← Quay lại trang sách

Chương 15

Tôi ngước mắt lên, sự thất vọng chuyển thành cáu kỉnh. “Anh nói…”

“Đừng có nổi tam bành lên như thế”. Anh ta đưa tay lật các trang giấy lên, và một tờ giấy rơi ra. Tôi vội chộp lấy.

Đó là tờ giấy màu trắng, không phải vàng, với những dòng chữ viết tay loằng ngoằng bằng mực màu xanh nhạt. Tôi nhắm mắt hình dung lại từng khoảng khắc như một đoạn phim quay chậm. “Nhưng đây là bức thư gốc”.

Anh ta cười cợt. “Tôi đã mượn”.

“Anh điên đấy à?” tôi thầm rít lên. “Houghton không phải là thư viện có mượn sách”. Harvard luôn rất nguyên tắc về những thư viện của mình. Vào một đêm trước khi nổ ra cuộc chiến tranh dành độc lập chừng mười năm, khi trường mới chỉ có một thư viện và nghiêm cấm cho mượn bất cứ cuốn sách nào, tàn lửa rơi ra từ một ngọn bấc đèn không được dập tắt hẳn, hoặc có thể tàn lửa từ than củi trong lò sưởi - không ai biết chính xác - đã bắt lửa vào một chồng giấy, hay một tấm rèm hoặc thảm trải sàn. Những gì người biết là cơn gió đông bắc thổi lồng lộng đã nhanh chóng quạt bùng ngọn lửa nhỏ đó thành một đám cháy lớn lan đi không sao kiểm soát được khắp thư viện cho tới khi cơn giống xuất hiện và trút xuống như thể quà chia tay đủ lượng nước lanh buốt vào đám cháy để dập tắt nó.

Dưới bầu trời xanh ngắt của buổi sáng lạnh cắt da, mục sư Edward Holyoke, hiệu trưởng trường, đứng yên lặng trong chiếc áo khoác rộng, hai tay chắp sau lưng, ngắm nhìn quang cảnh thảm họa với sự kiên nhẫn của Job: Chúa ban cho và Chúa lại mang đi; xin sáng danh người. Theo các truyền thuyết kể lại, đúng lúc đó một sinh viên tro xám bấm đầy trên người đã lội bì bõm qua mặt đất lầy lội vì tuyết tan đến an ủi người hiệu trưởng già bằng cách trả lại một cuốn sách anh ta đã lén mang ra khỏi thư viện tối hôm trước nhằm cố học gạo thêm một chút. Nhờ vào trò đùa bỡn cay độc đó của số phận, cuốn sách này là cuốn duy nhất còn lại từ toàn bộ số sách mà John Harvard để lại cho trường cùng với tên của mình từ một thế kỉ trước.

Không bị bắt buộc phải kiên nhẫn với anh chàng sinh viên nọ như với thử thách của Chúa, hiệu trưởng Holyoke đã nhận lại cuốn sách, cảm ơn cậu thanh niên rồi lập tức đuổi học cậu ta vì tội ăn cắp sách.

“Cô muốn tôi lấy lại nó đúng không?” Ben hỏi.

Nhìn chằm chằm vào anh ta, tôi lấy lại bức thư từ tay anh ta, hối hả lướt qua một lần ữa. Đọc đên đâu, tôi có cảm giác những dòng chữ sáng bừng lên như được viết bằng lửa. Một bản biến tấu tại Tân Thế Giới… phải, tôi đã đúng. Bắc Mỹ. Có thể là tại nước Mỹ. Nằm bên rìa nền văn minh nhân loại… vùng viễn tây, tôi thầm nghĩ, và cắn môi. Điều này cũng không giúp ích nhiều: miền viễn tây nước Mỹ là một khoảng không gian quá rộng.

Cố tìm kiếm manh mối, tôi thấy bức thư của Granville có vẻ như cố ý được viết một cách rất thận trọng, thậm chí khó hiểu. Nhưng nếu Roz đã có thể giải được mớ bòng bong này, thì tôi cũng có thể làm được.

Một trong các chàng trai. Người thích đánh bạc. Các khu trại ở đây. Nếu ông ta là cao bồi, lẽ nào ông ta lại không viết “ở bãi chăn thả” hay “ngoài vết đường mòn”, hay “ở trang trại” hay một câu đại loại như vậy? Không thể là “các khu trại ở đây”.

Trại nào? Tôi chợt nghĩ tới trại lính, nhưng chữ kí của Granville không kèm theo cấp bậc. Ông ta cũng không nói đến các sĩ quan, mệnh lệnh, vũ khí, kẻ địch, hay giao chiến. Và bức thư này cũng không giống một bức thư quân sự.

Những khu trại. Tôi nhắm mắt lại và mường tượng ra những khu lều bạt ngàn nằm dưới những rừng dương. Cuốc chim và xô. Những chiếc hố và những hầm lò. Những khu mỏ. Tôi mở mắt. “Ông ta ở miền Tây,” tôi nói. “Ở những khu trại của thợ mỏ”.

Nhưng trại nào? Những đợt đổ xô đi tìm vàng ban đầu, hay thời bùng nổ những mỏ bạc sau đó? California? Arizona? Alaska? Tôi nhìn lại lá thư. Đây rồi, ngay trên đầu. Không phải vàng lúc nào cũng lấp lánh , Granville đã viết như thế. “Vàng” tôi nói, chỉ tay vào câu đó.

“Cô nghĩ ông ta là một người đào vàng?”

“Tôi nghĩ ông ta đi tìm vàng, nhưng đã tìm thấy một thứ khác. Câu đó là một biến tấu của câu ngạn ngữ “ Không phải thứ gì lấp lánh cũng là vàng ”, một câu thoại xuất hiện trong vở kịch Người lái buôn thành Venice . Một biến tấu ngẫu nhiên, thậm chí vô thức. Điều này không quan trọng. Quan trọng là chúng ta biết Granville là người đào vàng, và ông ta biết khá rõ về Shakespeare”.

“Cô chắc chứ?” Ben hỏi. “Nghe có vẻ như qua cao xa so với một anh chàng đào vàng”.

“Không phải tất cả bọn họ đều là những kẻ mù chữ.” tôi đáp trả. “Một người cùng hội với anh ta đã tốt nghiệp Harvard. Hai ít nhất cũng là sinh viên của Child. Rất có thể học vấn của Granville cũng không kém anh chàng này là mấy. Mà dù anh ta có mù chữ đi chăng nữa, điều này cũng không quan trọng. Ở miền Tây thời đó Shakespeare cũng được ưa chuộng chẳng kém gì điện ảnh ngày nay - một thứ ngôn ngữ mọi người đều hiểu. Giống như những câu cửa miệng vậy. Khác biệt duy nhất là những người miền núi có thể đọc to toàn bộ Romeo và Juliet hay Lulius Caesar bên những đống lửa của họ. Những người chăn bò tự học đọc bằng cách lần mò đánh vần từng chữ những tác phẩm họ có. Và cả những diễn viên danh tiếng nhất thời ấy cũng sẵn sàng đáp tàu biển vòng qua ro Horn tới California, theo những đoàn xe vượt qua những con đường núi hiểm trở để đi diễn Hamlet tới tận những khu trai heo hút sát biên giới Canada, nơi những người đào vàng sẵn sàng ném cả cục vàng hay từng túi vàng bột lên sân khấu. Một diễn viên giỏi trong một tháng có thể kiếm được gấp mười lần những gì anh ta thu được trong suốt cả mùa diễn tại New York hay Lodon…”

“Được rồi, giáo sư.” - Ben lại bắt đầu.

“Đừng có…”

“Nếu cô không thích biệt danh này thì đừng có cư xử như thế nữa. Liệu tôi có cần chỉ ra cho cô thấy am hiểu Shakespeare cũng không làm cô viết được giống như ông ta không?” Cầm lấy lá thư, anh ta đọc lướt dọc theo những dòng chữ: “ ông có hiểu biết vô bờ . Cô thực sự cho rằng một ông già đãi vàng ở vùng vĩ tuyến 49 viết dòng này?”

“Làm sao anh biết ông ta đã già?” tôi hỏi. “Ngoài hình ảnh cũ rích của Hollywood về một ông già tập tễnh tóc hoa râm?” Càng nghĩ, tôi càng thấy chắc chắn hơn về giả thiết tác giả bức thư là một người đào vàng. “Ngoài ra, anh có ý kiến nào khá hơn không?”

“Tôi không biết ý tưởng của cô sẽ dẫn chúng ta tới đâu?”

“Tới Utah,” tôi nói.

“Utah? Không phải là nơi đầu tiên gợi lên trong đầu cô khi cô nghĩ về Shakeapeare. Hay nghĩ về vàng”.

“Anh chưa từng đến ngày hội Shakespeare ở Utah”. Tôi lướt những ngón tay dọc giá sách. “Anh nghĩ nhà hát Quả cầu trông thật khác thường giữa Lodon thời nay, thế thì hãy đợi đến khi anh nhìn thấy nó ở Cedar, ở vùng đất của những vách núi đỏ”.

“Cô đùa chắc”.

Tôi lắc đầu.

“Cô nghĩ ông ta đã từng biểu diễn ở đó?”

“Nhà hát mới được xây dựng những năm bảy mươi. Và như tôi đã nói với anh, tôi nghĩ rằng Granville đi tìm vàng. Tôi muốn tìm thứ khác kia: Văn khố Shakespeare của Utah”.

Văn khố là một cách gọi chưa thật chính xác. Đúng hơn đây là một nơi tra cứu dữ liệu theo kiểu cũ, với những tấm thẻ tra cứu chéo liệt kê tất cả tên vở diễn, buổi diễn, địa điểm, tên người, tên sự kiện, tất cả những gì ít nhiều liên quan tới Shakespeare diễn ra ở phía tây sống Mississippi. Nơi này có một bộ sưu tập các hiện vật nhỏ rất ấn tượng, nhưng những người khai phá miền Tây đã yêu mến Shakespeare ở mức độ tương ứng với sự bao la của miền đất họ tự coi có trách nhiệm chinh phục. Kết quả là nhiều thứ mang tên ông - các khu mỏ, thị trấn, hồ nước, thậm chí cả những con sông, ngọn núi - không thể nào gom lại được. Vậy là những gì không thể thu thập hay sao chụp lại, văn khố đều ghi lại trên các bản đồ.

“Bộ sưu tập nghiên cứu tư nhân ở Bắc Mỹ mà Roz thích tìm hiểu nhất”. Tôi cúi xuống liế nhìn những cuốn sách phê bình về Shakespeare ở tầng giá sách dưới. Tìm thấy cuốn sách mình cần, tôi rút nó ra đặt vào tay Ben. Bìa sách in một bức ảnh tô màu bằng tay của một nghệ sĩ mặc áo chẽn, đội mũ cao bồi, hai tay đang giữ chiếc sọ người trong một cảnh kinh điển của Hamlet , bức ảnh được in lồng vảo một bức ảnh hiện đại chụp bầu trời Montana. Tựa sách là Miền Viễn Tây hoang dã của Shakespeare . Tác giả Rosalind Howard.

“Cuốn sách mới nhất - cuối cùng, của bà ấy”, tôi nói. “Bà ấy đã nghiên cứu tìm tư liệu ở đó. Tôi là trợ lí cho bà, ít nhất cũng trong giai đoạn đầu. Trước khi chúng tôi chấm dứt cộng tác”.

Suốt một mùa hè, tôi đã lái xe hết dặm này qua dặm khác trên thảo nguyên, lên núi, qua những hẻm núi vì bà, tìm kiếm những câu chuyện nhiều triển vọng, những buổi diễn đã bị lãng quên từ lâu. Mùa hè đó đã thay đổi cuộc đời tôi, dù không phải theo chiều hướng Roz mong đợi. Đứng trên sân khấu phủ đầy bụi của một nhà hát cũ vàng son đã phai nhạt ở Leadville, Colorado - thị trấn một thời hưng thịnh giờ đã suy tàn - tôi đã nói những lời thoại của Juliet, thoạt tiên thì thầm, sau đó lớn dần, cho đến khi những lời thoại đó vang vọng trong bóng tối bao quanh tôi. Trong một khoảnh khắc như được soi sáng, tôi hiểu ra những tác phẩm của Shakespeare lúc sống động trên sân khấu khác khi chúng nằm im lìm trên những trang giấy đến thế nào. Đó là sự khác biệt giữa hiện thực nóng hổi với kí ức ngọt ngào còn vương lại, giữa cuộc sống sinh động với cái chết linh thiêng.

Mùa thu năm đó, khi các sinh viên theo học các lớp của tôi, nằm trong học phần lớn về Shakespeare do Roz phụ trách, yêu cầu tôi giúp họ dàn dựng Romeo và Juliet , tôi đã chớp ngay lấy cơ hội đó. Mùa xuân năm sau, tôi đã đồng ý đạo diễn cho họ trong vở Đêm thứ mười hai .

Tôi đã không bao giờ ngoảnh lại phía sau.

Tuy vậy, mùa hè năm ấy vẫn tỏa sáng trong kí ức tôi như một khu vườn địa đàng nay đã không còn. “ Tôi cần cô giúp ” Roz đã nói với tôi hai ngày trước, tại nhà hát Quả cầu. Lần này là vì những gì tôi biết. Nhưng trước đây bốn năm, bà cũng nói tương tự như vậy, lần đó là vì chính con người tôi. Giọng nói nhanh, cụt ngủn kiểu New England của Roz không giúp bà dành được thiện cảm của những người sống ở các trang trại cũng như cư dân của các thị trấn nhỏ miền Tây. Nếu tôi không hẳn là một đồng hương của họ, ít nhất tôi cũng biết những quy tắt ứng xử cơ bản ở đấy. Tôi thoải mái bắt chuyện, uống một cốc bia hau một li sữa và ăn vài chiếc bánh ngọt trước khi đưa ra câu hỏi và yêu cầu giúp đỡ. Và tôi cũng không sợ bẩn tay. Nếu ai có cần lùa đàn gia súc từ nguồn nước này sang nguồn nước khác, tôi có thể cưỡi ngựa đủ thành thạo để giúp một tay. kết quả là tôi có thể làm cho họ cởi mở với mình, trong khi với Roz rất có thể họ chỉ giữ thái độ im lặng nghi ngờ.

Vậy là tôi trở thành tai mắt cho bà trên thực địa, sục sạo khắp nơi để tìm ra các đầu mối. Trong khi đó, Roz sử dụng văn khố như đại bản doanh của bà, tập hợp xung quanh mình những bản danh sách được phân loại và xếp theo thứ tự ABC một cách chi tiết, nghiền ngẫm tất cả thông tin tôi gửi về. Đó là sự phân chia công việc phù hợp với cả hai chúng tôi. Kẻ trầm tư và kẻ lang thang, chúng tôi vẫn thường đùa như vậy.

Tôi nói thành tiếng: “Nếu Roz nghi ngờ Granville có gì đó liên quan tới Shakespeare ở miền Tây, văn khố về Shakespeare ở Utah chắc chắn là nơi đầu tiên bà đến kiểm tra. Chúng ta có thể lần theo dấu vết của bà - hay của Granville - từ nơi này”.

“Có thể.” Ben nhấn mạnh. Anh ta mở cuốn sách ra. “Ông ta có trong này không?”

“Tôi chưa từng đọc nó”.

Ben ngước nhìn lên lần nữa, lắc đầu, rồi lại cúi xuống cuốn sách. “Ông ta không có trong phần chỉ dẫn”.

“Có thể bà ấy đã giữ nhân vật này lại để sử dụng sau,” tôi nói. “Hoặc có thể bà tìm ra câu chuyện này sau khi cuốn sách đã được xuất bản”.

Anh ta gấp cuốn sách lại, “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô sai?”

“Chúng ta có thể cách dấu vết đó ba nghìn dặm và bị chậm hai ngày. Nhưng tôi không sai”.

An ta gật đầu. “Nếu cô đúng thì sao? Nếu chúng ta tìm ra thứ này, và cuối cùng đúng là thứ mà cô nghĩ, thì có giá trị gì?”

Tôi đưa một bàn tay lên lùa vào mái tóc. Tôi đã không nghĩ đến điều này. Có lẽ nhà Christie có thể trả lời, nhưng theo tôi biết, các nhà bán đấu giá định giá bằng cách so sánh. Mà về thứ Granville tuyên bố đã tìm thấy thì chẳng có gì để so sánh cả. Không một bản in nào khác của vở Cardenio , không bản thảo nào của một vở kịch được biết chắc là của Shakespeare, một bảo thảo do chính tay ông viết thì lại càng không có. Không có gì ngoài sáu chữ kí, tất cả đều thuộc quyền sở hữu của giới quan liêu chính phủ Anh, và chưa bao giờ xuất hiện trên sàn đấu giá.

Nếu một bản của cuốn Tuyển tập Đầu tiên - một trong khoảng hai trăm ba mươi bản in gốc - đã được trả giá tới sáu triệu đô la trong một cuộc đấu giá mấy năm trước đúng như Herry đã kể cho tôi, thì bản thảo duy nhất của một vở kịch đã mất sẽ đáng giá … bao nhiêu? Tôi lắc đầu. Đầu óc tôi chững lại khi vừa nghĩ tới một con số.

“Tôi không biết”, tôi nói. “Không ai biết. Nhưng bản thảo ấy sẽ không đáng giá gì hết trừ khi chúng ta tìm ra nó”.

“Có vẻ như đã có người đặt giá cho nó rồi.” Ben nói. “Một cái giá rất cao”.

Tôi do dự khi hiểu anh ta muốn ám chỉ điều gì. Giết người. Giá của một mạng người. Trong giây lát, tôi nhớ lại đôi mắt của Roz trừng trừng nhìn tôi từ phía dưới băng ghê trong nhà hát Quả cầu. Nhưng kẻ sát nhất đã không dừng lại ở đó. Một lần nữa, trang sách xé từ cuốn Tuyển tập lại hiện ra trong đầu tôi, bàn tay vẽ bằng mực xanh chỉ vào hàng chữ đẫm máu: Lavinia vào, lưỡi bị cắt, hai tay bị chặt cục, bị cưỡng bức …

“Cái giá đó chính là mạng sống của tôi” tôi khẽ nói.

“Vậy là chúng ta thống nhất về chuyện này.” Ben nói.

Bên ngoài, tiếng còi xe cảnh sát vang lên. Qua khung cửa trước, chúng tôi nhìn thấy ba chiếc xe tuần tra thiết lập trạm gác bên kia đường, chặn đường vào khu sân trường. Tôi bất giác gài tờ giấy vào giữa tập giấy vàng.

“Utah?” Ben nói. Lần này là câu hỏi vể điểm đến, không còn là sự nghi ngờ nữa.

Tôi gật đầu.

“Ở yên đây,” anh ta nói. “Tôi sẽ quay lại cùng taxi sau năm phút nữa”. Vừa bước ra cửa, anh ta vừa rút điện thoại di động ra.