Chương 14
Chiếc bút chì của tôi lăn khỏi bàn rơi xuống sàn nhà lát ván gỗ bần. Tôi nhao người theo chiếc bút, cúi gập người xuống, lưng quay ra cửa, đúng lúc thanh tra Sinclair ập vào cùng một bảo vệ, theo sau là hai người đàn ông mặc đồ sẫm màu. Đến bàn cho mượn tài liệu, hai người mặc đồ sẫm màu giơ thẻ ra. “Cục điều tra Liên bang,” một người khẽ nói với thủ thư. Tôi không nghe được phần còn lại. Liệu có phải họ tới đây vì tôi không?
Tôi cứng người lại, ghé mắt qua vai nhìn những nếp vải trên quần Sinclair. Người thủ thư từ sau bàn đi ra. “Xin đi theo lối này”, anh ta nói, và đám người đang đứng ở bàn mượn chính quay ra, đi về phía cuối phòng đọc vào hành lang có để các máy vi tính vả tủ đựng thẻ thư viện.
Tôi quay người lên nhìn Ben. “Cớm Anh,” tôi thì thào.
“Đi thôi”, Ben khẽ nói, mắt vẫn không rời cuốn sách đang đọc.
“Nhưng tôi mới chép lại được một nửa…”
“Tôi sẽ lo chuyện đó”.
“Tôi cần cả…”
“Đi ngay”.
Với lấy mảnh giấy của mình trên mặt bàn, tôi viết nguệch ngoạc Cửa hàng sách bên kia đại lộ Massachusetts, khu bày sách về Shakespeare . Đưa tờ giấy cho Ben, tôi đứng dậy đi nhanh ra cửa rồi lao vội ra ngoài.
Ở tiền sảnh, người bảo vệ còn lại đang ngồi dưới một quầng sáng vàng, chăm chú đọc tờ Boston Herald . Anh ta ngước mắt nhìn lên khi tôi đi qua chỗ mình với đôi chân run rẩy. Tôi giơ chiếc bút chì - vật duy nhất tôi mang theo - lên, và anh ta uể oải phẩy thay ra hiệu cho tôi đi qua.
Cố kìm bước chân mình lại, tôi bước qua phòng gửi đồ, lấy chiếc túi, rồi tới lối ra. Không khí nóng nực ẩm ướt ùa đến bao quanh tôi khi tôi đẩy cửa bước ra ngoài sân trường. Sau lưng tôi, cánh cửa có khóa điện tử dẫn vào phòng đọc lại reo lên lần nữa. Hoảng hốt ngoái lại nhìn, tôi đâm sầm vào ai đó trên bậc thềm thư viện.
Hai bàn tay chộp lấy hai vai tôi, giúp tôi định thần lại. “Kate Stanley!” một giọng nam cao cất lên. Trước mắt tôi xuất hiện một mái tóc vàng sẫm và cặp mắt xanh nằm dưới vành chiếc mũ Red Sox đã cũ sờn, và tôi nhận ra thân hình to bè bè của Matthew Morris, giáo sư còn lại của Harvard chuyên về Shakespeare. “Cô đang làm cái quái gì ở đây vậy?”
“Đi ra ngoài”. Khốn kiếp, khốn kiếp, khốn kiếp. Bây giờ không phải là lúc tán gẫu. Nhất là lại với ông ta.
Tôi cố dứt ra, nhưng ông ta giữ chặt lấy tay tôi. “Đã ba năm nay tôi không gặp cô, thế mà tất cả những gì tôi nhận được là việc cô bỏ đi mà không chào tôi lấy một lời sao? Thế thì tàn nhẫn quá”.
“Tôi nghĩ ông đang ở Washington. Tại Folger,” tôi nói, thầm cảm thấy bực bội.
Ông ta mặc quần jean và áo thun đỏ. Rất có thể vì xuất thân từ một gia đình trí thức nổi tiếng ở Boston, ông ta cố làm mọi cách để tránh trùng lặp với hình ảnh nhàm chán của một giáo sư Harvard chỉn chu điển hình. “Tôi đã ở đó, cho tới khi chuông điện thoại reo từ lúc chưa mờ đất sáng hôm nay. Có vẻ như chúng ta có một vụ gì đó khẩn cấp liên quan tới Shakespeare, và tôi bị gọi về với tư cách là chuyên gia của trường về chủ đề này”.
Không khí lạnh từ trong phả ra quanh chúng tôi khi cửa thư viện bật mở. Tôi ngập ngừng quay lại. Một phụ nữ to béo có mái tóc ngắn màu nâu gật đầu chào chúng tôi cộc lốc trong khi lao xuống bậc thềm, mang theo người cả một chồng sách và chiếc túi đựng máy tính căng phồng.
“Cô hơi giật mình đấy, Kate.”, Matthew quan sát tôi trong khi người phụ nữ đi qua.
“Một vụ khẩn cấp và Shakespeare?” tôi đáp trả.
Ông ta liếc mắt nhìn quanh rồi ghé sát tôi. “Về cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Sau đám cháy đêm qua, căn phòng trưng bày của Widener rải đầy những trang cháy dở và những mảnh vụn từ cuốn sách do Gutenberg in, nhưng đến lúc này họ vẫn chưa tìm ra dấu vết nào của cuốn Tuyển tập . Và chiếc giá giữ hai cuốn sách có vẻ đã bị phá”.
Không khí xung quanh tôi như đông cứng lại. “Ông nói gì cơ?”
“Có vẻ như cuốn Tuyển tập đã bị lấy đi trước khi quả bom phát nổ”.
Trong tâm tưởng tôi chợt thấy lóe lên một hình vuông nhỏ được ánh trăng soi sáng, một bàn tay viết nguệch ngoạc bằng mực xanh lên đó: Lavinia vào . Một trang sách xé ra từ cuốn Tuyển tập Đầu tiên .
“Còn cần thêm thời gian để biết chắc chắn,” Matthew nói thêm, “nhưng đó là một khả năng rất kích thích trí tò mò, vì dường như chuyện tương tự đã xảy ra ở nhà hát Quả cầu. Cô ở chứ? Trông cô trắng bệch như tờ giấy vậy”.
Tôi cố dứt ra khỏi ông ta. “Tôi phải đi”.
“Đợi đã”.
Tôi dừng bước dưới chân cầu thang.
“Mấy ngày gần đây với cô hẳn không vui vẻ gì”. Đôi mắt ông nheo lại quan tâm và hối hận. “Xem này. Tôi không biết lúc đầu tôi đã làm gì khiến cô hoảng sợ đến thế, nhưng hãy cho tôi cơ hội sửa chữa. Tại sao cô không đi uống chút gì đó cùng tôi nhỉ? Chúng ta có thể nâng cốc tưởng nhớ Roz”. Ông ta mỉm cười buồn bã. “Bà ấy là người đầu tiên đã nói mọi thứ ở đây không còn như trước kể từ lúc cô bỏ đi… Mà trông cô tuyệt lắm. Sân khẩu có vẻ phù hợp với cô đấy”.
“Matthew…”
“Cô sẽ không phải tự đi; tôi sẽ tới đón cô. Cô đang ở đâu vậy?”
“Tôi ở…” tôi ngập ngừng - “ở Inn at Harvard”.
“Hay lắm. Vậy thì ở câu lạc bộ Faculty nhé. Ngay bên kia đường đối diện Inn. Lúc năm giờ rưỡi”. Ông ta mở cửa ra vào thư viện, và một luồng không khí mát lạnh lại ào ra ngoài. Phía trong, tôi nghe thấy cửa vào phòng đọc lại kêu một lần nữa.
“Nhất trí”, tôi nói dối, rồi hấp tấp quay đi. Rảo bước nhanh nhất có thể suốt dọc chiều dài khu nhà, tôi vòng vào góc đường và cắm đầu chạy, lao qua lối đi có mái vòm trổ qua Wigglesworth Hall sang đại lộ Massachusetts, trong đầu không ngừng nghĩ tới tin Matthew vừa cho tôi biết.
Cuốn Tuyển tập biến mất. Không bị phá hủy. Chỉ biến mất.
Một chiếc xe bus lao vụt qua ngay sát sạt trước mặt tôi, phả một luồng khói xanh xám sặc mùi dầu diesel lên mái tóc đã bết lại vì mồ hôi của tôi. Băng qua đường, tôi bước qua khoảng vỉa hè lát gạch về phía những khung cửa sổ kính quen thuộc gắn khung màu đen; chạy ngang ở phía trên là dòng chữ mạ vàng HARVARD BOOK STORE.
Tôi bước vào trong. Trừ những cuốn sách trưng bày ở mặt tiền, nơi này đã không hề thay đổi kể từ khi tôi rời khỏi Cambridge. Tôi đi tới phòng bày bán sách văn học. Ở giữa phofgn là một giá xếp đầy sách của Shakespeare. Tôi dừng lại phía trước, đưa một ngón tay lần theo những gáy sách trong khi đầu óc đang để tận đâu đâu.
Cho tới cách đây mười lăm phút, tôi vẫn giả thiết đầu mối liên quan tới Chambers sẽ cho một lời giải thích nào đó về việc Roz viện dẫn đến một kiệt tác thời vua James của Shakespeare, cũng như tới năm 1623: cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Nhưng rồi Chambers đã dẫn vòng vo tới vở kịch đã mất Cardenio , trong khi cuốn Tuyển tập Đầu tiên có vẻ lại biến mất hoàn toàn theo một hướng khác. Theo đúng nghĩa đen của những từ này, nếu Matthew đúng.
Tôi không biết nên cười hay nên khóc nữa. Ít nhất những bản in gốc Tuyển tập vẫn chưa bị phá hủy từng cuốn một. Mặt khác, nếu tên khốn kiếp đã săn đuổi tôi trong thư viện không phá hủy chúng, thì hẳn chính hắn đã cướp những cuốn sách này đi. Có nghĩa hắn cần đến chúng. Thật tồi tệ.
Để làm gì?
Hẳn là cả lá thư lẫn những bản in cuốn Tuyển tập cuối cùng sẽ dẫn tới cùng một đích: một bản thảo của Shakespeare, hi vọng vẫn còn tồn tại đâu đó dưới lớp bụi dày.
Liệu hắn có biết mình đang tìm cái gì không? Có thể không, vì hắn đi rất nhanh từ bản thứ nhất sang bản thứ hai của cuốn Tuyển tập - và thậm chí cả một bản thứ ba nữa, nếu kể cả bản sao chép lại trong phòng đọc của Roz. Nhưng không: Hắn chắc chắn phải ý thức được mình đang làm gì. Liệu có ai lại mạo hiểm đi trộm sách từ những phòng trưng bày được canh phòng cẩn mật của nhà hát Quả cầu và thư viện Widener, sau đó lại gây ra hỏa hoạn để xóa dấu vết, chỉ vì một ý thích nhất thời hay một sự tình cờ?
Cho dù không vui vẻ gì khi phải thừa nhận điều này, nhưng rõ ràng tên sát nhân chắc chắn biết rõ hơn tôi về điều hắn đang làm. Tôi không có lấy một manh mối vững chắc nào về cuốn kiệt tác thời vua James.
Ngược lại, tôi lại có một lá thư ám chỉ đến vở kịch Cardenio . Hay đúng hơn là thư viện Houghton có.
Lạy Chúa, tôi đã rời khỏi thư việ quá hấp tấp, thậm chí tôi đã để quên lại tập sách quan trọng trong bộ Sân khấu thời Elizabeth của Chambers. Tôi đành hi vọng Ben cũng nhớ tới chi tiết này.
Tôi sốt ruột liếc nhìn quanh cửa hàng, ngó qua cửa sổ nhìn ra đường. Anh ta đâu rồi? Tại sao lại lâu vậy?
Anh ta không phải là một học giả. Liệu anh ta có hiểu tôi muốn làm gì khi chép lại bức thư? Chép lại tất cả một cách hoàn toàn chính xác, tất cả những chỗ sai chính tả, dấu chấm dấu phẩy, cho dù lủng củng rắc rối đến đâu đi nữa? Tôi cần những từ trong bức thư của Granville, đúng là như vậy, nhưng tôi cũng cần cả phong cách diễn đạt và những sai sót của ông ta nữa. Chính những điểm lạ lùng rất dễ bị bỏ qua này sẽ là dấu vết giúp học giả lần theo khám phá lai lịch và thói quen của người viết.
Tôi thở dài. Cho tới khi anh ta xuất hiện, chỉ có ba mảnh thông tin chính xác tôi có trong tay. đó là hai cái tên Jeremy Granville và Francis Child, cùng với bản dịch tiếng Anh của Don Quixote . Không cần phải động não nhiều để suy đoán rằng một vở kịch tiếng Anh, nằm kẹt trong một bản sách dịch tiếng Anh, và bị thất lạc “không lâu sau khi được viết ra” hẳn phải bị thất lạc đâu đó ở Anh, bị cất giấu và sau đó quên lãng ở một ngách ống khói, bị giấu kín sau bức tường của căn phòng nằm trong một tòa tháp hay một pháo đài, hoặc bị chôn sâu trong một chiếc rương dưới tảng đá giữa cánh đồng hiu quạnh. Tôi cũng nhớ dường như văn phong của Granville là của một người Anh.
Nhưng sự thật là ông ta đã viết thư cho giáo sư Child chống lại suy diễn này. Nếu Granville sống ở Anh, hay nơi nào đó ở châu Au, không những việc liên hệ với một giáo sư người Anh sẽ nhanh và dễ dàng hơn nhiều, mà cũng sẽ thật không tự nhiên khi mất công gửi thư qua cả đại dương cho Child. Nhất là khi chính Granville cũng là người Anh. Ông ta hẳn phải tìm ra cuốn sách ở đâu đó bên này bán cầu.
Tôi cố lục lọi lại trí nhớ của mình. Chắc chắn phải có những đầu mối khác nằm trong lá thư đó. Chỉ có điều những đầu mối đó mơ hồ hơn, ít rõ ràng hơn. Tôi chỉ mới kịp đọc lá thư chết tiệt đó hai lần, và một cách vội vã. Nhìn lướt qua thì đúng hơn.
Tôi cần lá thư đó. Ben đang ở đâu?
Ở cuối giá sách dành cho Shakespeare, tôi chững lại. Ngay dưới tay tôi, một cuốn sách bìa mềm lớn lún xuống dưới sực nặng của chính nó. Một bản sao cuốn Tuyển tập Đầu tiên . Cùng bản in với cuốn tôi tìm thấy trong phòng đọc của Roz - cuốn sách đã biến mất. Cũng như những bản gốc của nhà hát quả cầu và thư viện Widener.
Tôi lấy cuốn sách ra, lật giở từng trang; tất cả lề sách đều sạch tinh.
“Lại quay trở lại với kiệt tác thời vua James à?”
Tôi quay ngoắt lại. Ben đứng trước mặt tôi, cười nhăn nhở như một con mèo Cheshire chết tiệt, trong tay anh ta là tập sách của Chambers cùng tập giấy ghi chú màu vàng của tôi.
“Lá thư”, tôi hỏi. “Anh có nó không?”
Anh ta đưa tôi tập giấy vàng. Tôi cúi xuống nhìn.
Mặt giấy trống trơn.