chút quan điểm cổ hủ về mối quan hệ mật thiết của hai cháu, thì ta nghĩ hai cháu sẽ hạnh phúc. Hai cháu có chung nhiều sở thích, đều là những thanh niên thông minh, và ta biết cả hai sẽ trân trọng nhau. Mong Chúa sẽ phù hộ cả hai. Và tôi cũng không quên ngài, ngài thanh tra thân mến. Tôi đã quá già cả và mệt mỏi cũng như không còn nhiều thời gian nữa… tôi sẽ ra đi rất nhanh chóng thôi; trong một chuyến đi dài, đó là động lực chính để tôi viết bức thư kì cục này. Và vì tôi không còn tham gia vào vụ án, và chưa kịp thông báo cho ngài, tôi sẽ tự nói với chính mình những lời tạm biệt trang trọng này:
Họ nói là ông ta đã ra đi một cách tốt đẹp, trả những món nợ của mình; và Chúa sẽ phù hộ ông ta. *
Hẹn ngày gặp lại…
DRURY LANE
Viên thanh tra nhăn cái mũi to của mình. “Tôi không thể hiểu nổi…”
Rowe nhanh chóng nhìn quanh. Nhưng khung cảnh thật tĩnh lặng; những ngọn tháp và chóp của lâu đài Hamlet lờ mờ nhô lên bình thản qua những ngọn cây. Patience nói với một giọng điệu kì lạ: “Ngài Lane đang ở đâu vậy, Quacey?”
Đôi mắt nhỏ của Quacey lấp lánh. “Sưởi nắng đâu đó trong khu vườn ở phía tây, thưa cô Thumm. Ông ấy chắc sẽ rất ngạc nhiên nếu thấy cô. Tôi đoán ông ấy không biết là mọi người đến.”
Hai người đàn ông rẽ vào khu vườn cùng Patience bước lên lối đi rải sỏi. Quacey thở dốc trên mỗi bước đi, họ bắt đầu băng qua vạt cỏ ẩm ướt dẫn đến khu vườn ở phía Tây.
“Mọi người thấy đấy.” Cô cố ý nói nhỏ đến mức mọi người phải căng tai lên nghe. “Kẻ đột nhập đã tự phản bội. Gã không phạm sai lầm nào, gã không biết mình đã mắc sai lầm. Định mệnh đã an bài cho gã. Định mệnh nằm trong chiếc đồng hồ báo thức rẻ tiền.”
“Đồng hồ báo thức ư?” viên thanh tra thì thầm.
“Khi chúng ta kiểm tra phòng làm việc, ta tìm thấy chiếc đồng hồ báo thức của Maxwell để trên lò sưởi, chúng ta thấy rằng chuông báo thức vẫn bật. Điều đó có nghĩa là gì? Tiếng chuông báo thức đã kêu vào giờ nó được định - mười hai giờ đêm, chính là đêm trước đó. Cái cần gạt vẫn chỉ vào nút Báo thức khi chúng ta khám xét căn phòng. Nếu chuông đã đặt tối hôm trước thì đồng hồ phải reo rồi. Nhưng điều gì khiến cho việc chuông báo thức reo lại quan trọng đến vậy? Đó là nếu nó reo, mà sau đó cần gạt vẫn ở chế độ báo thức thì hẳn là nó đã reo hết mấy hồi chuông. Khi chuông reo, người ta thường tắt chuông bằng cách gạt cần vào nút Im lặng, nếu không nó sẽ kêu đến hết chuông. Vậy nên đã không ai tắt nó đi; chuông báo thức đã kêu, kêu mãi cho đến khi nó tự dừng lại, lò xo báo thức bung ra và chết, trong khi cần gạt vẫn ở mức báo thức…”
“Nhưng điều quái quỷ đó nghĩa là gì hả, Patty?” Rowe gào lên.
“Tất cả mọi thứ. Chúng ta biết rằng kẻ đột nhập đã ở trong căn phòng chính xác vào lúc nửa đêm. Cho nên, gã đã ở trong phòng khi chuông báo thức kêu. Chúng ta biết điều này từ hai dữ kiện: Maxwell nói rằng ông ta giữ cho mọi chiếc đồng hồ chính xác và chiếc đồng hồ báo thức bị hỏng lúc mười hai giờ.”
Rowe lùi lại một chút, trầm ngâm. Nhìn anh có vẻ căng thẳng.
“Thôi được rồi, đến đây thì ta đã hiểu.” Viên thanh tra càu nhàu. “Tại sao gã cầm rìu của con không tắt chuông đi khi nó bắt đầu kêu? Nó chả khiến hắn phải giật bắn mình lên ấy chứ. Bất cứ kẻ nào đột nhập nhà người khác mà nghe thấy tiếng chuông reo hắn đã giật mình và tắt chuông đi, dù có ai khác ở nhà hay không.”
Họ dừng lại trước một cây sồi cổ và Patience im lặng nghe lời phản bác của bố cô. “Chính xác,” cô thì thầm. “Vấn đề là, dù gã ở trong căn phòng đó, dù nếu theo đúng bản năng gã phải tắt chuông báo thức đi, hắn đã không làm vậy.”
“Ồ, thật quá sức ta rồi,” Thumm nói khẽ. “Nào, nào đi thôi, Gordon,” và ông đi ngang qua rặng cây. Tất cả mọi người theo sau một cách chậm rãi. Không xa đó, phía dưới bức tường thấp có rặng thủy lạp, họ nhìn thấy bóng dáng lặng lẽ của Lane trên một chiếc ghế dài cũ kĩ, đang quay lưng lại.
Patience khẽ phát ra một âm thanh yếu ớt khiến viên thanh tra quay phắt lại. Rowe với ánh mắt chết chóc, liền bước đến đỡ cô.
“Chuyện gì vậy?” Viên thanh tra hỏi một cách chậm chạp.
“Bố, đợi đã.” Patience bật khóc. “Đợi đã, bố không hiểu, không thấy được vì sao kẻ đột nhập không phát hiện ra quả bom được hẹn giờ khi gã kéo xác Hamnet Sedlar xuống căn hầm? Tại sao gã rạch nát các bức tường trong phòng làm việc? Rõ ràng gã đi tìm một khoang giấu đồ sau tường. Vậy sao gã không làm theo cách thông thường? Gã chỉ rạch, cắt, chém, sao hắn không thử gõ tay lên ván ốp tường?”
Thumm lom lom nhìn hai đứa, thở khó nhọc, giọng căng thẳng. “Tại sao?”
Patience đặt bàn tay run rẩy lên cánh tay cơ bắp của Thumm. “Xin bố, trước khi chúng ta đến gặp Lane. Kẻ đột nhập đã không tắt chuông báo thức, không biết có bom gài trong căn hầm, gã đã không dò tường rỗng - đều cùng một lý do, bố ạ. Bố không thấy sao? Chuyện đó đã hạ gục con như một cú đấm trời giáng khiến con muốn bỏ chạy… Gã không thể nghe thấy tiếng chuông báo thức. Gã không thể nghe tiếng tích tắc của quả bom hẹn giờ. Gã cũng không thể nghe được tiếng lộp bộp nếu gõ vào bức tường rỗng, vì gã bị điếc.”
Mọi người chết lặng. Ngài thanh tra há hốc mồm như thể một tấm cửa sắt vừa sập xuống sàn; môt sự thật kinh hoàng bao trùm đôi mắt ông. Rowe đứng yên, cánh tay quàng qua Patience đang run rẩy. Quacey đột nhiên rít lên như một con vật đang kêu gào và đổ rạp xuống bãi cỏ.
Ngài thanh tra khó nhọc bước lên, chạm vào bờ vai yên lặng của Lane. Patience òa khóc và vùi mặt vào áo choàng của Rowe, khóc như thể trái tim cô đang vỡ vụn.
Đầu của ông lão gục xuống ngực, lặng yên như không cảm thấy bàn tay của Thumm.
Ngài thanh tra lập tức vòng ra trước chiếc ghế dài và nắm lấy bàn tay của Lane.
Nó đã lạnh ngắt, và một chiếc lọ rỗng rơi khỏi những ngón tay trắng toát của ông xuống thảm cỏ xanh mướt.
☆ ☆ ☆ ☆ ☆