← Quay lại trang sách

Chương 46

Năm tháng sau cái chết của Roz, vào một buổi tối lạnh lẽo tháng Mười hai, tôi quay trở lại nhà hát Quả cầu, sớm hơn dự kiến rất nhiều, để chỉ đạo một buổi tập Hamles.

Nhà hát đã được khôi phục lại vẻ lộng lẫy ban đầu. Giống như tháng Sáu, những vinh quang thậm chí còn lớn hơn sẽ quay lại với nó, khi buổi công diễn đầu tiên của vở Cardenio sau ngót bốn thế kỉ chuẩn bị bắt đầu - vào ngày 29, không muộn hơn. Nhiều người có thế lực đã đề nghị tôi đạo diễn vở kịch.

Nhưng Athenaide đã quyết định rằng trước hết phải là Hamlet . Nhưng thời gian duy nhất mà Jason Pierce rảnh rỗi để có thể vào vai chàng hoàng tử u oán là tháng Mười hai. Tôi nghĩ rằng ý tưởng công diễn một vở mới tại Quả cầu vào giữa mùa đông là hoàn toàn điên rồ, nhưng Athenaide không đồng ý. “Những đoàn kịch thời Elizabeth biễu diễn quanh năm” bà nói. “Vậy tại sao chúng ta lại không? Cô nghĩ rằng chúng ta đã yếu đuối đi đến mức đó sao?” Sau đó bà kí một tấm séc, tài trợ cho vở diễn nhằm tưởng nhớ Roz. Bà có lí, ít nhất về lượng vé bán được. Toàn bộ các buổi diễn đã hết sạch vé, và chúng tôi vẫn còn cách ngày kéo màn những mười hôm nữa.

Khi các diễn viên rời khỏi sân khấu sau buổi tập, tôi chớp lấy cho mình khoảnh khắc quí báu được ở một mình trong nhà hát. Vào tháng Mười hai, mặt trời lặn sớm ở London. Bây giờ mới chỉ là buổi chiều, căn cứ vào đồng hồ. Những tia sáng cuối cùng lách qua mái rạ làm tôi lóa mắt, và tôi đưa một tay lên chắn chúng lại. Truyền thống mộ đạo thời Shakespeare quy định rằng những vở kịch tại các nhà hát lộ thiên được trình diễn vào buổi chiều, kết thúc trước khi trời tối. Ngước nhìn lên sân khấu, tôi không chắc như vậy. Hãy lấy ví dụ những Cây cột của Hercules . Dưới ánh sáng mặt trời lúc giữa trưa, chúng vênh vang phô ra màu đỏ chói trơ tráo. Dưới bầu trời màu xám, chúng sẫm lại thành màu hạt dẻ và màu lông ngựa hồng, lạnh lẽo với sự cao ngạo xa cách của giới thượng lưu - hay nếu bạnlà một kẻ thích nhận xét cay độc hết thuốc chữa, giống như hai cột thịt nướng bằng cẩm thạch. Tôi luôn thích chúng hơn vào lúc hoàng hôn, cho dù là mùa đông hay mùa hè. Đó là lúc mà những cây cột này - cũng như cả nhà hát Quả cầubao quanh chúng - trông có vẻ Shakespeare nhất. Hay giống như trong Kinh thánh . Hoặc cả hai: khi màn đêm đặc dần lại như những hồn ma đang tập hợp, và những Cây cột của Hercules trở thành những dòng sông máu với những vệt lửa.

Tôi rùng mình kéo chiếc áo khoác sát vào người, hồi tưởng lại những gì vừa trải qua.

Henry được tìm thấy một tuần sau cái chết của ông ta. Dưới hẻm núi, người ta tìm thấy những mảnh của chiếc túi kẹt dưới đám rác rưởi, nhưng tất cả giấy tờ đựng bên trong đã biến mất.

Cuối cùng, ông ta gần như đã đạt được chính xác những gì mong muốn. Ông ta đã đưa được vở kịch bị thất lạc ra ánh sáng, nhưng đã hủy diệt tất cả các bằng chứng chống lại Shakespeare có thể nằm trong những lá thư. Vì điều đó, ông ta đã hi sinh mạng sống của mình.

Và tính mạng của sáu người khác: Maxine, tiến sĩ Sanderson, bà Quigley, Graciela, Matthew và Roz.

Athenaide đã dành Hamlet để tưởng nhở Roz, nhưng tôi đã quyết định Cardenio sẽ là sự tưởng niệm của tôi dành cho bà. Trong khi đó, tôi vẫn chưa hoàn toàn tha thứ cho bà vì đã bỡn cợt tôi. Còn hơn thế, một giọng nói khẽ cất lên, vì đã ra đi. Trong túi áo, những ngón tay tôi chạm vào bản sao chiếc trâm của Ophelia mà tôi luôn mang theo bên mình, giống như một tấm bùa hộ mệnh. Hãy để chúng trôi qua đi , Maxine đã nói như vậy về những giận hờn và nuối tiếc của tôi. Hãy để bà yên nghỉ .

Tôi chậm rãi bước từ dãy hành lang xuống dưới sân, đứng đối diện với sân khấu vắng tanh. “ Xin chào buổi tối, hỡi hoàng tử yêu quý ” tôi nói lên thành tiếng. Tôi không rõ mình đang nói gì và nói với ai nữa. Có thể là với chính sân khấu. “ Và tiếng vỗ cánh của những thiên thần đưa ngài vào giấc ngủ ”.

Tiếng vỗ tay vang lên khuấy động sự yên tĩnh, và tôi vụt quay người về hướng âm thanh phát ra. Có ai đó đang thờ ơ đứng tựa vào tường cạnh cửa ra vào, vỗ tay. Thật quá nhiều cho một khoảnh khắc riêng tư.

Sự xâm phạm này thật đáng bực mình. Tuần nào cũng có một hai lần như vậy, một khách du lịch nào đó tự hiểu tấm biển “Không làm phiền, buổi tập đang tiến hành” là để dành cho mọi người trừ anh ta, và tìm cách qua mặt những người gác cổng và nhân viên bảo vệ để lần mò vào trong. Tôi nói lớn tiếng: “Ngài lỡ mất buổi diễn rồi. Các diễn viên đã về hết”.

“Họ thật tuyệt vời!” một giọng Anh mà tôi biết quá rõ cất lên trả lời. Một giọng nói ngọt ngào và trầm ấm. “Nhưng tràng vỗ tay không phải dành cho họ. Mà cho cô”. Ben rời khỏi tường, đứng thẳng người lên.

Tôi đứng nhìn chăm chăm vào anh, như thể đó là một bóng ma.

“Xin lỗi đã vào xem trộm trước” anh nói. “Nhưng tôi chưa bao giờ được xem một đạo diễn làm việc, và tôi rất tò mò”. Anh bước lại gần tôi, bước chân hơi tập tễnh. “Không biết cô có tình cờ muốn uống chút gì đó không, giáo sư?”

“Đồ chết tiệt!” tôi mỉm cười nói. “Anh có bao giờ nghĩ đến gọi điện báo trước khi chường mặt ra hẹn gặp không?”

“Khỉ thật” anh bình tĩnh đáp. “Tôi có mang theo một chai champagne rất tuyệt. Rất phù hợp cho một cuộc hẹn hò. Thực sự quá khủng khiếp cho một cuộc gặp”. Anh đi qua trước mặt tôi, theo cầu thang lên sân khấu. Ngồi xuống bậc thang trên cùng, anh lấy ra hai chiếc ly, một chai rượu và bắt đầu nhẹ nhàng mở nút.

Tôi bước lên cầu thang theo sau anh. “Nếu anh tới để mời tôi champagne, anh có thể gọi lần gặp gỡ này bằng bất cứ cái tên nào anh muốn”

Chai champagne được mở với một tiếng nổ nhẹ, và Ben rót rượu vào ly. “Nâng ly” anh nói, và đưa một ly rượu cho tôi.

“Chúng ta đang chúc mừng điều gì nhỉ?”

Anh mỉm cười. “Gặp mặt?”

Tôi gật đầu và nhấp một ngụm. Champagne mát lạnh và thật tuyệt.

“Cô có khỏe không, Kate?”

Tôi nhắm mắt lại. Ben đã phải điều trị phục hồi chức năng trong năm tháng, và anh đang hỏi tôi có khỏe không? Quả thực tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. những giờ đầu tiên sau cái chết của Henry bắt đầu với tiếng vù vù của cánh quạt trực thăng, những tiếng gọi, những khoảnh khắc nín thở, những ánh đèn loang loáng trong bóng đêm cho tới khi Ben, vẫn còn sống, được đưa lên khỏi hang. Ngày hôm sau, họ đưa thi thể của Matthew lên mặt đất.

Rất lâu sau đó, với lời chúc may mắn của ông bà Jiménez, tôi đã quay lại khu hang đó với một nhân viên của cơ quan quản lí hải sản và động vật hoang dã Mỹ (họ quan tâm tới loài dơi Mexico), năm nhà khảo cổ - hai từ Đại học Arizona, từ Mexico City, London và Salamanca mỗi nơi một người (tất cả đều quan tâm đến những phát hiện liên quan tới giai đoạn thuộc địa Tây Ban Nha và nước Anh thời vua James), và một chuyên gia nghiên cứu hang động từ hệ thống công viên của bang Arizona. Những đống đá trong hang đúng là những ngôi mộ của năm người lính Tây Ban Nha thời thuộc địa như tôi đã nghĩ.

Người thứ sáu, bộ hài cốt không được chôn cất, được chứng minh là của một tu sĩ dòng Franciscan. Giấu bên trong tượng chịu nạn của ông là một bức chân dung nhỏ do Hilliard vẽ, bức chân dung tuyệt đẹp của một cô bé tóc nâu vàng, viền quanh bức chân dung là những từ khảm vàng có vẻ như liên hệ bức tranh với bức chân dung là của Hilliard tại thư viện Folger: Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không phai nhạt . Không còn manh mối nào khác về danh tính người tu sĩ, nhưng tu sĩ người Anh duy nhất được biết đến đã mất tích ở khu vực này của thế giới là William Shelton.

Đi vào hang qua lối phía dưới, chúng tôi đã tìm lại được con đường qua lũ dơi tới hang động đã trở thành nhà mồ của Jem. Ông ta mang theo một số giấy tời - nhưng chúng đã mục nát thành một đống đất tơi vụn không thể đọc được nữa.

Ông bà Jiménez được tuyên bố việc phát hiện ra bản thảo trong một cuộc họp báo, và chỉ sau một đêm tôi bất ngờ bị bao quanh bởi vầng hào quang của sự nổi tiếng. Một cơn bão tố tranh luận nổ ra quanh chúng tôi - nhưng cả thế giới - hay phần lớn - nhanh chóng thừa nhận người tu sĩ là một người Tây Ban Nha gốc Anh có tên William Shelton, và ông ta mang theo mình một cuốn Don Quixote cũng như bản thảo một vở kịch đã thất lạc từ lâu của Shakespeare. Tuy nhiên, cuốn nhật kí của Ophelia vẫn nằm trong sự lãng quên, bị kẹt lại trong những cuộc thương lượng giữa Athenaide và nhà thờ Anh. Những lá thư tìm thấy ở dinh thự Wilton cũng không được công bố công khai.

Những cuốn Tuyển tập Đầu tiên bị lấy cắp đều được tìm thấy trong thư viện của Henry và quay trở về Quả cầu và Harvard, mặc dù cuốn sách của trường Harvard bị thiếu đi một trang của vở kịch Titus Andronicus . Trang sách tôi vẫn mang trong túi áo trong suốt cuộc phiêu lưu làm nó lại trở thành nguyên vẹn. Ở Valladolid, cha hiệu trưởng Học viện Hoàng gia vẫn đang ngẫm nghĩ xem nên làm gì với cuốn Tuyển tập Derby đã gửi cho William Shelton.

Cũng có những bóng đen lớn phủ lên sự phấn khích. Cái chết của Henry Lee và giáo sư Matthew Morris tiếp sau quá gần cái chết của Roz gây chấn động mạnh trong giới nghiên cứu về Shakespeare. Thông báo chính thức về những vụ án mạng, như Sinclair giải thích trong một buổi họp báo được phát đi trên truyền hình khắp thế giới, đã khiến sự kiện trở thành một cơn bão. Henry và Matthew là đồng phạm trong năm vụ án mạng, sau đó Henry đã giết Matthew. Cái chết của Henry, Sinclair khẳng định một cách chắc chắn, là một vụ tai nạn.

Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Harvard không còn một chuyên gia có tầm cỡ nào về Shakespeare; kết quả là cuộc cạnh tranh giành lấy các vị trí bỏ trống rầm rộ đến mức như thể toàn bộ các khu rừng ở Bắc Mỹ và Anh bất thần bật rễ rùng rùng chuyển động. Tôi đã từng cho mình là người may mắn khi được làm việc với Henry, nhưng những lời yêu cầu tế nhị về người tôi nên cân nhắc để lấp vào chỗ trống ông ta để lại trong vở Hamlet đến từ khắp các tên tuổi nổi tiếng trong giới sân khấu khắp thế giới. Có vẻ như vai diễn hồn ma được đông đảo dư luận coi là màn khởi động cho vai Don Quixote .

Với tất cả những việc đó, tôi phải bắt đầu từ đâu đây? “Khỏe” tôi nói. “Tôi khỏe, cám ơn”.

Ben mỉm cười. “Hơi sơ sài, tôi dám chắc vậy, nhưng rất vui được nghe vậy”.

“Thế còn anh? Anh khỏe chứ?”

Lúc này anh đang ngắm nhìn đám bọt sủi lên từ đáy ly. “Tôi đã tìm thấy một thứ, Kate”.

Tôi ngạc nhiên. Những từ của Roz . “Không hay đâu”.

“Không có nghĩa là như vậy”. Anh ngẩng đầu lên nhìn tôi. “Mà có nghĩa điều đó đúng”.

Tôi nhìn chằm chằm vào anh. Trong suốt thời gian Ben ở trong bệnh viện và điều trị phục hồi chức năng, anh từ chối không cho tôi tới thăm, mặc dù chúng tôi có nói chuyện với nhau vài lần qua điện thoại. Chỉ trong vòng vài ngày, những giấy tờ chúng tôi tìm thấy ở Houghton và Wilton - những lá thư của Jem gửi giáo sư Child, và của Will gửi con Thiên nga Ngọt nhào nhất - đã về lại chốn cũ bằng những con đường khác nhau, và không gây ra thắc mắc nào - ít nhất cho tới khi tôi hỏi tới chúng. Tuy vậy, tất cả những gì tôi biết là trong lúc hỗn loạn ở Elsinore, Ben đã lấy cuốn sách của Chambers khỏi tay Henry, giấu cuốn sách cùng các bức thư ở một nơi trong ngôi nhà. Làm thế nào Ben lấy lại được chúng, anh cũng không nói. Nhưng anh đã hỏi tôi về chiếc trâm với bức chân dung cất giấu bên trong, và đề nghị quyết liệt đến mức tôi phải đồng ý. Và chiếc trâm cũng nhanh chóng tìm đường quay về nhà, tới thư viện Folger cùng lá thư của Ophelia gửi cho bà Folger.

Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau diễn ra ngay trước khi tôi bắt đầu các buổi tập, cách đây sáu tuần. Tôi đã gọi điện cho anh trong tâm trạng rất kích động sau khi phát hiện ra một mối liên hệ giữa gia đình Howard và bá tước Derby.

Giọng anh có vẻ mệt mỏi, nhưng nghe đến chuyện này lập tức anh sôi nổi hẳn. “Quan hệ gì vậy?”

“Theo kiểu cổ điển. Hôn nhân. Con gái của Derby cưới một người em họ của Sommerset”.

“Cô đang đùa chắc”.

“Đúng ra là một anh chàng Robert Carr khác, chỉ có điều anh chàng này khăng khăng giữ lại cách phát âm Scotland. Kerr, với một chữ K. Đám cưới diễn ra năm 1621, một năm trước khi nữ bá tước Sommerset được thả ra khỏi tháp London. Hai năm trước khi Tuyển tập Đầu tiên được xuất bản”.

Nữ bá tước gần như là người trong gia đình , lá thư ở Wilton House đã viết như vậy.

“Vậy mục đích của nó chính là về việc đó, đúng không? Trói chặt Derby với những vở kịch?”

Tôi đã không đồng ý. “Cuộc hôn nhân đó chỉ chứng minh ông ta có liên hệ với nhà Howard. Từ cuốn Tuyển tập tại Valladolid chúng ta đã biết rằng ông ta có quen biết William Shelton. Và từ lá thư tại Wilton chúng ta biết ông ta có mối quan hệ nhất định với Shakespeare. Nhưng không gì trong chúng chứng tỏ rằng ông ta là người đã viết những vở kịch. Ông ấy vẫn có thể chỉ là một người bảo trợ”.

“Cô còn cần gì nữa?”

“Một cái gì đó thật rõ ràng”.

Anh rên lên. “Biết tìm ở đâu?”

“Để bắt đầu, từ nơi mà không ai khác tìm kiềm trong suốt bốn trăm năm qua”.

“Cô có ý tưởng nào chưa?”

Tôi cũng đã nghĩ về điều đó. “Ở những phần bên rìa của câu truyện. Có thể là những chuyện ngồi lê đôi mách. Nhưng không phải về các vở kịch. Đó là tất cả những gì đã bị bỏ qua”.

“Thế thì là chuyện ngồi lê đôi mách về cái gì?”

“Về Kinh thánh của vua James chẳng hạn”.

Anh thở ra một hơi dài. “Chữ kí trong bài Thánh thi ”.

“Có thể ở đó chứng đựng đôi điều về người đã thực hiện dịch thuật, đặc biệt là bài Thánh thi số bốn mươi sáu”.

“Chúng ta không biết? Cô không biết?”

“Không. Các dịch giả giữ im lặng về phần đóng góp cá nhân của họ. Có lẽ là một cách cố ý. Đến mức họ đốt hết những bản thảo của mình. Kinh thánh là tác phẩm của Chúa, họ lí luận như vậy. Không phải của con người. Và tất nhiên không phải của một người. Tuy vậy, một vài manh mối có thể vẫn còn sót lại”.

“Tôi đang tìm kiếm chúng” anh đã nói vậy. Ben không thể dễ dàng di chuyển, và không biết đọc văn tự viết tay thời vua James, vì vậy tôi không lạc quan lắm về cơ hội của anh. Nhưng nếu anh cần thứ gì đó để giúp mình khỏi phát điên vì tù túng, vậy thì cũng tốt thôi.

Nhưng lúc này anh ngồi trên bậc cầu thang bên rìa sân khấu và nói đã tìm ra một thứ. Tôi đặt ly rượu của mình xuống. “Cái gì vậy?”

Anh đưa cho tôi bản copy của một lá thư. Tôi nhìn kỹ. Lá thư được viết bằng kiểu chữ Thư kí.

Ben mỉm cười. “Thư viện Folger tỏ ra rất cộng tác, sau khi được nhận lại những thứ của họ. Thậm chí còn hướng dẫn tôi cách đọc chữ viết tay thời vua James”.

“Và anh đã tìm thấy tứ này ở đó?”.

Anh lắc đầu. “Sưu tập cá nhân” anh trả lời mơ hồ. “Đó là lá thư của Lancelot Andrewes, tu viện trưởng Westminster và giám mục Chichester, gửi cho một người bạn, viết tháng Mười một năm 1607. một cái tên lạ lùng cho một giám mục - Lancelot - nhưng dù sao ông ta có vẻ không giống với các giáo chức cao cấp thông thường”.

Anh không nói gì thêm, vậy là tôi cúi xuống đọc lá thư. Phần lớn nội dung nói về vấn đề đạo Thiên chúa ở Warwickshire. Nhưng có một đoạn thu hút sự chú ý của tôi, viết về Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Emmanuel ở Cambridge, và về Sách các Thánh thi mới hoàn tất nằm trong cuốn Kinh thánh của nhà vua. Ông ta là một trong số ít giáo chức ủng hộ Thanh giáo tham gia vào dự án này; các bài Thánh thi đã được giao cho hội đồng của ông.

Theo lời giám mục, Chaderton đã viết một bức thư nghiêm khắc phàn nàn rằng nhà vua đã lấy những bản dịch Thánh thi mà hội đồng của ông ta đã cẩn thận thực hiện đưa cho một đám thi sĩ. Để đánh bóng lại, giám mục dẫn lại lời lẽ cáu kỉnh của Chaderton - như thể việc trau chuốt lại từ ngữ một cách thi vị hơn còn xếp dưới cả thủ dâm, kê gian và ma thuật trong bậc thang xếp loại những tội ác ghê tởm nhất của sách Leviticus. Để đáp lại, giám mục đã cố gắng mềm mỏng. Các thi sĩ không được phép phá hỏng các bản dịch - nhưng còn về ngữ điệu, thì theo ý của ông nhà vua đã đúng. Các bài Thánh thi được dùng để hát, nhưng nghe giống như những bài thuyết pháp. Những bài thuyết pháp buồn tẻ, ông ta nhấn mạnh. Giống như nhà vua, giám mục muốn bản dịch phải thật đúng, nhưng không có lí do gì sự đúng đắn lại không đi kèm với sự êm tai.

Nhưng Chaderton từ chối mềm mỏng. Ông ta đưa ra một lời buộc tội khác: Đám thi sĩ đã dám để lại tên trong phần việc của họ.

Chuyện này, giám mục viết, quả thực là một sự báng bổ nếu có thật, nhưng ông ta đã tự mình rà soát lại toàn bộ Sách các Thánh thi và không tìm thấy một chữ kí nào cả. Chaderton, giám mục than phiền với bạn mình, đáng ra nên tập trung vào những phần sách còn phải dịch, hơn là phàn nàn những chuyện không đâu về những phần đã hoàn tất. Nếu ông hiệu trưởng khó chịu này không chịu kím mồm kín miệng một chút, ông ta sẽ làm nhà vua nhúng mũi vào công việc của họ, và tự mình đảm nhiệm việc trau chuốt lại từ ngữ. Ít nhất với đám thi sĩ, ông giám mục đáng kính còn có quyền gạt bỏ những gì không thể chấp nhận được.

Nhưng thật không may, không giống như Chaderton, vị giám mục là một người tế nhị. Ông không đả động đến một cái tên nào.

Khi tôi nói xong, trên khuôn mặt Ben nở một nụ cười. “Cô nghĩ Shakespeare có thể là một trong những thi sĩ đó?”

“Có thể. Thế nhưng những người khác là ai? Chưa có ai từng phát hiện ra bất cứ dấu vết nào của một chữ kí khác?”

“Đã có ai tìm chưa?”

Tôi bật cười. “Chắc là chưa”.

“Có gì không ổn sao?”

Tôi vặn người. “Điều làm tôi suy nghĩ là các mốc thời gian. Cách giải thích trước đây của tôi là Sách các Thánh thi được hoàn tất năm 1610, khi Shakespeare bốn mươi sáu tuổi - một cách phỏng đoán để tìm ra chìa khóa mật mã. Nhưng lá thư của giám mục lại được viết năm 1607”.

“Liệu đó có nhất thiết phải là một món quà sinh nhật dành cho chính mình không?”

Không. Nhưng nếu không phải như tôi phỏng đoán, tại sao lại là bài Thánh thi số bốn mươi sáu? Tại sao lại làm như vậy, mà không có một dạng kí hiệu nào khác để những người khác tìm kiếm?”

“Theo cô, liệu ông ấy có quan tâm đến việc ai đó biết ông ấy đã làm việc này? Rất có thể ông ấy đã tạo ra mật mã đó cho chính mình, vì ông ấy chợt nhận ra mình có thể làm được như vậy với một bài Thánh thi có nói tới shaking và spears ”.

“Cũng có thể”. Tôi cau mày. Món quà sinh nhật dành cho chính mình.

Nhảy xuống khỏi sân khấu, tôi chạy tới chiếc bàn kê trong hành lang nơi tôi cất những cuốn sổ ghi chú của mình, quay lại với bà tờ giấy gập đôi và đặt chúng xuống trước mặt Ben. Những bản in từ phiên bản trực tuyến của Từ điển Oxford về tiểu sử quốc gia . Các mục từ về William Stanley, bá tước Derby đời thứ sáu, Mary Sidney Herbert, nữ bá tước Pembroke, và Francis Bacon.

“Con quái vật chimera” Ben nói. “Hay phần lớn nó”.

“Món quà sinh nhật cho chính mình”.

Ben nhìn qua nội dung các mục từ và ngước mặt lên. “Họ đều sinh năm 1561”.

“Có nghĩa là năm 1607, khi Sách các Thánh thi được hoàn tất, họ đều…”

Anh huýt sáo. “Họ đều bốn mươi sáu tuổi”.

Chúng tôi ngồi yên lặng một lát, giữa trái tim yên ả của thế giới Shakespeare, bầu trời màu xanh ngọc sẫm dần lại phía trên làm cho người ta có cảm giác đang ở trong một giấc mơ lạnh lẽo.

“Anh có biết Derby là thành viên của quái vật chimera qua đời sau cùng không?” Tôi trầm ngâm. “Phu nhân Pembroke qua đời năm 1621 vì bệnh đậu mùa, chỉ vài tuần trước khi con gái của Derby thành hôn với Kerr, và Bacon chết vì viêm phổi vào mùa đông năm 1626, sau khi thực hiện thí nghiệm bảo quản thịt bằng cách nhồi tuyết vào trong một con gà. Nhưng Derby đã sống sót để chứng kiến những phát súng đầu tiên của cuộc nội chiến tại Anh”.

“Tử trận?” Ben hỏi.

“Không. Ông bị kẹt lại cùng những cuốn sách yêu quí của mình ở Chester, hơn nữa, lúc đó ông đã tám mươi mốt tuổi. Nhưng vào tháng Chín năm 1642, sau khi nhà vua trốn khỏi London, những người theo Thanh giáo tại Quốc hội cuối cùng có thể ra tay với những nhà hát mà họ căm ghét từ lâu và đóng cửa tất cả một cách đột ngột vào ngày mồng 2 tháng Chín. Những nhà hát này bị đóng cửa trong gần hai mươi năm…”

“Những vị Thanh giáo này có vẻ không phải là những người ham vui. Thật may là cuối cùng phần lớn họ đã dong buồm đi về phía tây”.

“Cảm ơn rất nhiều”. Tôi làm bộ nhăn mặt. “Derby qua đời bốn tuần sau đó, gần như chính xác từng ngày, vào ngày 29 tháng Chín”.

“Như thể Quốc hội đã giết chết trái tim của ông ta?”

“Rất dễ bị cuốn hút vào cách nhìn như vậy, đúng không? Nhưng lịch sử không diễn ra như vậy. Niên đại không phải vì lí lẽ cho nhân quả”. Tôi lơ đãng đưa một ngón tay lần quanh mép chiếc ly của mình.

“Vậy cô sẽ làm gì với những điều này?”

Tôi lắc đầu. “Athenaide đã gợi ý rằng Wesley North nên viết một cuốn sách nữa, lần này về con quái vật chimera. Tôi nói với bà tôi sẽ suy nghĩ về việc đó”.

“Bà ấy cũng nói với tôi như vậy. Cô định công bố tất cả những thứ này dưới tên của một người khác?”

“Có vẻ cũng hợp lí, đúng không?” Anh phá lên cười, và tôi lắc đầu. “Vấn đề ở chỗ nó vẫn chỉ là những lời nói như gió thoảng qua. Không phải là bằng chứng chắc chắn”.

“Có vẻ như trước đây điều này đã không làm người ta dừng bước”.

“Nó đã là Ophelia dừng lại. Và sau đó bà ấy đã hạnh phúc”.

“Vậy là cô quyết định chọn con đường của Ophelia thay vì con đường của Delia?”

Có một ngọn thủy triều trong những cuộc đua tranh của con người … Câu trích dẫn ưa thích của Roz chợt vang lên trong đầu tôi theo nhịp điệu quen thuộc trong giọng nói của bà. “Anh biết Roz rõ đến mức nào?” Tôi hỏi.

“Đủ rõ để biết bà rất yêu quý cô”.

“Bà thích tự mình biểu diễn câu chuyện trong những bào sonnet. Bà ấy luôn đóng vai thi sĩ”.

“Tất nhiên. Và cô là chàng thanh niên tóc vàng”.

Tôi ngừng cười. “Nghe kiêu ngạo đến khó chịu, khi nói như vậy. Nhưng có một lần Henry đã nói như vậy với tôi”.

Ben nhìn thẳng vào mắt tôi. “Bà gọi cô là cô gái vàng của bà. Bên cạnh những cách gọi khác”.

Tôi cúi người ra trước. “Anh có bao giờ tự hỏi mình liệu có phải bà muốn đưa anh vào trò chơi của bà với những bài sonnet không?”

“Tôi không cần tự hỏi mình. Bà ấy trao cho tôi vai người phụ nữ tóc đen” anh nói với nụ cười tự ti. “Không có nghĩa là đàn bà, bà ấy cam đoan với tôi như vậy. Vai của một kẻ phá quấy. Kẻ nhúng mũi vào chuyện của người khác. Phù hợp một cách hoàn hảo cho một anh lính”.

Tôi bật cười. “Anh nói gì cơ?”

Anh nhấp một ngụm champagne. “Tôi nói với Roz tôi không phải là diễn viên, và tôi sẽ không làm theo kịch bản của bất cứ ai”.

“Và bà vặn lại anh, ‘Thậm chí là của Shakespeare’?”.

Anh ngớ người. “Roz đã kể với cô?”

Tôi lắc đầu. “Có lần tôi cũng nói với Roz như thế, và bà cũng đã vặn lại đúng như thế”.

Anh cười vang. “Thế cô đã trả lời ra sao?”

“Rằng tôi sẽ tự viết lấy câu chuyện của mình. Nó có thể lủng củng hơn, nhưng là câu chuyện của tôi”.

“Kết quả thế nào?”

“Cũng chưa rõ. Nhưng nếu tôi không định theo con đường của Shakespeare, tôi hoàn toàn chắc chắn sẽ không bao giờ đi theo con đường của Ophelia hay Delia”.

Anh gật đầu và lại nhâm nhi một ngụm rượu. “Cô đã bao giờ nghĩ đến chuyện hợp tác không?” Vẻ tinh quái lấp ló ở khóe miệng anh. Tinh quái và hi vọng.

“Câu chuyện anh có trong đầu là gì vậy?”

“Câu chuyện cũ nhất trong tất cả các câu chuyện” anh nói. “Một chàng trai gặp một cô gái”.

“Thế còn chuyện một cô gái gặp một chàng trai thì sao?” tôi mỉm cười trả đòn.

Anh giơ ly lên.

Sau một khoảnh khắc, tôi cũng nâng ly của mình lên chạm vào ly của anh. “Vì một câu chuyện mới” tôi nói.

HẾT