← Quay lại trang sách

Chương 45

Bị kẹt dưới những tảng đá ngay trước mặt tôi, Ben cựa mình. “Ông ta đâu rồi”.

Tôi quỳ xuống. “Tôi không biết”.

“Vụ lở đá đã bịt mất lối ra cũ, nhưng hẳn cũng là mở ra một lối khác. Hay kiểm tra xem cô có thể tìm thấy không”. Một tia sáng nhỏ xuyên qua bóng tối. Tia sáng phát ra từ một chiếc đèn bấm nhỏ trong tay Ben.

“Anh làm thế nào…”

“Dự trữ” anh ta nói rành rọt.

Ánh đèn chỉ đủ mạnh để xuyên qua bóng tối chừng vài bước chân. Nhanh hết mức có thể, tôi đi tới chỗ tôi đã nhìn thấy Henry lần cuối cùng. Tôi mò mẫm tìm quanh nhưng không tìm thấy gì ngoài đá. Rồi tôi cảm thấy. Một luồng không khí thổi nhẹ.

“Có một khe hở” tôi nói. Henry hẳn đã tìm thấy nó trước.

“Đuổi theo ông ta”.

“Và để mặc anh ở đây?” Đấu tranh chống lại cảm giác hoảng loạn, tôi quay lại cạnh Ben.

Tôi nghe thấy anh nâng mình dậy. “Cô vẫn còn chiếc trâm chứ? Chiếc trâm của Ophelia?”

“Còn”.

“Vậy thì tất cả những gì cô cần làm là cố lên gần mặt đất. Ở mặt sau chiếc trâm có gắn một bộ phận phát tín hiệu”.

“Cái gì cơ?”

“Đó là cách tôi bám theo cô. Tôi đặt một con chip vào trong chiếc trâm. Tín hiệu phát ra không đi qua được những tảng đá dày như thế này. Nhưng nếu lên đủ gần mặt đất, nó sẽ có tác dụng”.

“Tín hiệu được chuyển tới ai?”

Anh ta nhăn mặt và lại cựa mình. “Tôi đã đưa mật mã cho Sinclair. Cảnh sát sẽ tìm kiếm tín hiệu này. Tìm kiếm cô”.

Tôi cầm lấy chiếc trâm đang được móc vào sợi dây chuyền, không để ý đến nước mắt đang im lặng chảy xuống trên mặt mình.

“Cô có thể làm được” anh ta nói.

Tôi quỳ xuống bên cạnh anh ta. “Không”.

“Kate, tôi bị kẹt cứng rồi. Tôi có thể đoán là một chân tôi đã bị gãy, có thể là cả xương chậu. Tôi không thể bò qua được cái hang này, chưa nói gì đến đi, ngay cả khi chúng ta có thể dỡ được những tảng đá kia ra, điều mà chúng ta không thể. Nếu cô ở lại, cả hai chúng ta sẽ chết. Cả gia đình Jiménez cũng vậy. Và Athenaide”.

“Athenaide chết rồi”.

“Sẽ là như vậy, nếu bà ấy không được giúp đỡ sớm. Lại là kali. Nhưng lần này là uống”.

Trong kí ức tôi chợt hiện lên hình ảnh chiếc cốc. “Bà ấy là Gertrude. Bà hoàng bị đầu độc”.

“Trong trường hợp của bà, những kẻ dàn cảnh đã chỉ cho nhân viên cấp cứu vừa đủ thời gian để tới nơi. Đó là nguyên nhân đã giữ chân tôi lâu đến thế trước khi bắt kịp cô”. Anh ta cầm lấy tay tôi. “Nhưng bà ấy sẽ không sống được lâu nữa đâu, Kate, nếu Henry trốn thoát. Đó có phải là điều cô muốn không?”

“Không”. Và tôi cũng không muốn phải tự mình lang thang giữa bất cứ ma trận nào tình cờ mở ra trong bóng tối. Nếu nó chỉ tiếp tục dẫn đi xa hơn thì sao? Tôi sẽ kẹt lại ở một ngách cụt nào đó, cùng Henry.

“Cô làm được, Kate”, giọng nói của Ben xua đi sự sợ hãi, bao quanh tôi một bức tường lí trí vững chắc, bình tĩnh. Khi bò và leo trèo, tôi chỉ có thể sử dụng đèn bấm một cách rất hạn chế. Còn nếu tôi thành công trong việc tiếp cận Henry, tôi thậm chí còn không thể dùng được đèn, nếu không muốn làm lộ mình. Nhưng tôi sẽ phải rất cẩn thận nếu định tìm đường ra khỏi hang động trong bóng tối.

Khi anh ta nói xong, tôi phải quay trở lại phía trong hang để tìm chiếc xilanh rồi bò đến chỗ Matthew để lấy con dao. Sau đó tôi quay lại chỗ Ben.

“Cô hãy cầm theo con dao” anh ta nói.

Giắt dao vào thắt lưng, tôi đặt chiếc xilanh vào tầm tay với của anh ta, mặc dù không ai trong chúng tôi nói ra vì sao. “Tại sao anh nói anh là cháu của Roz?” tôi hỏi.

“Tôi cần cô tin tôi”.

Hơn bất cứ điều gì, chính lời nói dối đó đã phá vỡ sự tin tưởng của tôi.

Anh ta thở ra nặng nhọc. “Đúng là bà ấy có đề nghị như vậy. Những điều khác mà Athenaide nói…”

Tôi lắc đầu. “Anh không cần phải…”

“Có chứ, tôi cần phải nói”. Mồ hôi rịn ra trên trán anh ta, và miệng Ben căng cứng vì đau. “Tất cả những gì bà ấy nói đều đúng. Vụ tấn công, những cái chết, những câu hỏi… Nhưng những câu hỏi vẫn không được tìm ra, Kate. Cô có tin không?”

Tôi cố kìm tiếng nấc trong cổ họng. “Tôi xin lỗi” tôi khẽ nói.

Khuôn mặt Ben như trút đi được một gánh nặng. Anh cố mỉm cười. “Tôi cũng có những nghi ngờ về cô, một hay hai lần”.

“Thật sao?”

“Sau cái chết của Maxine? Và của tiến sĩ Sanderson? Phải. Nhưng cái chết của bà Quigley thì không phải là cô”.

“Tôi đã nghi ngờ anh là kẻ sát nhân, và anh vẫn cứu mạng tôi”.

“Chưa đâu” anh nói. Vẫn là giọng điệu châm chọc như anh ta đã dùng ở Charles, có vẻ như cách đây đã lâu lắm. Anh đưa tay chạm vào tay tôi, và tôi nắm chặt lấy tay anh. “Nếu có ai cứu mạng người khác hôm nay, cô sẽ là người đó, giáo sư”.

Những điều xấu xa người là làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ . Ophelia đã cố gắng đảo ngược định mệnh đó. Và có vẻ như cả tôi cũng sẽ phải làm như vậy. Kìm những giọt nước mắt chực trào ra, tôi nắm chặt lấy tay Ben một lần nữa rồi vội vã đứng dậy, đi ngược trở lại qua chiếc hang, vì nếu nấn ná lâu hơn tôi sẽ không thể đi nổi. Tôi cũng không đủ can đẩm để nói điều gì.

Ở phía đối diện của bờ đá dốc ngổn ngang vừa mới hình thành, một lần nữa tôi lại cảm thấy luồng không khí kì lạ đó và cố trèo tới nơi phát ra nó. Khe hở mới hình thành nằm ngay gần đỉnh của bờ dốc, có lẽ là một khe nứt giữa hai tảng granite. “Hãy đợi tôi” tôi nói, và lách người vào khe nứt.

Lối đí qua kẽ nứt mở một dốc - có lúc gần như dốc đứng, vì thế gọi nó là một ống khói thì giống hơn một đường hầm; tôi đã phải mò mẫm trong bóng tối để tiến lên. Xa xa ở phía trên, tôi thỉnh thoảng nghe thấy tiếng bước chân hay tiếng người lẩm bẩm; rồi một trận mưa những mảng đá nhỏ ào ào trút xuống đầu tôi, và tôi gồng mình sẵn sàng chờ đợi bị tấn công bởi một cơn mưa đá nữa. Nhưng những mảng đá dừng rơi xuống, và sau đó lại là sự im lặng.

Có một lần, tôi thoáng nhìn thấy ánh đèn của Henry lấp loáng xa xa phía trên. Lúc đó tôi dừng lại nghỉ vài phút. Tôi không định cố hết sức bắt kịp ông ta để rồi bị bắn.

Hai cánh tay tôi bắt đầu đau nhức nhối mỗi lần phải kéo cả cơ thể lên trên, và hai chân tê cứng vì chuột rút sau khi phải liên tục bám vào bề mặt đá trơn trượt để chống đỡ sức mạnh của cả người tôi. Trong bóng tôi, tôi không rõ mình đã đi được bao xa, hay quãng đường còn lại xa đến mức nào. Nhưng nỗi sợ hãi thúc giục tôi tiếp tục. Tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ sự sống của Ben đang cạn dần đi trong màn đêm phía dưới.

Tâm trí tôi tiếp tục xoay quanh những vụ giết người. Henry đã giết Roz ở nhà hát và sau đó đốt tòa nhà, lấy đi cuốn Tuyển tập Đầu tiên .

Nhưng tại sao?

Tôi rùng mình. Trong những giờ, những ngày sau đó, ông ta có vẻ thật tốt bụng. Thật chu đáo.

Cô bé yêu quí, cô đã quên mất rồi. Tôi là một diễn viên .

Sau một khoảng thời gian mà với tôi có vẻ là nhiều giờ trôi qua, lối đi bắt đầu thoai thoải dần. Tôi nằm yên hồi lâu, cảm thấy thật hạnh phúc vì dưới lưng mình lúc này đã có một nền phẳng. Nhưng tôi không thể nghỉ quá lâu. Tôi cần phải lên tới mặt đất. Buộc mình đứng dậy, tôi nặng nhọc lê bước. Không lâu sau, tôi đi vòng qua một rìa đá và bất giác lùi lại, mắt nhắm tịt.

Ánh sáng. Tôi từ tốn lùi lại sau góc khuất. Có thể ở phía trên tôi chừng hai mươi mét. Một luồng sáng chói chang màu vàng ánh đỏ. Tôi đứng nhìn để đôi mắt làm quen dần. Sau đó tôi khẽ nhón chân leo tới chỗ luồng sáng. Đó là một khe nứt hẹp dẫn vào một cái hang nông lòng, vách hang màu đỏ nằm cheo leo trên vách đá, nếu đoán từ những gì tôi có thể nhìn thấy từ bên này hẻm núi.

Ở miệng hang, Henry đang ngồi tựa lưng vào vách đá, hai chân ông ta duỗi dài chìa ra ngoài miệng hang. Chiếc túi mở tung nằm bên cạnh. Một tay ông ta cầm một tờ giấy, tay kia vẫn lăm lăm khẩu súng. Đầu ông ta ngả ra sau tựa vào vách hang, trông như đang ngủ. Tay tôi siết chặt lấy con dao. Tôi có thể lao thẳng tới chỗ ông ta không? Giật lấy khẩu súng? Bằng cách nào đó, tôi cần ra gần cửa hang, để thiết bị phát tín hiệu có thể hoạt động.

“Cô làm tôi thất vọng” ông ta nói bằng giộng trầm ấm như lụa.

Tôi lùi lại. Nếu ông ta quyết định bắn xuống lối đi tôi vừa sử dụng, tôi sẽ không có nơi nào để ẩn nấp. Tôi đành phải tấn công ông ta.

Tôi căng người ra nghe ngóng.

Nhưng Henry không hề động đậy. “Có quá ít cái chết có ý nghĩa” ông ta trầm ngâm nói tiếp, “thế mà cô đã được tặng cho một cái chết vô giá của Shakespeare, một trong những cái chết vĩ đại nhất của Shakespeare… và cô đã vứt nó đi. Juliet, cô bé thân mến. Cô đã quay lưng lại với Juliet”.

Tôi vẫn không nghe thấy tiếng động nào. Tôi thận trọng nhô ra. Ông ta không hề cử động, trừ việc mở mắt ra.

“Tôi biết cô vẫn ở đó, cô bé thân mến. Nếu cô cần phải xử sự một cách trần tục, cô vẫn có thể làm mình trở nên có ích”. Ông ta giơ tờ giấy đang cầm trong tay trái lên. “Một lá thư. Của Will gửi cho Will… Em có Will của em, thêm một Will nữa, và nhiều Will hơn cần thiết… Nhưng chữ viết thời Jacobean thật khó chịu. Tôi không thể nào đọc được một dòng ở giữa”.

Một lá thư! Tôi đã không thấy nó, trong số các bản thảo.

“Tôi có thể” tôi nói. Điều tôi cần là Henry để tôi ra ngoài tới gần cửa hang, vị trí mà tín hiệu do thiết bị cài trong chiếc trâm phát ra có nhiều cơ may được ai đó phát hiện ra.

“Con dao hay chiếc xilanh?” ông ta hỏi. “Cô chắc chắn phải mang một trong hai thứ đó theo. Chắc là con dao”.

Chết tiệt.

“Dù thế nào đi nữa, để nó lại, đi ra tay không và xòe rộng bàn tay ra”. Ông ta nhướng một bên mày lên và giơ tờ giấy ra.

Bị giằng xé giữa thận trọng và cả quyết, tôi bước ra khỏi khe hẹp, chỉ giấu con dao khuất khỏi tầm nhìn. Hơi nóng phả vào người tôi và ập lên những tảng đá. Sau đó tôi ngửi thấy mùi kim loại của mưa ở sa mạc và nghe thấy tiếng sấm ầm ĩ. Tôi bước tới rìa vách đá, tựa vào phía đối diện với Henry và nhìn xuống. Phía dưới sáu mươi mét, đáy khe núi đầy cát đã biến mất dưới dòng nước trắng xóa điên cuồng chảy cuộn xoáy từ bờ bên này qua bờ bên kia, kéo theo những thân cây và những mảnh đổ vỡ. Tim tôi thắt lại. Không ai có thể đi ngược khe núi lên. Cho tới khi dòng nước cạn đi, có nghĩa là nhiều ngày nữa.

Đối diện chúng tôi, vách đá nhuộm màu hồng dưới ánh sáng cuối ngày mùa hè. Xa xa về phía trái, bên trên rặng núi, những làn mưa bàng bạc đặc lại thành một tấm màn xám xịt. Ở rìa gần của vùng xám này, những đám mây trải dài hết tầm mắt tôi. Trời vẫn chưa mưa ở đây, nhưng cơn bão đang đi qua hướng này. Không khí ướt sũng hơi nước, và những cơn gió nặng nề, ẩm ướt thổi vào hang. Gió mùa hè đã xuất hiện sớm hơn.

“Ở trên đó trời đã bắt đầu mưa từ giữa buổi sáng, và đến giờ vẫn chưa dứt”. Henry khoát tay nói. “Như cô thấy đấy, chúng ta không thể quay về bằng con đường chúng ta đã dùng để lên đây, kể cả nếu Matthew không làm sập lối ra một cách hậu đậu như thế. Lối ra khỏi hang đang nằm dưới mực nước, và tôi nghĩ là cả một nửa đường hầm đầu tiên cũng vậy”. Ông ta dậm chân xuống nền hang phía trước mình. “Đến đây, cô bé thân mến. Tôi muốn nhìn cô đọc từng từ một. Và nếu tôi nghĩ rằng cô bỏ qua dù chỉ một từ, tôi sẽ bắn”.

Tôi đành đến cạnh Henry, lùi sâu vào bên trong hang chừng vài bước chân. Liệu thiết bị phát tín hiệu có hoạt động được ở vị trí này không? Chiếc trâm lủng lẳng trên sợi dây chuyền đeo ở cổ tôi.

Lá thư cũng được viết bằng cùng nét chữ mà tôi đã nhìn thấy trong cuốn Tuyển tập, và trong lá thư ở dinh thự Wilton. Đó là chữ viết của bá tước Derby, gửi cho William Shelton. Từng từ một, tôi đọc to lá thư lên, trong khi Henry không ngừng vặn vẹo tôi bằng những câu hỏi sắc sảo: Từ này, chữ cái này là gì?

Lá thư là lời xin lỗi cho sự im lặng, cùng lời giải thích.

Món quà duy nhất mà tôi có thể trao… một câu chuyện do bạn kể, nếu không phải do bạn sáng tác ra, được đưa lên sân khấu. Bằng những sự đưa đẩy lạ lùng của số phận, nó đã từng khiến thế giới nhỏ bé của chúng ta chát rụi, và thiếu chút nữa đã cướp đi tính mạng của một cô bé .

“Cô bé?” Henry gầm gừ.

“Đứa bé bị mắc kẹt trong đám cháy tại Quả cầu” tôi nói. “Đám cháy đầu tiên. Cô bé chắc đã sống sót”.

Một lời đồn ở nơi này, một chút sự thật lộ ra lúc khác, và gia đình Howard sẽ sớm phải chứng kiến chính mình rơi vào cảnh thất sủng, và chỉ có thể trách cứ đứa con gái của chính họ. Tôi thích điều đó - sự đổi chỗ của những rắc rối.

Giờ đây, khi tất cả có thể nói là trôi qua đã lâu, và những vở kịch khác, những người anh em của nó, đang tìm tới sự bất tử trên những trang sách in - câu chuyện cũ lại vươn chiếc đầu có sừng nhọn và phì ra lửa như một con rồng tửng đã chết từ lâu, nhưng kì thực chỉ chìm vào giấc ngủ. Chỉ mình vở kịch này gây nguy hiểm cho cô bé, vì cũng như Leonora, cô bé đã tìm thấy hạnh phúc trong câu chuyện khó tin của Cardenio.

Có thể bạn sẽ mỉm cười vào bức thư này.

Của ai? Bạn đã từng bực bội hỏi. Đứa bé gái đó là của ai?

Lúc đó tôi đã nghĩ có thể thời gian sẽ trả lời. Nhưng cô bé là chính bản thân mình, là bông hồng kiều diễm.

Tôi gọi cô bé là con gái của Shakespeare, và thế là đủ .

Lá thư bị giật khỏi tay tôi. “Đúng là đủ rồi” Henry nói.

Tôi định giằng lá thư lại, nhưng ông ta đã chĩa súng vào đầu tôi.

Tĩnh mạch tôi căng phồng lên vì áp lực của dòng máu, làm trong đầu tôi vang lên những tiếng ầm ầm còn to hơn âm thanh của dòng nước đang cuồn cuộn phía dưới. Con gái của Shakespeare ? Tôi liếm đôi môi khô nẻ.

Sự giúp đỡ mà Ben đã tin tưởng đến thế đang ở đâu? Liệu tôi có tình cờ làm rơi con chip khỏi chiếc trâm đâu đó dưới hang không?

“Henry” tôi cầu khẩn. “Tôi xin ông. Lá thư đó có thể cho chúng ta biết toàn bộ sự thật về Shakespeare”.

“Nếu Shakespeare không phải là người đã viết những vở kịch, thì đó không phải là một sự thật tôi muốn biết. Đó không phải là một sự thật mà tôi muốn bị tiết lộ”.

Chẳng lẽ tất cả những vụ giết người là vì vậy? Bảo vệ Shakespeare người Stratford? Không lẽ đó là cách ông ta nghĩ về những gì ông ta đã làm? Khuấy động một kiểu chiến tranh bảo hộ dưới danh nghĩa bảo vệ Đức tin về Shakespeare ?

Henry nhìn lá thư trên tay mình. “Mỉa mai nhất trong những sự mỉa mai. Tôi đã sẵn sàng đổi tất cả để có vở kịch Granville tìm thấy, nhưng cuối cùng tôi lại tìm thấy lá thư tôi đã cố gắng vất vả đến thế để giữ không để lộ ra”.

Tôi cần thuyết phục ông ta cho tôi ngồi gần cửa hang, để thiết bị trong chiếc trâm có thể hoạt động. Vậy là tôi tìm cách mua thời gian bằng thứ tiền mặt ông ta trân trọng nhất - Shakespeare. “Nhưng ông cũng có vở kịch” tôi nói, “kẹp vào cuốn Don Quixote . Cùng kiểu chữ viết, tôi nghĩ vậy. Tôi có thể đọc nó nếu ông cho phép”.

Đôi mắt ông ta nheo lại.

“ Anh hầu Sancho và Don Quixote vào ” tôi nói. “Đó là nơi vở kịch bắt đầu, nhưng tôi chưa kịp đọc tiếp”.

“Hãy chỉ ra cho tôi thấy”.

Tôi lôi cuốn sách từ trong chiếc túi lấy ra một tập giấy rời rồi thận trọng giở ra.

Anh hãy giữ lấy vàng, anh bạn Sancho, ta sẽ giữ cuốn sách …

Vẻ tham lam bùng cháy trong mắt Henry. “Vở kịch bị thất lạc của Shakespeare” ông ta lẩm bẩm. Rồi mỉm cười. “Đọc tiếp” ông ta ra lệnh.

Đó là việc khó khăn nhất tôi từng làm, đọc to lên thành tiếng câu chuyện về tình yêu và sự phản bội đó, đồng thời vẫn quan sát Henry, chờ đợi một thời điểm ông ta lơ là cảnh giác. Hi vọng tôi sẽ ở đủ gần khoảng không bên ngoài… hi vọng rằng cảnh sát đang tìm kiếm… hi vọng rằng sự sống trong con người Ben không tắt đi quá nhanh trong bóng tối.

Tôi kết thúc hồi thứ nhất và bắt đầu đọc sang hồi thứ hai. Giờ đây tôi trở thành nấm mồ cho danh dự của chính mình. Một ngôi nhà âm u chỉ dành cho cái chết .

Tôi ấp úng dừng lại. Không ai đến cả, tôi bất chợt nhận ra. Cho dù ai đó đang lắng nghe, tôi vẫn ở quá sâu trong hang để họ có thể nghe thấy.

Một rìa đá hẹp chạy ra ngoài từ phía dưới phần nền hang nhô ra, bám vài bờ vách đá một đoạn trước khi thu hẹp lại rồi biến mất. Trước khi Henry kịp phản ứng, tôi băng qua ông ta, theo rìa đá đó lần ra ngoài, một tay bám lấy vách đá, tay kia nắm lấy vở kịch và kéo mạnh sợi dây chuyền tôi đang đeo trên cổ.

“Kate!” Henry gọi với giọng lo lắng thực sự. “Quay lại”.

Tôi tiếp tục giật.

“Không có lí do gì phải mạo hiểm vở kịch hay tính mạng của cô như thế”.

“Tôi nghĩ tính mạng của tôi coi như mất rồi. Chỉ có vở kịch giữ ông không giết tôi”.

“Quay lại, và chúng ta sẽ thương lượng” ông ta nài nỉ. “Cô có thể đạo diễn vở kịch, và tôi sẽ vào vai Quixote”.

“Ông nghĩ Ben sẽ đồng ý sao?”

Ông ta im bặt.

“Tôi hiểu rồi. Anh ta chính là điểm ông cho rằng tôi sẽ thỏa hiệp. Ông không giết tôi, và tôi cũng không cứu anh ta nữa. Và chúng ta đều có vở kịch”.

“Kiểu gì anh ta cũng sắp chết rồi, Kate”.

Cuối cùng sợi dây cũng đứt, và chiếc trâm rời ra khỏi tay tôi. Tôi vội chộp lấy nó trong khi trên vách đá có những tiếng nứt vỡ nhỏ. Một phần rìa đá sụp xuống, làm một trận mưa đá rơi xuống dòng sông bên dưới. Tôi lảo đảo rồi lấy lại được thăng bằng. Dưới chân tôi, một khoảng trống mở ra giữa rìa đá và vách núi.

“Kate, quay lại”.

“Bỏ súng xuống đi”

Ông ta do dự, và một phần nữa của rìa đá sụp xuống. Khẩu súng bay bổng trên hẻm núi, vẽ thành một vòng cung rồi rơi xuống dòng nước.

Một tiếng rên lớn vang lên từ bề mặt vách núi. Tôi bắt đầu quay trở lại.

“Nhảy!” Henry hét lên. Và tôi nhảy, đúng lúc rìa đá rời khỏi vách núi đổ xuống dưới trong tiếng động ầm ầm và làm tung lên cột bụi trắng xóa.

Ngay bên rìa cửa hang, tôi nằm thở hổn hển, tay vẫn nắm chặt vở kịch. Henry bước lại gần tôi một bước.

“Dừng lại”.

Ông ta dừng lại.

“Thả chiếc túi xuống nền hang, và đá nó về cuối hang”. Tôi không muốn để ông ta nảy ra bất kì ý tưởng nào về việc ông ta có thể làm với những lá thư còn chưa đọc đang nằm cuộn lại trong túi.

Henry thả chiếc túi xuống, nhưng không đá nó về cuối hang. Thay vào đó, ông ta lùi về vách hang đối diện. “Cô có hiểu mình đang làm gì không?”

Để nguyên chiếc túi ở nơi ông ta thả nó xuống, tôi kéo cuốn Don Quixote về phía mình và gấp vở kịch lại kẹp vào cuốn sách. “Cho dù Shakespeare là ai đi nữa thì có gì khác đâu? Tại sao ông lại sợ sự thật đến vậy?”

Tựa người vào vách hang, ông ta trượt người ngồi xuống nền hang, mặt cúi xuống úp vào hai lòng bàn tay. “ ’Sự thật là gì? ’ Pilate cười cợt hỏi, và không nán lại đợi câu trả lời. Câu của Bacon ”. Ông ta ngẩng lên. “Tôi không sợ sự thật, Kate. Tôi sợ các sự kiện. Sự bạo ngược của những sự kiện nhỏ nhen vụn vặt. Sự thật, với một chữ S viết hoa, là điều cần phải như vậy. Không chỉ đơn giản là gì, hay đã là gì. Là một người kể chuyện, một đạo diễn, cô phải biết điều đó”.

Giọng ông ta càng nói càng hùng hồn và cuốn hút hơn. “Cho dù một lá thư cũ rích nhàu nát có nói gì đi nữa, điều luôn đúng là Shakespeare chính là tất cả mọi người, một người của công chúng. Không phải là một bá tước hay một hiệp sĩ, một nữ bá tước hay một bà hoàng, và lạy Chúa, không phải là đống quan liêu bàn giấy khốn kiếp. Tại sao lại có nhiều người đến thế không muốn thừa nhận một cậu bé có thể từ tay trắng không chỉ trở nên xuất sắc, mà là vĩ đại? Nói thế nào đi nữa, chính tôi cũng đã ít nhiều làm được điều này - đi lên từ một gã trai chân đất tới tước hiệp sĩ trên sân khấu. Vậy tại sao Shakespeare người Stratford lại không thể trở nên bất tử?”

“Các vở kịch mới quan trọng, Henry. Không phải là xuất thân của ông ấy”.

“Cô sai rồi, Kate. Giống như Abraham Lincoln của các vị trong căn nhà bằng gỗ của ông ta, câu chuyện của chàng trai người Stratford là một hình ảnh mình họa có ý nghĩa rất lớn: Thiên tài có thể xuất hiện từ bất cứ đâu. Bất kì ai cũng có thể trở thành vĩ đại. Shakespeare đã từng giúp tôi thoát khỏi vũng bùn, và đổi lại tôi đã dùng cả cuộc đời mình tôn vinh ông. Ông có thể làm điều tương tự cho nhiều người nữa. Ít nhất đó là điều tôi luôn nghĩ tới. Chính điều đó đã giúp tôi có động lực lần thứ hai, để trở lại với sân khấu… Khi tôi đã kết thúc với hồn ma người cha của Hamlet, với Prospero và Lear cũng như Leonidas, huyền thoại của Shakespeare sẽ được bảo tồn cho một thế hệ nữa. Nếu những kẻ chỉ chăm chăm gom nhặt những sự kiện vặt vãnh chịu để yên”.

“Ông đang lẫn lộ huyền thoại của Shakespeare với huyền thoại cho chính mình”.

Ông ta nhìn tôi trách móc. “Tôi đã nghĩ cô sẽ hiểu”.

“Ông nghĩ rằng tôi sẽ đồng ý với ông?” Vẫn cầm cuốn sách có kẹp bản thảo vở kịch, tôi đứng vụt dậy. “Ông nghĩ rằng ông ấy sẽ đồng ý?” Tôi hét lớn, bị thúc đầy bở một cơn giận đang bùng lên. “Chẳng lẽ ông nghĩ rằng Shakespeare, cho dù ông ấy là ai đi nữa, có thể tán thưởng việc ông đã giết người vì ông ấy?” Cũng nhanh như khi bùng cháy, con giận của tôi trở nên lạnh như băng. “Được rồi, Henry, tôi hiểu. Tôi hiểu rằng ông là một tên sát nhân và một kẻ hèn nhát sợ hãi sự thật”

Ông ta lao tới cuốn sách trên tay tôi. Tôi vùng thoát ra, và ông ta lại lao theo tôi. Lần này ông ta túm được tôi, ép người tôi sát vào vách hang. “ Kate đơn giản, và Kate dễ thương, và đôi khi Kate đáng nguyền rủa ”.

Tiếng thì thầm của ông ta phát ra bằng một giọng nói không thể nào lẫn với ai khác được. Một giọng Mỹ. Kẻ tấn công trong thư viện.

Tôi là một diễn viên , ông ta đã nói như vậy.

Matthew đã nói chính hắn là kẻ lạ mặt trong thư viện. Nhưng Matthew đã nói dối. Matthew chắc chắn đã được chuẩn bị trước để biến tôi thành Lavinia - nhưng lời đe dọa là ý tưởng của Henry. Bản thảo là của ông ta. Hét một tiếng chói tai, tôi vũng vẫy quay người một vòng, quật ông ta vào thành hang. Ông ta buông tay. Lấy lại thăng bằng, ông ta lao tới tấn công tôi. Tôi cúi gập người xuống tránh sang bên.

Mất đà Henry đập mạnh người xuống nền hang rồi văng người ra ngoài rìa đá.

Tôi vội chạy tới gần, cúi người nhìn qua mép vực.

Ngay dưới cửa hang, ông ta đang bám cả hai tay vào một mẩu đá nhô ra ngoài vách núi. Một chân đã tìm thấy một chỗ đặt rất hẹp, chân kia đang khua lên tìm chỗ bám trên bờ đá. Móc một chân vào một kẽ nứt làm điểm bám, tôi nghiêng người sang một bên với xuống. Tôi không thể giữ ông ta bằng một tay. buông cuốn sách có kẹp vở kịch xuống, tôi nắm chặt lấy khuỷu tay ông ta, đầu tiên bằng một tay, rồi cả hai tay. Trong một khoảnh khắc tôi nghĩ ông ta có thể lôi cả hai chúng tôi rơi xuống. Từ cái nhìn trong mắt ông ta, có thể thấy ông ta đã nghĩ tới chuyện này.

Sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng trực thăng.

“Cảnh sát” tôi nói. “Cho dù chuyện gì xảy ra với ông và tôi, Henry, họ sẽ tìm ra vở kịch. Và lá thư”.

Lúc đó, có cái gì đó trong ông ta đã đầu hàng. Từ từ, và với sự hợp tác của ông ta, tôi kéo ông ta lên tới nơi an toàn.

“Tôi xin lỗi” ông ta thở hổn hển. “Tôi xin lỗi, Kate. Tôi không bao giờ muốn làm hại cô. Nhưng cô không chịu bỏ cuộc”.

“Hãy giữ lòi xin lỗi lại cho mình” tôi lạnh lùng nói. “Ông sẽ vào tù một thời gian rất lâu đấy”.

“Bộ mặt hiện đại của sự báo thù” ông ta nói. “Cô đã trở thành Hamlet, Kate. Cô có thấy không?”

Ông ta nói với vẻ ngưỡng mộ cay đắng, nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là hàng dài thi thể trên sân khấu ở cuối vở kịch. “Điều đó có nghĩa gì với ông?”

Ở phía thượng nguồn khe núi, ánh chớp xé toạc bầu trời thành một vòng cung rộng chia nhánh màu sáng xanh. Tiếng sấm vang lên rung chuyển cả khe núi, và phía dưới, nước bắn tung lên không trung, vùn vụt kéo theo những tảng đá và thân cây trôi qua. Tiếng động cơ của chiếc trực thăng vang lên rõ hơn.

Henry cố đứng dậy. Ngửa đầu ra phía sau, ông để giọng nói tuyệt vời của mình vang lên trong tiếng gió rít:

Ta đã làm tắt phụt

Mặt trời ban trưa, đã gọi tới những cơn gió phản loạn

Và giữa mặt biển màu lục và vòm trời xanh thẳm

Những tiếng gầm của chiến trận vang lên .

Trước mắt tôi, ông ta trở thành Prospero, người phù thủy đã tạo ra những cơn bão tố và khỏi động bánh xe công lí. Chạm rãi, với vẻ oai nghiêm, ông đưa tay lên chỉ vào tôi.

Những ngôi mộ theo lệnh ta

Đã đánh thức những người chết, và mở huyệt mộ cho họ bước ra

Nhờ quyền năng lớn lao của ta .

“Ông đã đào nhiều huyệt mộ theo lệnh mình, Henry” tôi trả đòn. “Không phải mở chúng ra. Sáu ngôi mộ. Bảy, nếu Ben chết”.

Nguồn sinh lực bao quanh ông ta dần dần dao động rồi biến mất. Đột nhiên, ông trở lại là một ông già, mệt mỏi và buồn bã. Ông ta buông thõng hai tay xuống.

Nhưng phép màu hung bạo đó

Từ nay ta từ bỏ

Từ phía bên kia khe núi, chiếc trực thăng bắt đầu xuất hiện trong tầm nhìn, tiếng động do những cánh quạt của nó tạo ra âm vang theo vách núi. Trong lúc nó bay lại gần, những cuộn nước và bụi bốc lên từ nền hang. Đứng trên khung cửa đã mở là Sinclair và ông Jiménez, đang đưa tay chỉ.

Đi qua phía trước tôi, Henry nhặt chiếc túi có chứa những lá thư có thể cho biết Shakespeare là ai, mà cũng có thể là không. Giật cuốn sách khỏi tầm tay của ông ta, tôi ôm chặt lấy nó vào ngực cùng vở kịch, nhưng ông ta không tìm cách lấy lại. Hướng những lời nói của mình chỉ cho tôi nghe, ông ta nói như thể một người cha đang xin lỗi con gái mình. Không phải là biểu diễn, mà là xin lỗi.

Ta đã bẻ gãy chiếc gậy của mình,

Chôn sâu nó dưới hàng thước đất

Và sâu hơn nơi bất cứ tảng đá nào từng chìm xuống

Ta sẽ nhận chìm cuốn sách của ta .

Tôi hiểu ra quá muộn ý định của ông ta và lao vụt tới, nhưng ông ta đã tới bên mép vực.

“Hãy nhớ tới tôi” ông ta nói. Sau đó ông ta ngả người ra sau và rơi xuống, giống như Icarus rơi thẳng từ trên trời, đôi mắt nhìn thẳng lên trên với nụ cười phấn khích, hai tay dang rộng như một đôi cánh tả tơi.

Rất xa bên dưới, tôi nghe thấy một tiếng động nhỏ. Dòng sông hất tung ông ta lên một lần.

Sau đó ông ta biến mất.

Khoảng ngưng

Ông đã nghĩ tới một cái chết bởi lửa và gươm, hay ít nhất cũng bởi dàn lửa và dao găm, trước một đám đông đang chế giễu. Không phải là một mình trong bóng tối.

Mùi của những xác chết đã đặc quánh lại trong không khí đến mức mỗi hơi hít vào đều làm ông lợm giọng buồn nôn, thế nhưng còn kinh khủng hơn thế là sự im lặng. Ban đầu, vị tu sĩ đã tán thưởng nó. Viên thượng sĩ - một người đàn ông can đảm hiếm có - đã mê sảng suốt hai ngày cuối cùng trước khi chết, và những tiếng rên rỉ, những cơn gào thét của anh ta cũng khó chịu đựng không kém âm thanh gây ra khi hai bàn tay anh ta cào cấu những tảng đá chặn kín lối ra của họ. Anh ta đã cào bới các tảng đá cho đến khi các đầu ngón tay rách tướp bê bết máu lòi cả xương ra kêu ken két, nhưng không thể nào ngăn anh ta lại được cho tới khi anh ta kiệt sức. Và viên thượng sĩ là một người rất khỏe.

Có lẽ cả những tiếng ồn lẫn sự im lặng, vị tu sĩ thầm nghĩ, đều là hình phạt dành cho ông ta vì đã ô uế không gian bằng những lời dối trá.

Cho dù ông muốn làm điều tốt. Không bao lâu sau khi xuất phát, họ đã đến trước một con sông đang tràn bờ sau ba ngày mưa tầm tã. Nếu như họ kiên nhẫn chờ thêm ba ngày, chắc chắn nước sẽ rủ đi - những trận lụt thường biến mất cũng nhanh như khi chúng xuất hiện ở miền đất lạ lùng đầy bất trắc này - nhưng viên địa úy lại không phải là một người kiên nhẫn. Dưới sự thúc giục của ông ta, họ đã vượt sông ngay chiều hôm đó, và bị mất ba con la cùng mọi thứ chất trên lưng chúng. Viên đại úy coi việc thùng rượu vang của mình bị mất là bi kịch lớn nhất và ra lệnh phạt roi nhưng người quản la. Những người này chịu đựng hình phạt đó cũng như họ đã chịu đựng mọi sự tàn bạo ngu xuẩn của viên đại úy với sự kiên nhẫn đầy thách thức. Nhưng việc cuốn Kinh thánh của vị tu sĩ cũng bị mất đã khiến trong đôi mắt của họ bùng lên sự hoảng sợ.

Phần lớn họ là những nông dân thất học, và sự mộ đạo của họ gần với sự mê tín hơn là tôn thờ một cách có khai sáng, nếu không ông đã có thể cố gắng dùng lí lẽ để xua tan sự sợ hãi của họ. Nhưng vì sự thể như thế, vị tu sĩ đã lấy từ trong chiếc túi treo trên yên la của mình cuốn Don Quixote , dày dặn và có bìa trang trí cầu kì, nói dối rằng đó là cuốn Kinh thánh riêng của mình, mà ông ta sẽ rất vui lòng được chia sẻ với binh lính.

Sự hoảng loạn đã lắng suống. Sau đó, ông đã “đọc” Thánh thi bằng cách mở cuốn sách, chẳng hạn, đến chương kể lại việc đánh nhau với cối xay gió, trong khi nói lớn tiếng, dựa theo trí nhớ, câu chuyện ngụ ngôn về đứa con trai hoang phí. Đã có lúc những tình huống như vậy khiến ông phải phá lên cười. Nhưng giờ đây có vẻ như điều đó đã thuộc về một kiếp sống khác.

Tất nhiên, bọn họ cũng đã trông thấy xấp giấy ông kẹp vào bìa cuối cuốn sách. Họ đã đoán rằng đó là một bài thuyết giáo hay một bài cầu nguyện cá nhân, và trêu đùa ông. Tác phẩm lớn của ông. Kiệt tác của ông. Ở một khía cạnh nhất định, ông nghĩ, họ có lí. Nhưng nó là kiểu cầu nguyện nào đây?

Giờ đầy tôi trở thành

Nấm mồ cho danh dự của chính mình, một ngôi nhà âm u chỉ dành cho cái chết .

Viên thượng sĩ đã một hai lần ném về phía ông cái nhìn sắc lạnh, nhưng cho dù anh ta có nghi ngờ về điều gì, anh ta đã giữ lại cho riêng mình. Không như viên đại úy, viên thượng sĩ là một người chỉ huy khôn khéo.

Đi theo dòng sông, họ rời khỏi vùng núi xuống một vùng đồng bằng rộng đất nâu, giống quê nhà lạ lùng với những ai ra đi từ Castille. Vài ngày sau, một số người tụt lại phía sau đội hình đã tìm thấy hai phụ nữ da đỏ cùng những đứa con của họ. Khi vị tu sĩ phát hiện ra điều gì xảy ra giữa đám đàn ông đang quây lại reo hò thì những đứa trẻ đã chết, còn những người phụ nữ ở trong tình trang tồi tệ hơn. Đó là một phần của đời lính: lúc đầu ông đã quay mặt đi. Nhưng năm hay sáu người trong đám đó đã thỏa mãn dục vọng của họ một cách tàn bạo và liên tục đến mức cuối cùng vị tu sĩ đành thúc la đi lên trước để phản đối với viên đại úy. Ông ta quay lại, hùng hổ nhảy xuống đất, dùng thanh kiếm mở đường qua đám đông cho tới khi cả toán lính đã dạt đi. Ông ta đứng nhìn một hồi lâu. Một trong hai phụ nữ đã sắp chết. Nhưng ông ta cưỡng bức người đàn bà còn lại ngay ở đó, trước mặt tất cả. Sau đó đâm xuyên thanh kiếm qua người cô ta.

Rồi ông ta lên ngựa phi trở lại đầu đội hình. Họ thậm chí còn không dừng lại để chôn cất các thi thể.

Tối hôm đó, đi một mình ra ngoài để cầu nguyện cho những linh hồn tội nghiệp, ông đã nhìn thấy những con mắt ở trên cây nhìn xuống quan sát. Viên đại úy đã quát ông, gọi ông là một kẻ hèn nhát và một gã điên, nhưng viên thượng sĩ đã lẳng lặng tăng gấp đôi số lính canh gác quanh trại của họ.

Vô ích; sáng hôm sau, một người trong đoàn của họ được tìm thấy trong tư thế quỳ trên hai tay và đầu gối giữa bãi cỏ cách trại hai mươi mét, hai mắt bị móc, chỗ đã từng là bộ phận sinh dục của hắn ta chỉ còn là một hố đẫm máu. Sau đó, tất cả những kẻ xâm hại hai người phụ nữ đều lần lượt từng người một bị bắt cóc và hành hình theo những cách còn lạ lùng và đau đớn hơn, giống như những con bò rừng câm lặng lần lượt bị những con sói bắt khỏi đàn. Cứ từng người một chỉ đơn giản biến mất, rồi vài giờ hay vài ngày sau, họ lại tìm thấy kẻ đó, vẫn còn sống, xuất hiện như vật trang trí trên con đường họ đi.

Trước khi chết, rất nhiều người đã muốn hôn Kinh thánh . Vị tu sĩ tự hỏi mình liệu có nên tiếp tục sự dối trá về cuốn Kinh thánh đến mức này không. Nhưng bất cứ điều gì có thể đem lại sự bình an cho những giây phút đau đớn kinh hoàng của họ - ông tin rằng điều đó gần với phước lành hơn tội lỗi.

Họ không bao giờ trông thấy kẻ thù, chỉ thấy những gì họ tạo ra. Binh lính bắt đầu thì thầm về ác quỷ. Nhưng viên đại úy, luôn chăm chăm hướng tới những thành phố vàng, có vẻ không nhìn thấy máu hay cảm giác sợ hãi đang mỗi lúc một nặng nề. Ông ta thúc giục người của mình tiến lên bằng kiếm và roi. Ông ta có vẻ cũng không nhận ra đến một ngày kia ông ta chính là kẻ sống sót cuối cùng trong số những người đã xâm phạm đến các phụ nữ da đỏ.

Ba ngày sau, viên đại úy không ra khỏi lều vào buổi sáng. Mọi người tìm thấy ông ta nằm trên mặt đất, ruột của ông ta được trải vòng quanh lều như vật trang trí. Mắt, hai bàn tay, và lưỡi đều biến mất. Cổ họng viên đại úy bị cắt đứt, còn dương vật bị cắt ra nhét vào miệng ông ta. Không ai đã nghe hay nhìn thấy điều gì trong đêm.

Họ mang ông ta đi chôn không chút thương tiếc. Sau đó họ lên đường quay trở về nhà. Hay ít nhất là về Santa Fe.

Đã quá muộn. Những người da đỏ đã tập kích họ vào ban đêm. Phần lớn binh lính bị giết chết trong khi đang ngủ, nhưng viên thượng sĩ đã tập hợp những người còn sống sót lại, tổ chức phòng ngự, rút lui lên những quả đồi, rồi sau đó vào một hẻm núi. Thế nhưng họ vẫn bị đánh tỉa dần. Chỉ còn lại tám người và hai con ngựa khi họ tới một thung lũng nhỏ hình tròn. Họ nghĩ rằng nơi này có thể phòng thủ được - mà không nhận ra người da đỏ có thể leo trèo khéo léo gần như những con cừu núi.

Vậy là họ tìm chỗ trú chân bên trong chiếc hang, và tạ ơn Chúa và vận may đã giúp họ tìm ta một lối đi tối tăm dẫn vào một hang động lớn ăn vào trong vách núi. Họ nhận ra quá muộn đó không phải là sự tình cờ mà họ đã bị dồn tới nơi này. Nhưng lúc đó đá đã bắt đầu rơi xuống. Hai người đã cố gắng chạy qua cơn mưa đá tảng và bị đè bẹp. Những người còn lại đã rút sâu vào trong cho tới khi tiếng động im hẳn. Và sự chờ đợi trong bóng tối bắt đầu.

Sau đó là những cái chết lần lượt, cho tới khi còn sót lại vị tu sĩ với viên thượng sĩ. Rồi ông thực sự chỉ còn lại một mình.

Một ngôi nhà âm u chỉ dành cho cái chết .

Đã hai ngày rồi ông không còn tiểu tiện được nữa; đôi môi ông nứt nẻ, miệng ông khô đến nỗi mỗi lần nuốt vào là một cực hình.

Rồi sau đó ông không còn một mình nữa: Những khuôn mặt hiện lên bồng bềnh trong bóng tôi, hơi uốn lượn như mái tóc của các nàng tiên cá. Một phụ nữ tóc đen mặc chiếc áo dài màu xanh lục. Một người đàn ông trung niên với đôi mắt giễu cợt - giễu cợt, và thông minh một cách chán chường cũng như vẻ buồn bã âm thầm luôn lấp đầy đôi mắt của những người đã từng thấy cả ánh hào quang rực rỡ nhất của trái đất lẫn vực thẳm âm u nhất là những cung độ không thể tách rời.

Hơn tất cả là một khuôn mặt ông chưa bao giờ nhìn thấy trong đời mình. Một cô bé tóc nâu vàng mà bức chân dung ông ta đã mang theo mình, ngay gần trái tim, suốt nhiều năm, ẩn bên trong bức tượng chịu nạn lớn của ông.

Vị giám mục sẽ làm gì với nó? Tiếng cười vang lên bên trong ông, cho dù nghe giống tiếng nôn ọe hơn. “Một sự lãng phí linh hồn cho một sự hổ thẹn vô ích”, ông đã từng một lần kêu lên như vậy trong cơn bực bội. Có thể đó cũng là những lời của giám mục.

Nhưng ông ta đã sai. Ông đã hiểu ra điều đó từ lâu. Yêu không bao giờ lãng phí. Không phải là tình yêu thứ tình yêu có thể dễ dàng xóa bỏ…

Khuôn mặt của cô bé lại hiện ra lần nữa, mỉm cười, và ông cảm thấy trái tim mình run rẩy đập nhanh.

“Nhưng cô bé đó là ai?” ông nghe thấy giọng của chính mình thời trẻ hỏi.

“Cô bé là chính bản thân mình”, một giọng khác trả lời. “Bông hồng kiều diễm”.

Sau đó là sự im lặng.