← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16 NHỮNG LỜI THÚ NHẬN

Chiếc ghế bành của bà d’Harville được đặt bên phải lò sưởi, nơi Rodolphe đứng, chống nhẹ khuỷu tay.

Chưa bao giờ Clémence thấy toàn bộ các đường nét cao quý và duyên dáng của vị Công tước đập vào mắt mình như thế. Chưa bao giờ tiếng nói của ông đối với nàng lại có vẻ dịu dàng và rung cảm đến thế.

Cảm thấy bà Hầu tước bắt đầu câu chuyện rất đỗi khó khăn, Rodolphe bảo nàng:

- Thưa phu nhân, phu nhân đã là nạn nhân của một sự phản bội xấu xa, sự tố giác hèn hạ của bà Bá tước Sarah Mac-Gregor suýt làm phu nhân mất thanh danh.

- Có thật thế không, thưa Điện hạ? - Clémence ngơ ngác. - Vậy ra những linh cảm của tôi không lừa dối tôi… Nhưng vì sao Điện hạ lại biết được?

- Hôm qua, do tình cờ, trong buổi khiêu vũ tại nhà bà Bá tước, tôi đã phát hiện ra bí mật của sự bỉ ổi này. Tôi ngồi tại một nơi hẻo lánh của khu-vườn-mùa-đông. Không biết rằng có một lùm cây ngăn cách tôi với họ làm cho tôi nghe được tiếng họ nói, bà Bá tước Sarah và anh trai bà ta đến gần tôi bàn tính về dự định giăng bẫy hại phu nhân. Muốn báo trước cho phu nhân cái hiểm họa đang đe dọa phu nhân, tôi vội vã tới buổi khiêu vũ tại nhà bà de Nerval, tin rằng sẽ gặp phu nhân tại đấy, nhưng phu nhân không tới. Viết thư gửi về đây cho phu nhân sáng nay, lá thư có thể rơi vào tay ngài Hầu tước, như vậy chỉ làm Hầu tước ngờ vực. Tôi thấy nên đến đợi phu nhân tại phố Temple để làm thất bại âm mưu của bà Bá tước Sarah thì hơn. Chắc chắn phu nhân sẽ thứ lỗi cho tôi đã kể lể dài dòng về một việc đã làm phu nhân khó chịu chứ? Không có bức thư mà phu nhân đã có nhã ý viết cho tôi… có lẽ suốt đời tôi chẳng nói với phu nhân về tất cả những điều này…

Sau một hồi im lặng, bà d’Harville nói với Rodolphe:

- Tôi nghĩ chỉ có một cách, thưa Điện hạ, để bày tỏ lòng biết ơn của tôi… Đó là trình bày cùng ngài lời thú nhận mà tôi chưa từng ngỏ với ai. Lời thú nhận này không biện bạch được cho tôi dưới mắt ngài, nhưng nó có thể sẽ làm cho ngài thấy hành vi của tôi ít tội lỗi đôi chút.

- Thưa phu nhân, thành thật mà nói, - Rodolphe mỉm cười - vị trí của tôi đối với phu nhân, rất là khó nói…

Clémence ngạc nhiên trước giọng nói hầu như vui nhộn của Rodolphe, ngơ ngác nhìn ông:

- Làm sao, thưa Điện hạ?

- Nhờ một hoàn cảnh chắc hẳn phu nhân cũng đoán ra, tôi buộc phải đóng vai… người bà con. Còn về câu chuyện phiêu lưu, một khi phu nhân thoát ra khỏi cái bẫy ghê tởm mà bà Bá tước Sarah đã giăng, xin đừng lưu ý quá đáng như vậy… Nhưng, - Rodolphe tiếp tục với một vẻ đạo mạo dịu dàng và âu yếm - Hầu tước với tôi gần như anh em, cha tôi đã có lòng tri ân sâu sắc đối với cụ thân sinh Hầu tước. Do đó tôi thành thật chúc mừng phu nhân đã đem lại cho Hầu tước sự yên vui và lòng thư thái.

- Ấy cũng là vì ngài làm vinh dự cho ông d’Harville bằng tình bạn của ngài, thưa Điện hạ, tôi thấy cần trình bày cùng ngài, toàn bộ sự thật… và về sự lựa chọn mà ngài thấy có lẽ cũng đau đớn như thực tế nó là vậy… và về thái độ đối xử của tôi đã xúc phạm đến người mà Điện hạ coi như anh em.

- Thưa phu nhân, tôi sẽ rất sung sướng và tự hào về một biểu hiện nhỏ nhặt nhất về sự tin cậy của phu nhân. Tuy vậy cho phép tôi được trình bày với phu nhân về sự lựa chọn mà phu nhân nói tới, rằng tôi biết phu nhân đã hành động như vậy là do lòng thương hại chân thành hơn là do những lời năn nỉ của bà Bá tước Sarah Mac-Gregor, bà này có những lý do để làm hại đến thanh danh của phu nhân… Tôi còn biết rằng phu nhân đã do dự rất lâu trước lúc quyết định, đến giờ phút này phu nhân vẫn còn hối tiếc xiết bao.

Clémence nhìn vị Công tước, hết sức ngạc nhiên.

- Điều đó làm phu nhân kinh ngạc ư? Một hôm khác tôi sẽ nói điều bí mật này với phu nhân để tôi khỏi trở thành một thầy bói trong mắt phu nhân. - Rodolphe vừa nói vừa tủm tỉm cười. - Nhưng Hầu tước đã hoàn toàn bình tâm chưa?

- Thưa Điện hạ, tôi thật là khó chịu khi nghe ông ta xin lỗi vì đã ngờ vực tôi, và phấn khởi trước sự trầm lặng của tôi về những việc thiện tôi làm.

- Hầu tước sung sướng với ảo tưởng của ông ấy, phu nhân cũng đừng nên trách, ngược lại, cứ nên luôn luôn để ông ấy trong sự lầm lẫn dịu dàng này… Nếu tôi được phép nói một chút về câu chuyện ngẫu nhiên này, và nếu không phải là chuyện phu nhân… tôi sẽ nói rằng: không bao giờ một người đàn bà lại dễ thương với chồng hơn khi họ có một vài lầm lẫn nào đó còn giấu giếm. Người ta không nghĩ tới được tất cả những cử chỉ dịu dàng mơn trớn quyến rũ nhất mà một ý thức xấu gợi lên, người ta cũng không hình dung được tất cả những bông hoa tươi tắn nhất mà một sự phản bội đã làm nảy nở… Lúc tôi còn trẻ, - Rodolphe mỉm cười tiếp tục - tôi luôn cảm thấy, mặc dù tôi không muốn, một sự ngờ vực mơ hồ khi có những tình cảm âu yếm mặn mà. Và cũng như về phía tôi, tôi không bao giờ cảm thấy lợi thế hơn mỗi khi tôi có việc gì cần được tha thứ một khi người ta tỏ ra với tôi dễ thương một cách giả tạo, cũng như tôi muốn tỏ ra như thế. Tôi chắc chắn là sự thỏa thuận đáng yêu này… che giấu một sự thiếu chung thủy của cả hai bên.

Bà d’Harville mỗi lúc một ngạc nhiên nghe Rodolphe nhắc đến một câu chuyện ngẫu nhiên có thể đem lại cho nàng những hậu quả ghê gớm, nhưng đoán ngay rằng Công tước giả vờ đùa cợt như vậy để cố gắng giảm nhẹ tầm quan trọng của việc ông đã giúp nàng. Nàng bèn nói với Công tước, vô cùng xúc động vì sự tế nhị này:

- Thưa Điện hạ, tôi hiểu tấm lòng độ lượng của ngài. Bây giờ xin tùy ngài bông đùa và quên đi mối hiểm họa mà ngài đã kéo tôi ra khỏi. Nhưng những điều mà tôi sắp sửa thưa ngài nghiêm trọng là vậy, rầu rĩ là vậy, những cái đó có liên quan sâu sắc đến các sự việc sáng nay, những lời khuyên của ngài có thể rất hữu ích với tôi, và cầu xin ngài nhớ cho rằng ngài đã cứu vớt danh dự và cuộc đời tôi, vâng đúng đấy, thưa Điện hạ, cuộc đời… Chồng tôi đã mang vũ khí, ông ấy đã thú thật với tôi trong tận cùng hối hận, ông ấy đã muốn giết tôi…

- Trời ơi! - Rodolphe kêu lên với niềm xúc động dữ dội.

- Đó là quyền của ông ấy. - Bà d’Harville thốt ra một cách chua chát.

- Thưa phu nhân, - Rodolphe đáp lại rất nghiêm túc - tôi xin phu nhân hãy tin tôi, tôi không thể có thái độ thản nhiên trước những gì liên quan tới phu nhân. Nếu hồi nãy tôi bông đùa, ấy cũng bởi tôi không muốn làm nặng nề tâm tưởng của phu nhân về chuyện buổi sáng, có thể đã gây nên cho phu nhân một sự xúc động khủng khiếp. Bây giờ, thưa phu nhân, tôi xin kính cẩn nghe bà, bởi vì phu nhân đã có nhã ý cho tôi hay rằng những lời khuyên của tôi có thể có ích cho phu nhân một chút nào đó.

- Ôi, có ích lắm chứ, thưa Điện hạ, nhưng trước khi xin Điện hạ những lời khuyên ấy, hãy cho phép tôi ngỏ một đôi lời về cái quá khứ mà Điện hạ chưa tường… những năm tháng đã đến trước cuộc hôn nhân của tôi với ông d’Harville.

Rodolphe nghiêng người, Clémence tiếp tục:

- Mười sáu tuổi, tôi mất mẹ, - nàng kể, không ngăn được nước mắt tuôn rơi - tôi không nói với ngài rằng tôi yêu mẹ đến mức nào, nhưng xin Điện hạ thử hình dung, lý tưởng của lòng nhân hậu trên trái đất này. Tình yêu thương của bà đối với tôi thật là đến cực độ, bà đã tìm thấy ở đấy một niềm an ủi sâu xa cho những nỗi phiền muộn chua cay… Không thích giao du, sức khỏe không được tốt, thường ru rú ở nhà, niềm vui lớn nhất của bà là chăm lo đến việc học của tôi, bởi những kiến thức chắc chắn, đa dạng cho phép bà thực hiện, hơn bất cứ ai, nhiệm vụ mà bà đã tự đặt cho mình. Điện hạ hãy thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của bà, cả của tôi, khi tôi lên mười sáu tuổi, vào lúc mà việc học của tôi gần kết thúc, cha tôi viện cớ mẹ tôi ốm yếu, báo cho chúng tôi là một quả phụ trẻ rất lanh lợi mà những tai họa làm cho trở nên hết sức tội nghiệp, sẽ chịu trách nhiệm hoàn thành công việc mà mẹ tôi đã bắt đầu… Mẹ tôi lúc đầu không chấp nhận ý muốn của cha tôi. Bản thân tôi, tôi cũng van xin ông đừng đặt giữa mẹ tôi và tôi một người lạ. Mặc dù chúng tôi khóc lóc, cha tôi không chút động lòng. Bà Roland, vợ góa một đại tá, chết ở Ấn Độ, bà ta bảo thế, đến ở với chúng tôi và được giao trách nhiệm làm cô giáo của tôi.

- Sao? Có phải cái bà Roland mà cụ nhà đã làm lễ cưới ngay sau lễ cưới của phu nhân?

- Vâng, thưa Điện hạ!

- Bà ta hẳn là đẹp lắm!

- Nhan sắc bình thường thôi, thưa Điện hạ!

- Vậy thì phải hết sức trí tuệ?

- Ngoài sự giả dối, xảo quyệt, không còn gì hơn nữa. Lúc ấy bà ta khoảng hai mươi lăm tuổi, tóc màu hung nhạt, lông mi hầu như bạc, đôi mắt to tròn xanh sáng, vẻ mặt dịu dàng vờ vĩnh, tính tình nham hiểm tàn bạo, bên ngoài thì ân cần đến mức đê tiện.

- Còn học vấn của bà ta?

- Hoàn toàn chẳng biết gì, thưa Điện hạ, và tôi cũng không hiểu được tại sao cha tôi vốn rất tôn trọng lễ nghi hết mức, lại không nghĩ rằng: sự bất lực của người thiếu phụ này đã tiết lộ đến mức mang tai mắc tiếng lý do xác thực về sự có mặt của bà ta ở nhà ông. Mẹ tôi đã lưu ý cha tôi rằng bà Roland là một người rất dốt nát. Cha tôi trả lời mẹ tôi với một giọng không chấp nhận lời kháng biện rằng: dù thông thái hay không, người đàn bà góa trẻ tuổi và rất đáng thương ấy sẽ được giữ ở nhà ông với vị trí mà ông đã tạo cho bà ta. Mãi sau này tôi mới biết. Nhưng ngay lúc ấy bà mẹ tội nghiệp của tôi đã rõ ngọn ngành và đau buồn thấm thía, và tôi nghĩ rằng bà đã xót xa nhiều vì những sự hỗn loạn trong gia đình mà sự luyến ái này dẫn tới, hơn là vì sự thiếu chung thủy của cha tôi mà những lời đồn đại đến tận tai tôi.

- Nhưng mà, như vậy, cho dẫu chỉ nói về chuyện đắm say liều lĩnh, tôi thấy dường như cụ nhà đã làm một bài tính sai khi đưa thiếu phụ này vào gia đình mình.

- Sự ngạc nhiên của ngài sẽ càng tăng gấp bội, thưa Điện hạ, nếu ngài biết rằng cha tôi là một người rất câu nệ hình thức và cũng rất mực kiên quyết. Muốn dẫn ông ấy đến một sự bất chấp lễ nghi như vậy, phải là cái ảnh hưởng quá đà của bà Roland, ảnh hưởng ngày càng to lớn mà bà ta che giấu dưới vỏ ngoài là tình cảm đắm đuối mãnh liệt đối với cha tôi.

- Nhưng lúc bấy giờ cụ nhà bao nhiêu tuổi nhỉ?

- Khoảng sáu mươi.

- Thế mà cụ vẫn còn tin vào tình yêu của người phụ nữ trẻ này?

- Đồng thời cha tôi là một trong những người hợp thời thượng nhất. Bà Roland thì tuân theo bản năng hay là theo những lời khuyên khéo léo…

- Những lời khuyên… Thế có ai có thể khuyên bà ta?

- Lát nữa tôi sẽ trình bày cùng ngài, thưa Điện hạ. Đoán ra rằng con người có số đào hoa, đến lúc tuổi già rất ưa nghe phỉnh nịnh về những cái tô điểm bên ngoài hơn là những lời khen, nhắc nhở lại thời kỳ tươi đẹp nhất của đời mình, ngài có thể tưởng tượng được không, thưa Điện hạ, người đàn bà đã nịnh nọt cha tôi về vẻ duyên dáng, về vẻ đẹp của các đường nét, về vẻ thanh lịch không ai có được của thân hình và dáng điệu ông, và lúc ấy ông cụ đã sáu mươi tuổi… Mọi người đánh giá cao sự thông minh sắc sảo của ông, thế là ông đã mù quáng sa vào bẫy. Đấy đã là, tôi xin thưa như vậy, nguyên nhân ảnh hưởng của người phụ nữ này đến ông. Thưa Điện hạ, mặc dù những mối ưu tư rầu rĩ của tôi, tôi không thể ngăn nổi mình mỉm cười khi nhớ ra rằng trước ngày cưới của tôi, tôi đã luôn nghe nói, và điều này được bà Roland bảo vệ, về cái mà bà ta gọi là “độ chín chắn thực sự” là cái tuổi đẹp nhất trong đời. Sự chín chắn thật sự này, thật vậy chỉ bắt đầu khi tới năm mươi lăm hoặc sáu mươi tuổi.

- Tuổi của cụ nhà?

- Vâng, thưa Điện hạ! Như thế thì chỉ khi ấy, bà Roland nói, trí lực và kinh nghiệm mới đến độ phát triển cao nhất, và chỉ khi ấy, một người đặt ở bậc cao trong xã hội mới được hưởng tất cả sự quý trọng mà ông ta mơ ước và cũng chỉ khi ấy tổng thể các đường nét, vẻ duyên dáng của phong cách ông ta mới đạt tới mức hoàn thiện, diện mạo biểu lộ ở giai đoạn này có sự hòa hợp hiếm có và tuyệt diệu của sự thanh khiết duyên dáng, sự trầm mặc dịu dàng. Sau cùng, một dáng vẻ sầu muộn nhẹ nhàng, gây nên bởi những nỗi thất vọng mà kinh nghiệm luôn luôn đem đến, hoàn thiện sự quyến rũ chỉ có thể cảm nhận được, - bà d’Harville vội vã thêm ngay, - bởi những người phụ nữ vừa có trí tuệ, vừa có từ tâm, có thẩm mỹ cao, biết coi thường những hào nhoáng của tuổi thanh xuân hoảng loạn, của những kẻ dại dột ở tuổi bốn mươi mà tính cách chưa có chút gì gọi là bền vững và những nét ngây thơ vô vị, chưa được thi vị hóa bởi biểu hiện đĩnh đạc chứng tỏ kinh nghiệm sâu rộng của cuộc đời.

Rodolphe không ngăn được một nụ cười trước sự hăng say mỉa mai khi bà d’Harville phác họa chân dung của bà mẹ kế.

- Có một điều mà tôi không bao giờ tha thứ cho những kẻ lố bịch. - Ông nói với bà Hầu tước.

- Cái gì kia, thưa Điện hạ?

- Là họ độc ác… điều này ngăn ta cười thoải mái về họ.

- Có thể đây là điều họ tính toán. - Clémence nói.

- Tôi cũng tin như vậy, thật đáng tiếc, bởi vì, giả dụ tôi có thể quên rằng cái nhà bà Roland đã gây cho phu nhân biết bao phiền muộn thì tôi sẽ rất thích thú về cái phát minh “sự chín chắn thật sự” đối lập với cái thanh xuân liều lĩnh của những người dại dột ở tuổi bốn mươi, mà theo bà này thì dường như mới được “sống tự do” như các cụ thường nói.

- Nhưng ít ra, tôi tin như vậy, cha tôi lúc nào cũng sung sướng về những ảo tưởng mà bà mẹ kế dựng nên quanh ông.

- Và chắc chắn rằng ngay từ bây giờ, bị trừng phạt vì sự giả dối, bà ta đang gánh chịu những hậu quả của mối tình say đắm giả vờ của mình. Và cụ nhà ta đã tin lời bà ta, đã ân cần chăm sóc bà ta bằng sự chân tình. Thế nhưng, cho phép tôi được nói với phu nhân, cuộc sống của cụ nhà hẳn phải được sung sướng. Phu nhân hãy cứ hình dung niềm vui tự hào của một người sáu mươi tuổi, luôn thành công trong công việc, lại tin rằng còn được một phụ nữ trẻ yêu mình một cách say mê và gợi lên cho mình ý muốn được cùng mình đắm đuối trong một niềm cô tịch hoàn toàn.

- Như vậy, thưa Điện hạ, bởi lẽ cha tôi được sung sướng nên tôi cũng chẳng có gì để phàn nàn về bà Roland. Nhưng cách đối xử bỉ ổi của bà ta đối với mẹ tôi… nhưng cái phần khốn nỗi rất tích cực là bà ta đã tham gia vào đám cưới của tôi, gây nên sự oán ghét của tôi đối với bà ta. - Bà d’Harville nói sau một thoáng ngập ngừng.

Rodolphe nhìn bà ngạc nhiên.

- Ông d’Harville là bạn của ngài, thưa Điện hạ, - Clémence nhắc lại, giọng kiên quyết - tôi ý thức được tính nghiêm trọng của những lời tôi vừa thốt ra… Lát nữa ngài sẽ cho tôi hay nó có đúng đắn không. Bây giờ tôi xin trở lại với bà Roland, lúc ấy được đặt bên tôi, với tư cách là cô giáo mặc dù sự bất lực của bà ta đã được thừa nhận, về việc này, mẹ tôi đã có cuộc tranh luận gay gắt với cha tôi, và đã tuyên bố cho cha tôi biết, tối thiểu để phản đối vị trí không thể chấp nhận của người phụ nữ này, từ nay bà sẽ không có mặt trong bữa ăn, nếu bà Roland không lập tức rời khỏi nhà tôi. Mẹ tôi là hiện thân của sự dịu dàng nhân hậu nhưng bà trở nên kiên quyết không khuất phục khi đụng đến vấn đề phẩm cách cá nhân. Cha tôi không lay chuyển, mẹ tôi giữ lời hứa, từ đó chúng tôi hoàn toàn rút hẳn vào phòng mình. Cha tôi từ đó đã tỏ ra lạnh nhạt với tôi cũng như mẹ tôi, trong lúc bà Roland hầu như công khai tiếp khách tại nhà tôi, lúc nào cũng với tư cách là cô giáo của tôi.

- Có những hành động cực đoan nào mà một sự đam mê quá đáng không thể đưa đến ở những trí óc lỗi lạc nhất? Và người ta làm cho chúng ta tự hào bằng cách ca ngợi những phẩm chất hoặc những lợi thế mà chúng ta không có hoặc chúng ta không còn có nữa hơn là ca ngợi những cái mà chúng ta hiện có. Chứng tỏ cho một ông già sáu mươi tuổi rằng ông chỉ mới ba mươi, đấy là điều sơ đẳng của sự nịnh hót… Than ôi! Đám Công tước chúng tôi, chúng tôi biết điều đó.

- Người ta đã kể, về vấn đề này, biết bao kinh nghiệm về ngài, thưa Điện hạ…

- Về phương diện này, cụ nhà đã được coi như đức vua… nhưng cụ bà thì chịu đau đớn kinh khủng.

- Đối với tôi còn hơn đối với mẹ tôi, thưa Điện hạ. Vì bà nghĩ đến tương lai… sức khỏe của bà đã kém, lại càng suy sụp hơn nữa, bà bị đau nặng. Định mệnh khắt khe đã muốn người thầy thuốc của gia đình, ông Sorbier chết, mẹ tôi hoàn toàn tin tưởng ở ông, thương tiếc ông vô cùng. Thầy thuốc và bạn thân của bà Roland là một bác sĩ người Ý rất có tài, theo như bà ta nói. Cha tôi bị lừa nên đôi khi đã nhờ ông ta khám bệnh. Thấy ông ta chữa được, bèn giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi đồng ý và than ôi chính ông ta đã chữa cho bà trong lần mắc bệnh cuối cùng… - Nói tới đây, mắt bà d’Harville đẫm lệ. - Tôi rất xấu hổ thú thực cùng ngài sự yếu đuối này, thưa Điện hạ, vì người thầy thuốc bà Roland giới thiệu với cha tôi, ông ta đã gợi lên ở tôi (không bởi một lý do nào) một sự cách biệt không chủ ý. Tôi đã hoảng sợ thấy mẹ tôi tin tưởng ở ông ta, tuy vậy về phương diện khoa học, bác sĩ Polidori…

- Phu nhân nói gì, thưa phu nhân? - Rodolphe đột ngột ngắt lời.

- Ngài sao thế, thưa Điện hạ? - Clémence sửng sốt hỏi, trước nét mặt biến sắc của Rodolphe.

- Nhưng không, - Công tước tự nhủ mình - có lẽ ta lầm… chuyện cách đây đã đến năm, sáu năm, trong khi người ta nói với ta là Polidori chỉ mới ở Paris vào khoảng hai năm với một tên giả… chính hắn, ta đã thấy hôm qua… tên lang băm Bradamanti. Thế nhưng… hai thầy thuốc cùng tên… cuộc gặp gỡ kỳ lạ làm sao! Thưa phu nhân, xin cho biết một vài điều về ông bác sĩ Polidori này, - Rodolphe hỏi bà d’Harville, lúc ấy nhìn ông càng kinh ngạc hơn - khi đó ông ta bao nhiêu tuổi?

- Chừng khoảng năm mươi.

- Thế khuôn mặt ông ta? Diện mạo ông ta?

- Hung tợn… tôi không bao giờ quên được đôi mắt màu xanh sáng của ông ta… mũi ông ta khoằm như mỏ con đại bàng.

- Hắn ta rồi… Phải, chính hắn! - Rodolphe kêu lên. - Và thưa phu nhân, phu nhân có tin rằng bác sĩ Polidori vẫn còn ở Paris không? - Rodolphe hỏi bà d’Harville.

- Tôi cũng không rõ, thưa Điện hạ. Khoảng một năm sau ngày cưới của cha tôi, ông ta đã rời Paris. Một bà bạn của tôi, mà người Ý này cũng là thầy thuốc của bà hồi ấy, bà de Lucenay…

- Bà Công tước de Lucenay? - Rodolphe kinh ngạc hỏi lại.

- Vâng, thưa Điện hạ… nhưng tại sao Điện hạ lại ngạc nhiên thế?

- Xin cho tôi chưa nói rõ nguyên nhân… Nhưng vào thời kỳ này, bà de Lucenay đã nói với phu nhân về người này như thế nào?

- Rằng từ khi rời khỏi Paris, ông ta luôn viết cho bà những lá thư đầy trí tuệ về những quốc gia mình đã đến, bởi ông ta đi nhiều thật. Tôi nhớ cách đây khoảng một tháng, tôi hỏi bà de Lucenay có thường xuyên nghe tin về ông Polidori không, bà trả lời một cách lúng túng rằng từ lâu không nghe nói đến ông ta nữa, rằng không biết ông ta giờ ra sao, rằng một vài người nghĩ là ông ta đã chết.

- Lạ thật, - Rodolphe nói, nhớ tới buổi bà de Lucenay tới thăm tên lang băm Bradamanti.

- Thế ngài biết người này sao, thưa Điện hạ?

- Vâng, thật đáng phàn nàn cho tôi… Nhưng xin phu nhân làm ơn tiếp tục câu chuyện, sau này tôi sẽ nói lão Polidori là người thế nào…

- Sao kia? Người thầy thuốc này…?

- Phu nhân hãy nói rằng con người ấy đã vấy bẩn bởi những tội ác ghê tởm nhất.

- Những tội ác?… - Bà d’Harville kinh hãi la lên. - Ông ta đã phạm những tội ác, con người ấy… bạn thân của bà Roland và thầy thuốc của mẹ tôi! Mẹ tôi đã chết trong tay ông ta, sau mấy ngày lâm bệnh… Ôi! Thưa Điện hạ, người làm tôi hoảng sợ… Ngài cho tôi biết quá nhiều hay chưa đủ!

- Không tố cáo người này thêm một tội ác nào, không tố cáo sự giả dối kinh khủng của bà mẹ kế, tôi xin nói rằng có lẽ phu nhân nên cảm tạ Thượng đế về việc cụ nhà, từ sau ngày cưới bà Roland, đã không cần tới sự chăm sóc của Polidori.

- Trời đất ơi! - Bà d’Harville cất tiếng kêu xé ruột. - Như vậy linh cảm của tôi quả là đã không lừa tôi.

- Linh cảm của phu nhân?

- Vâng! Lúc nãy tôi có trình bày cùng ngài là tôi không thể nào gần gũi với viên thầy thuốc này, bởi lẽ ông ta đã được bà Roland đưa đến nhà tôi. Tôi chưa thưa hết với ngài, thưa Điện hạ…

- Sao kia?

- Tôi sợ đã tố cáo một người vô tội, đã quá lưu tâm đến sự chua cay của những niềm uất hận. Bây giờ tôi sẽ xin kể cho ngài tất cả ngọn ngành, thưa Điện hạ. Bệnh tình của mẹ tôi kéo dài được năm ngày, tôi luôn chăm sóc bà. Một hôm tôi ra khoảng vườn ở sân nhà cho thoáng, khoảng mười lăm phút, tôi trở vào, trên dãy hành lang chìm trong bóng tối, dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn phát ra ngoài từ cánh cửa phòng bà Roland, tôi thấy ông Polidori đi ra. Bà này đi theo. Tôi ở trong tối nên họ không nhìn thấy tôi. Bà Roland thì thầm với ông này một vài lời rất nhỏ, tôi không tài nào nghe nổi. Viên thầy thuốc trả lời cao giọng hơn: “Ngày kia”, và vì bà Roland lại thì thầm với ông ta, ông ta nhắc lại với giọng khác thường: “Ngày kia, tôi nhắc lại bà là ngày kia”…

- Những lời này nghĩa là thế nào?

- Cái đó nghĩa là sao, thưa Điện hạ? Chiều thứ Tư, ông Polidori bảo: “Ngày kia”… Thứ Sáu… mẹ tôi mất…

- Ôi, khủng khiếp quá!

- Lúc tôi biết suy nghĩ và hồi tưởng lại, hai tiếng “ngày kia” dường như báo trước ngày mất của mẹ tôi, trở lại trong ý nghĩ của tôi. Tôi tin rằng ông Polidori, nhờ khoa học biết được thời gian ít ỏi mà mẹ tôi còn sống, đã vội vã báo cho bà Roland, người có biết bao lý do để hoan hỉ về cái chết ấy. Chỉ điều ấy cũng đã làm tôi ghê tởm, người đàn ông và người đàn bà ấy… Nhưng chưa bao giờ tôi dám giả thiết… Ồ, không, không, cho mãi tới giờ phút này, tôi cũng vẫn chưa thể tin có một tội ác như vậy.

- Polidori là người thầy thuốc duy nhất đã chăm sóc bà cụ ư?

- Trước ngày mẹ tôi mất một hôm, người này đã đưa một đồng nghiệp đến hội chẩn. Theo như cha tôi, sau đấy thuật lại cho tôi biết, người thầy thuốc này thấy mẹ tôi bệnh tình rất nguy kịch… Sau sự kiện bi thảm này, người ta đưa tôi đến nhà một người bà con. Bà này rất quý mẹ tôi. Quên cả giữ gìn ý tứ trước một người ít tuổi như tôi, người này không đắn đo, cho tôi biết là tôi có những lý do chính đáng để oán ghét bà Roland. Bà chỉ rõ cho tôi những mơ ước tham lam mà người đàn bà đó có thể dự kiến ngay từ lúc đó. Sự phát hiện này hành hạ tôi, tôi hiểu ra tất cả những gì đã làm mẹ tôi phải chịu khổ đau. Khi gặp lại cha tôi, lòng tôi tan nát. Cha tôi đến tìm tôi để đưa tôi đến Normandie. Chúng tôi phải ở đấy thời kỳ đầu những ngày tang tóc. Trên đường đi, cha tôi khóc lóc và cho tôi biết, ông chỉ còn tôi để an ủi, giúp ông chịu đựng tai họa gớm ghê này. Tôi cũng đáp lời ông với tất cả lòng chân thành là tôi chỉ còn có ông, sau cái chết của người mẹ đáng tôn thờ nhất của tôi. Sau một vài lần nói về nỗi lúng túng khi ông buộc lòng phải để tôi một mình trong những lần vắng mặt mà công việc yêu cầu ông thỉnh thoảng thực hiện, không úp mở, ông cho tôi biết, coi đấy là điều hết sức tự nhiên, rằng rất may cho ông và cho tôi, là bà Roland đã đồng ý lo liệu việc trong gia đình, làm người hướng dẫn và là bạn của tôi. Sự ngạc nhiên, nỗi đau đớn, lòng phẫn nộ làm tôi câm lặng, tôi yên lặng khóc. Cha tôi hỏi vì sao tôi khóc, tôi kêu lên rất chua xót rằng không bao giờ tôi ở cùng nhà với bà Roland, vì tôi khinh bỉ cũng như tôi ghét bà ta bởi những phiền muộn mà bà ta đã gây ra cho mẹ tôi. Cha tôi bình tĩnh, phê phán cái mà ông gọi là trò trẻ con, và lạnh lùng bảo tôi là ý định của ông không lay chuyển được, và tôi chỉ việc tuân theo. Tôi van xin ông cho phép tôi được vào tu viện Sacré-Cœur, ở đấy tôi có vài người bạn. Tôi sẽ ở đấy cho tới khi ông quyết định cho tôi lấy chồng. Ông lưu ý tôi rằng thời kỳ người ta lấy chồng sau chấn song của tu viện đã qua rồi, rằng việc tôi vội xa ông đã làm ông rất xúc động, nếu ông không thấy trong lời lẽ của tôi một sự kích động có thể tha thứ được, tuy vẫn là thiếu ý thức, tất yếu sẽ lắng dần đi, rồi ông hôn lên trán tôi và gọi tôi là đồ bướng bỉnh. Than ôi! Quả thật tôi phải tuân theo. Xin Điện hạ hãy tưởng tượng nỗi đau khổ của tôi, hằng ngày sống gần gũi một người đàn bà mà tôi oán trách đã làm mẹ tôi phải chết… Tôi đã thấy trước những cảnh tượng khốc liệt nhất giữa cha tôi và tôi, không một lý do nào ngăn cản tôi tỏ rõ sự oán ghét đối với bà Roland. Tôi thấy như vậy tôi mới báo thù được cho mẹ tôi, trong khi một lời nói âu yếm dù nhỏ nhặt với bà ta, đối với tôi cũng là một điều xúc phạm đê hèn.

- Trời, cuộc sống như vậy hẳn đã làm cho phu nhân đau buồn biết mấy… Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng phu nhân đã chịu đau khổ đến thế, khi tôi có cái sung sướng được gặp phu nhân! Chưa bao giờ một lời phu nhân thốt ra làm tôi ngờ vực.

- Cho nên, thưa Điện hạ, tôi không có lý do để tự biện bạch dưới mắt ngài, về một lỗi lầm không thể tha thứ. Nếu tôi kể lể rất dài dòng với ngài như vậy về một giai đoạn trong cuộc đời tôi, thì là để ngài hiểu rằng, tôi đã ở trong một tình thế như thế nào khi tôi thành hôn… và tại sao, mặc dù có điều báo trước đáng lẽ phải thức tỉnh, tôi vẫn cứ lấy ông d’Harville. Đến Aubiers, khu trang trại của cha tôi, người đầu tiên ra đón chúng tôi là bà Roland. Bà ta đã đến ở khu này ngày mẹ tôi mất. Mặc dù dáng vẻ khiêm nhường và dịu dàng vờ vĩnh, bà ta đã thoáng lộ ra một niềm vui thắng lợi được che giấu vụng về. Không bao giờ tôi quên cái nhìn vừa mỉa mai vừa độc ác mà bà ta hướng về phía tôi, lúc tôi mới tới nơi. Bà ta dường như có ý bảo tôi: “Tôi ở đây là nhà của tôi, chính cô mới là người lạ.” Một nỗi phiền muộn mới lại đến với tôi. Hoặc do thiếu tế nhị không tha thứ được, hoặc do khinh suất vô liêm sỉ, người đàn bà này chiếm gian phòng của mẹ tôi. Trong cơn phẫn nộ, tôi than phiền với cha tôi về sự khiếm nhã như thế. Cha tôi nghiêm khắc răn tôi là không nên ngạc nhiên về những chuyện này cũng như phải quen dần việc kính nể và tôn trọng bà Roland như người mẹ thứ hai, tôi đáp lời ông, như vậy là làm nhơ bẩn danh hiệu thiêng liêng này, và trước cơn lôi đình của ông, tôi không bỏ lỡ một dịp nào để biểu lộ sự căm ghét bà Roland. Nhiều lần ông nổi giận và quở trách tôi gay gắt trước mặt người đàn bà này, ông lên án sự bạc bẽo của tôi, sự lạnh nhạt của tôi đối với “vị thiên thần an ủi mà Thượng đế đã ban cho chúng ta”. “Cha ơi, con xin cha hãy nói là ‘cho cha’” - một hôm tôi đáp lại ông như thế. Cha tôi đối xử với tôi một cách cay nghiệt. Bà Roland, với giọng ngọt ngào, can thiệp với một vẻ giả nhân giả nghĩa kinh người: “Hãy lượng thứ cho Clémence, - bà ta nói - những nỗi tiếc thương gợi lên cho cô ấy bởi con người tuyệt vời mà chúng ta rất mực xót thương rất tự nhiên, rất đáng khen, chúng ta phải quan tâm đến nỗi đau của cô ấy, thương cô ấy, ngay trong những lúc giận dữ.” - “Này, - cha tôi vừa bảo tôi vừa chỉ vào bà Roland một cách khâm phục, - con nghe chưa! Có phải bà thật nhân từ, thật khoan dung không? Con chỉ có thể đền đáp bằng cách ngả vào đôi tay của bà.” - “Cái đó vô ích, thưa cha. Bà ghét con… và con cũng ghét bà.” - “Chao ôi, Clémence, cô làm tôi phiền lòng thật đấy, nhưng tôi vẫn tha thứ cho cô. - Bà Roland nói thêm và ngước mắt nhìn trời.” - “Bà bạn ơi, bà bạn cao quý của tôi! - Cha tôi cảm động kêu lên. - Hãy bình tĩnh lại, tôi xin bà đấy! Bà hãy nể tôi mà thương lấy một con bé dại dột, thật đáng thương, đã không biết ơn bà như vậy!” Rồi ông quắc mắt giận dữ nhìn tôi: “Hãy coi chừng, - ông thét lên - nếu cô còn dám xúc phạm đến tâm hồn cao quý nhất thế gian này, phải lập tức xin lỗi bà ấy ngay.” - “Mẹ con trông thấy con và nghe tiếng nói của con… mẹ con sẽ không tha thứ cho sự hèn nhát này!” - Tôi đáp lại cha tôi, rồi bỏ đi, mặc cha tôi dỗ dành bà Roland và lau những giọt nước mắt giả tạo của bà ta… Xin lỗi Điện hạ, tôi nói quá nhiều về những chuyện vớ vẩn này, nhưng những chuyện ấy mới đem lại cho ngài một ý niệm về cuộc sống mà tôi phải chịu lúc bấy giờ.

- Tôi tưởng như được tham dự những chuyện nội bộ gia đình rất buồn nhưng cũng rất thật trong cuộc sống… Trong biết bao gia đình, nó đang tái diễn, và biết bao lần nữa nó còn tái diễn… Không gì dung tục bằng, và do đó, cũng không gì quỷ quyệt hơn cách xử sự của bà Roland. Cái giản đơn về phương tiện trong sự nham hiểm đã đặt bà ta vào tầm của bao mưu mô tồi tệ… Vả lại, không phải người đàn bà này quỷ quyệt, mà là cụ nhà thiếu sáng suốt. Nhưng với danh nghĩa nào, cụ nhà giới thiệu bà Roland với những người xung quanh?

- Với danh nghĩa cô giáo tôi và bạn tôi… và người ta cũng chấp nhận như vậy.

- Tôi không cần phải hỏi phu nhân là cụ nhà có sống trong một tình trạng cô đơn như vậy không?

- Ngoại trừ một vài cuộc thăm viếng thưa thớt do những quan hệ xóm giềng và công việc bắt buộc, chúng tôi không tiếp ai cả. Cha tôi hoàn toàn bị chi phối bởi sự say đắm hoặc chắc hẳn là chiều theo những lời khẩn khoản của bà Roland, chưa đầy ba tháng đã thôi để tang mẹ tôi, viện cớ là tang để tại tâm… Sự lạnh nhạt của ông đối với tôi ngày càng tăng, ông thờ ơ với tôi đến mức đã để một người ít tuổi như tôi mặc sức tự do. Tôi gặp ông ở buổi ăn trưa. Sau đó ông về phòng riêng với bà Roland, lúc này làm thư ký cho ông trong việc trao đổi thư tín về kinh doanh. Tiếp đó, ông đi với bà ta hoặc bằng xe ngựa hoặc đi bộ, và chỉ trở về nhà trước buổi ăn chiều một giờ… Bà Roland trau chuốt một cách tươi mát và duyên dáng; cha tôi ăn mặc cầu kỳ một cách lạ lùng so với tuổi; đôi khi, sau bữa ăn chiều, ông tiếp những người ông không thể không tiếp, sau đó chơi một ván bài với bà Roland đến tận mười giờ, rồi dẫn bà ta về phòng của mẹ tôi, kính cẩn hôn tay bà ta và rút lui. Về phần tôi, tôi có thể tùy nghi sử dụng thì giờ của mình, lên ngựa, có một gia nhân đi theo, hoặc tùy thích dạo chơi kéo dài trong những khu rừng bao quanh lâu đài. Đôi khi, buồn rũ rượi, tôi không có mặt tại bữa ăn trưa, cha tôi hầu như cũng chẳng bận tâm…

- Quên lãng kỳ quặc thật! Ruồng bỏ lạ lùng thay…

- Nhiều lần gặp một người hàng xóm trong khu rừng tôi cưỡi ngựa dạo qua, tôi từ bỏ các cuộc dạo chơi và không ra khỏi vườn nữa.

- Nhưng thái độ của người đàn bà ấy đối với phu nhân mỗi khi chỉ còn phu nhân và bà ta như thế nào?

- Cũng như tôi, bà ta hết sức tránh các cuộc gặp gỡ như vậy. Chỉ một lần duy nhất, ám chỉ một vài lời gay gắt nói với bà ta hôm trước, bà ta lạnh lùng bảo tôi: “Hãy coi chừng, cô muốn chống lại tôi… Cô sẽ bị gãy thôi.” - “Như mẹ tôi chứ gì? - Tôi trả lời bà ta. - Rất đáng tiếc, bà ạ… là ông Polidori không có ở đây để khẳng định với bà là chỉ đến… ‘ngày kia’.” Những lời này đã gây ở bà Roland một ấn tượng mạnh mẽ nhưng bà ta trấn tĩnh ngay được. Bây giờ, nhờ ngài, tôi biết được, thưa Điện hạ, bác sĩ Polidori là con người như thế nào, và ông ta có thể làm được những gì, nỗi sợ hãi mà bà Roland biểu lộ khi nghe tôi nhắc những lời bí ẩn ấy có thể xác nhận những sự ngờ vực khủng khiếp… Nhưng không, không, tôi không muốn tin điều ấy, tôi sẽ rất lo sợ khi nghĩ rằng cha tôi lúc này hầu như phó mặc cho người đàn bà này.

- Và bà ta đã trả lời như thế nào khi phu nhân nhắc lại những lời của Polidori?

- Trước hết bà ta đỏ mặt, rồi vượt lên xúc cảm của mình, bà ta lạnh lùng hỏi tôi là tôi định nói gì. “Khi nào bà ngồi một mình, bà ạ, bà hãy tự hỏi về vấn đề này, và tự trả lời mình.” Chỉ ít lâu sau đó xảy ra một cảnh tượng có thể nói là có tác dụng quyết định đến số phận của tôi. Trong nhiều bức tranh gia đình trang trí ở phòng khách nhà chúng tôi, có bức chân dung của mẹ tôi. Một hôm tôi không thấy nó nữa. Hai người hàng xóm ăn cơm với chúng tôi, một người là ông Dorval, chưởng khế trong xứ, đã luôn bày tỏ lòng tôn kính sâu sắc đối với mẹ tôi. Khi vào phòng khách, tôi hỏi cha tôi: “Bức chân dung của mẹ con đâu rồi?” - “Nhìn thấy bức ảnh là cha lại rất thương tiếc” - cha tôi lúng túng trả lời, và đưa mắt chỉ những người lạ đang chứng kiến cuộc đối thoại ấy. “Thưa cha, bức chân dung ấy bây giờ ở đâu?” Quay về phía bà Roland, cha tôi đưa mắt hỏi bà ta. “Ở kho đồ gỗ” - bà ta đáp, và đưa mắt nhìn tôi thách thức, tin rằng sự hiện diện của những người hàng xóm của chúng tôi ngăn cản tôi trả lời bà. Tôi lạnh lùng bảo bà ta: “Thưa bà, tôi chắc rằng cái nhìn của mẹ tôi hẳn phải đè nặng lên bà nhiều lắm, nhưng đấy không phải là lý do để xếp lên gác thượng chân dung của một người, mà khi bà gặp khốn cùng, đã rủ lòng nhân hậu cho phép bà sống trong gia đình của mình.”

- Hay quá! - Rodolphe tán thành. - Sự khinh thường lạnh lùng này thật đáng đời.

- “Này cô!” - Cha tôi quát lên. Tôi ngắt lời cha tôi: “Vậy cha có thừa nhận một con người đã thóa mạ một cách hèn hạ hương hồn người đàn bà đã cưu mang mình thì người đó chỉ đáng khinh bỉ và căm ghét không?” Cha tôi lặng đi một lát vì sửng sốt. Bà Roland mặt tím bầm vì hổ thẹn và tức giận, các ông hàng xóm rất lúng túng và ngồi yên. “Này cô! - Cha tôi nhắc lại. - Cô quên rằng bà đây là bạn của mẹ cô, cô quên rằng bà đã chăm sóc và còn tiếp tục chăm sóc đến việc giáo dục cô với một niềm ân cần như mẹ cô… cô lại cùng quẫn nghĩ rằng tôi công khai biểu lộ cùng bà lòng quý mến trân trọng nhất… Và bởi vì cô đã mạo muội thốt ra những lời cáu kỉnh bất nhã trước các vị đây, tôi nói cho cô rõ, những kẻ bạc bẽo và những kẻ hèn nhát là những kẻ đã quên những sự chăm sóc dịu dàng nhất, dám đem một nỗi bất hạnh cao quý trách cứ một người chỉ đáng quan tâm và tôn kính.” - “Thưa cha, con không dám bàn luận vấn đề này với cha.” - Tôi trả lời, giọng phục tùng. “Có lẽ tôi, tôi sẽ sung sướng hơn, - bà Roland thốt lên, lần này bị kích thích bởi cơn giận, ngoài giới hạn của sự thận trọng thường nhật - có lẽ cô hãy vui lòng, không phải là bàn luận, - bà ta chì chiết - mà thú nhận rằng, không hề chịu một chút ơn nhỏ nào của mẹ cô, tôi chỉ nghĩ đến sự thù ghét mà bà ta luôn tỏ ra với tôi, bởi vì chính là trái với ý muốn của bà, mà tôi…” - “Chao ôi! Thưa bà, - tôi ngắt lời bà ta vì lòng tôn trọng cha tôi, và vì ngượng ngùng cho chính bà ta nữa - bà hãy miễn cho tôi những phát hiện xấu hổ này, bà sẽ làm cho tôi hối tiếc đã để thốt ra những lời thú tội nhục nhã như vậy…” - “Làm sao, cô… - bà ta thét lên, hầu như mất trí vì giận dữ - cô dám bảo…” - “Tôi bảo, thưa bà, - tôi ngắt lời bà ta lần nữa - tôi bảo là mẹ tôi, khi hạ cố cho phép bà vào ở nhà mẹ tôi mà không đuổi bà ra khỏi nhà, theo đúng quyền hạn của mẹ tôi, đã chứng tỏ cho bà biết, qua sự khinh bỉ của mẹ tôi, là sự khoan dung của mẹ tôi đối với bà đã bị áp đặt.”

- Càng lúc càng quyết liệt hơn. - Rodolphe gật gù. - Thật là một sự hành tội hoàn toàn. Thế còn bà ta?

- Bà Roland phải sử dụng một biện pháp khá tầm thường mà cũng khá giản đơn là chấm dứt cuộc đối thoại, bà ta la to: “Trời ơi! Trời ơi!” và kêu lên là bị choáng. Nhờ sự kiện này, hai nhân chứng của màn kịch rút lui, viện cớ đi tìm người đến cứu. Tôi cũng đi theo họ, trong lúc cha tôi dành cho bà ta sự chăm sóc ân cần nhất.

- Sau đó, khi gặp lại phu nhân, chắc cụ nhà rất phẫn nộ?

- Sáng hôm sau, cha tôi đến gặp tôi, và bảo: “Để từ nay về sau không tái diễn những cảnh tương tự hôm qua nữa, cha nói cho con biết, ngay sau khi thời hạn để tang chấm dứt, cha sẽ cưới bà Roland. Vì vậy từ nay con phải đối xử với bà lễ độ và vị nể đúng như… vợ cha được hưởng. Vì những lý do đặc biệt, con phải lấy chồng trước khi cha làm lễ cưới, tài sản của mẹ con khoảng hơn một triệu, đấy là món hồi môn của con. Ngay từ hôm nay, cha sẽ lo liệu tích cực để đảm bảo cho con một cuộc hôn nhân xứng hợp bằng cách giải quyết một số đề nghị đã được đưa ra về công việc của con. Mặc dầu những lời can ngăn của cha, con vẫn khăng khăng đả kích một người rất thân thiết với cha, điều đó giúp cha hiểu giới hạn lòng quý mến của con đối với cha. Bà Roland không chấp nhận những điều vô luân như vậy tái diễn trước những người ngoài trong chính nhà của cha. Từ nay con chỉ được vào hoặc chỉ được ở lại trong phòng khách khi có cha hoặc bà Roland tại đó.” Sau cuộc nói chuyện cuối cùng, tôi càng sống cô độc hơn. Tôi chỉ còn gặp cha tôi vào những bữa ăn và những buổi này đã diễn ra trong một sự yên lặng nặng nề. Cuộc đời của tôi buồn tẻ đến nỗi tôi nóng lòng chờ đợi lúc cha tôi đề xuất một cuộc hôn nhân nào đấy để mà chấp thuận. Bà Roland thôi không nói xấu mẹ tôi nữa, nhưng lại phục thù bằng cách bắt tôi phải chịu đựng cực hình triền miên. Bà ta vờ vĩnh để làm tăng thêm nỗi đau đớn của tôi, sử dụng mọi vật dụng trước đây mẹ tôi thường dùng: chiếc ghế bành, chiếc máy dệt thảm, những cuốn sách trong thư viện riêng của mẹ tôi, cả tấm màn che bàn mà tôi đã thêu tặng mẹ, ở giữa có dấu tên. Người đàn bà này làm uế tạp mọi thứ…

- Vâng, tôi hiểu nỗi ghê tởm mà những việc làm uế tạp này đã gây ra cho phu nhân.

- Hơn nữa, sự cô đơn lại làm cho những nỗi ưu phiền thấm thía hơn nhiều…

- Thế phu nhân không có một ai… một ai đó để thổ lộ ư?

- Không một ai… Tuy vậy, tôi nhận được một bằng chứng của sự quan tâm làm tôi cảm động, và đáng lý đã làm tôi thấy rõ tương lai, nhân chứng trong màn kịch mà tôi đã đối xử khá quyết liệt với bà Roland là ông Dorval, một vị chưởng khế già và trung thực, trước đây đã được mẹ tôi giúp cho vài việc nhỏ như chăm sóc giùm một cô cháu gái. Theo lời cấm đoán của cha tôi, tôi không bao giờ tới phòng khách khi có người lạ ở đây… vậy là tôi không bao giờ gặp lại ông Dorval. Một hôm, tôi vô cùng kinh ngạc thấy ông đến, vẻ bí mật tìm tôi trên lối đi trong vườn, nơi tôi thường xuyên đi dạo. Ông bảo tôi: “Cô ạ, tôi sợ bị ngài Bá tước bắt gặp, vậy nên cô hãy đọc thư này, sau đó đốt đi, đây là một việc quan trọng đối với cô.” Rồi ông bỏ đi. Trong thư ông cho tôi biết về việc hôn nhân của tôi với Hầu tước d’Harville, đám này hầu như xứng hợp về mọi mặt; người ta cam đoan với tôi về những phẩm chất tốt đẹp của ông d’Harville, ông ấy trẻ tuổi, khá giàu, trí tuệ lỗi lạc, mặt mũi dễ ưa, thế nhưng gia đình hai thiếu nữ mà ông d’Harville lần lượt đến để đính hôn đã đột ngột hủy bỏ cuộc hôn nhân trù định. Ông chưởng khế không thể cho tôi biết lý do của sự từ bỏ ấy, nhưng ông nghĩ mình có nghĩa vụ báo cho tôi biết việc ấy, tuy nhiên không thể cho rằng nguyên nhân của sự từ bỏ này phương hại đến ông d’Harville. Hai thiếu nữ này, một người là con gái ông de Beauregard, công khanh nước Pháp, một người là con gái Huân tước Boltrop. Ông Dorval cho tôi biết câu chuyện riêng này bởi vì cha tôi rất nóng lòng hoàn tất cuộc hôn nhân của tôi, dường như không quan tâm một cách thích đáng đến những tình tiết mà người ta báo cho tôi biết.

- Thật vậy, - Rodolphe chêm vào sau mấy phút suy nghĩ - bây giờ tôi nhớ ra là Hầu tước, trong khoảng một năm, đã liên tiếp báo cho tôi về hai cuộc hôn nhân dự định sắp hoàn thành đột nhiên bị hủy bỏ, bởi một vài cuộc tranh luận về lợi tức.

Bà d’Harville mỉm cười chua chát và tiếp tục:

- Lát nữa ngài sẽ biết sự thật, thưa Điện hạ… Sau khi đọc lá thư của ông chưởng khế, tôi cảm thấy vừa lạ lùng vừa lo lắng. Ông d’Harville là ai? Cha tôi chưa bao giờ nói về ông ấy. Tôi cố moi móc một cách vô hiệu ký ức của tôi, tôi không nhớ ra được cái tên này. Sau đấy, tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy bà Roland đi Paris. Cuộc hành trình của bà ta kéo dài hơn tám ngày. Tuy vậy, cha tôi cảm thấy một nỗi phiền muộn sâu sắc về sự cách biệt thoảng qua. Ông trở nên cau có và càng thêm lạnh nhạt với tôi. Ông không buồn đáp lời tôi, một hôm tôi hỏi thăm sức khỏe ông: “Tôi đang ốm đây, và đấy là lỗi tại cô.” - “Tại con ư, thưa cha?” - “Hẳn thế chứ. Cô biết là tôi đã quen có bà Roland ở bên, và người phụ nữ tuyệt vời này bị cô lăng mạ, đã chỉ vì quyền lợi của cô mà thực hiện cuộc hành trình này, và vậy nên bà ấy phải xa tôi.” Biểu hiện quan tâm của bà Roland làm tôi sợ hãi, tôi linh cảm mơ hồ đây là về việc hôn nhân của tôi. Thưa Điện hạ, tôi xin để ngài hình dung nỗi vui mừng của cha tôi khi bà mẹ kế tương lai trở về. Ngày hôm sau, ông yêu cầu tôi đến phòng ông: chỉ có ông và bà Roland. “Từ lâu tôi đã nghĩ đến cuộc hôn nhân của cô. Một tháng nữa thì cô hết tang. Sáng mai, Hầu tước d’Harville sẽ tới đây, đấy là một người trẻ tuổi, rất phong nhã, giàu có, và trên hết là có khả năng bảo đảm hạnh phúc của cô. Ông đã thấy cô trong giới thượng lưu, ông thiết tha mong muốn cuộc hôn nhân này, tất cả mọi việc về lợi tức đã được giải quyết. Như vậy chỉ còn tùy thuộc vào cô để lễ cưới được tổ chức trước sáu tuần. Ngược lại, nếu do một sự thay đổi thất thường mà tôi không muốn dự liệu, cô từ chối cuộc hôn nhân gần như quá lòng mong đợi này, tôi vẫn cứ tổ chức lễ cưới của tôi, theo ý tôi, khi thời hạn chịu tang chấm dứt. Trong trường hợp sau, tôi cần tuyên bố cho cô rõ… sự có mặt của cô ở nhà tôi chỉ làm cho tôi dễ chịu khi cô hứa với tôi là tỏ rõ với vợ tôi sự ân cần âu yếm và lòng kính trọng mà bà đáng được hưởng.” - “Thưa cha, con hiểu rồi! Nếu con không lấy ông d’Harville, cha vẫn cưới vợ, vậy thì với cha, và với… bà, không còn có một vướng mắc nào khi con rút vào tu viện Sacré-Cœur.” - “Tuyệt đối không.” - Ông lạnh lùng đáp lời.

- Chao ôi! Đây không còn là sự nhu nhược nữa, đây là cả sự độc ác… - Rodolphe kêu lên.

- Ngài có biết, thưa Điện hạ, điều gì ngăn tôi không chút oán hờn với cha tôi không? Đấy là một thứ dự đoán cho tôi biết là một ngày kia ông sẽ phải trả giá, than ôi, khá đắt vì sự say mê cuồng nhiệt của ông với bà Roland… Và may thay, ngày ấy còn chưa tới.

- Thế phu nhân không nói gì với cụ nhà về điều ông chưởng khế già đã thông báo cho phu nhân về hai cuộc hôn nhân đã bị các gia đình mà ông d’Harville định kết thông gia đột ngột hủy bỏ ư?

- Có chứ, thưa Điện hạ… Hôm ấy, tôi xin cha tôi cho phép tôi được gặp một lúc để hầu chuyện riêng… Ông bảo tôi: “Tôi không có điều gì cần giữ kín với bà Roland, cô có thể trình bày trước bà.” Tôi im lặng, ông nghiêm khắc nhắc lại: “Một lần nữa, tôi không có điều gì cần giữ kín với bà Roland… Vậy cô hãy tỏ bày ý kiến một cách rõ ràng…” - “Thưa cha, nếu cha cho phép, con xin đợi lúc nào chỉ có một mình cha.” Bà Roland đột nhiên đứng dậy và đi ra ngoài. “Bây giờ thì cô thỏa mãn nhé… - ông bảo tôi. - Thôi được, nói đi.” - “Thưa cha, con không hề có chút trở ngại nào với cuộc hôn nhân mà cha trù định, chỉ hiềm, con được biết là ông d’Harville đã hai lần sắp cưới…” - “Phải, phải, - ông ngắt lời tôi giải thích - tôi đã hiểu việc gì rồi. Việc cắt đứt đã xảy ra sau những cuộc tranh luận về lợi tức, trong đó sự thận trọng của ông d’Harville vẫn hoàn toàn đảm bảo. Nếu cô không có ý kiến phản đối khác ý kiến vừa rồi, cô có thể coi như đã thành gia thất… và thành gia thất một cách tốt lành, bởi tôi chỉ muốn cô hạnh phúc.”

- Hẳn bà Roland cũng rất vui thích về cuộc hôn nhân này?

- Rất vui thích? Vâng, thưa Điện hạ. - Clémence đáp lại một cách chua chát. - Ôi! Vui thích vô cùng… bởi vì cuộc hôn nhân này là công trình của bà ta. Bà ta là người nêu ý kiến đầu tiên cho cha tôi… Bà ta biết lý do đích thực của hai lần hủy bỏ cuộc hôn nhân với ông d’Harville… Đấy là lý do tại sao bà ta sốt sắng đến chuyện hôn nhân của tôi đến thế.

- Nhưng nhằm mục đích gì?

- Bà ta muốn báo thù tôi bằng cách đẩy tôi vào một số phận khủng khiếp.

- Nhưng còn cụ nhà?

- Vì bị bà Roland lừa gạt, ông tưởng những dự định của ông d’Harville thất bại chỉ đơn thuần vì những cuộc tranh luận về lợi tức.

- Âm mưu kinh khủng quá! Những lý do bí mật ấy là thế nào?

- Lát nữa tôi sẽ trình bày cùng ngài, thưa Điện hạ. Ông d’Harville đến Aubiers, dáng vẻ tài trí, nét mặt ông làm tôi vui thích, ông có vẻ nhân hậu, tính nết dịu dàng, hơi buồn đôi chút. Tôi nhận thấy ở ông một sự tương phản làm tôi ngạc nhiên mà cũng làm tôi vừa ý; ông là người học thức, nhiều tài sản, dòng dõi trâm anh, tuy vậy, diện mạo ông đầy nghị lực và quả quyết, thường biểu thị một kiểu rụt rè gần như sợ sệt, một sự mệt mỏi và thiếu tự tin khiến tôi xúc động mạnh. Tôi cũng rất mến khi thấy ông biểu lộ lòng nhân từ khả ái đối với người lão bộc đã chăm sóc ông từ tuổi thơ ấu, và ông chỉ muốn được người này chăm sóc. Ít hôm sau khi tới nhà tôi, hai ngày liền ông d’Harville không ra khỏi phòng, cha tôi muốn gặp ông, nhưng người lão bộc từ chối, viện cớ là ông bị chứng đau nửa đầu dữ dội nên tuyệt đối không thể tiếp bất cứ ai. Lúc gặp lại ông d’Harville, tôi thấy ông xanh xao, thay đổi nhiều… Về sau đó, ông luôn cảm thấy một sự bứt rứt gần như phiền muộn khi người ta nhắc ông về sự khó ở thoảng qua này. Càng ngày càng biết rõ ông d’Harville, tôi càng thấy ở ông những phẩm chất đáng yêu. Ông có rất nhiều lý do để được sung sướng nhưng tôi rất vui khi thấy ông khiêm nhường trong hạnh phúc… Thời gian tổ chức lễ cưới của tôi đã được quyết định, ông luôn luôn đoán trước những điều mong muốn nhỏ nhất của tôi trong những dự định tương lai. Nếu một lúc nào đấy tôi hỏi ông về nguyên nhân nỗi u sầu, thì ông nhắc đến các cụ thân sinh ra mình, và bảo các cụ phải rất tự hào và phấn khởi khi thấy ông hoàn toàn thỏa mãn trong cuộc hôn nhân này. Tôi sẽ là con người thiếu phong nhã nếu không chấp nhận những lời thổ lộ tâm tình dễ chịu ấy… Ông d’Harville đoán biết những mối quan hệ trong cuộc sống chung giữa tôi và bà Roland và cha tôi, mặc dù cha tôi sung sướng vì cuộc hôn nhân của tôi đã giúp cho cuộc hôn nhân của ông được xúc tiến nhanh chóng hơn, đã trở lại rất thương yêu tôi. Trong nhiều cuộc trao đổi, ông d’Harville đã rất tế nhị và rất dè dặt làm cho tôi cảm thấy là có lẽ ông càng thương mến tôi nhiều hơn vì những nỗi sầu muộn của tôi… Tôi nhận thấy cần báo trước ông là cha tôi đã nghĩ đến chuyện tục huyền, và khi tôi nói với ông về sự thay đổi mà cuộc hôn nhân này có thể làm nảy sinh trong tài sản của tôi, ông không để cho tôi nói hết, và đã chứng tỏ một sự vô tư đáng quý. Những gia đình mà ông định kết thân trước đây hẳn phải rất so đo, tôi thầm nghĩ, nên đã gây ra những khó khăn lớn trong việc thảo luận về lợi tức với ông.

- Đúng là ông ấy như thế, như tôi từng biết lâu nay. - Rodolphe lên tiếng, lòng tràn ngập nỗi mến thương, tận tâm và tế nhị - Thế phu nhân không bao giờ hỏi ông ấy về hai cuộc hôn nhân bị hủy sao?

- Thưa Điện hạ, xin thú thực cùng ngài là thấy ông trung thực như vậy, nhân từ như vậy, câu hỏi này nhiều lần gần được thốt ra… nhưng liền ngay đấy sợ làm thương tổn đến sự trung thực ấy, lòng nhân từ ấy, tôi không dám đề cập đến nữa. Càng gần đến ngày ấn định tổ chức lễ cưới, ông d’Harville càng tỏ ra là mình sung sướng… Tuy nhiên một vài lần tôi thấy ông ủ ê sầu muộn… Một hôm ông chăm chăm nhìn tôi, trong khóe mắt long lanh giọt lệ, ông có vẻ như bị dồn nén, có lẽ ông muốn nhưng không dám thổ lộ với tôi một bí mật quan trọng… Ký ức về sự cắt đứt hai cuộc hôn nhân trở lại trong ý nghĩ tôi. Tôi thú thật là tôi sợ… một linh cảm huyền bí báo hiệu cho tôi rằng có thể đây là một nỗi bất hạnh cho đời tôi… Nhưng ở nhà cha tôi, tôi bị o ép quá, nên tôi vượt lên mọi điều sợ hãi…

- Thế ông d’Harville không thổ lộ tí nào với phu nhân ư?

- Không một chút nào… Khi tôi hỏi nguyên nhân về nỗi u sầu của ông, ông ấp úng: “Hãy tha thứ cho anh, anh sống trong một hạnh phúc đau buồn…” Những lời này thốt lên bằng giọng cảm động, làm tôi yên tâm đôi chút… Vả lại, làm sao tôi nỡ… ngay lúc ông chứa chan nước mắt, tỏ rõ một sự ngờ vực quá xúc phạm đến quá khứ của ông? Những nhân chứng của ông d’Harville, ông de Lucenay và ông de Saint-Remy, tới Aubiers một vài ngày trước đám cưới của tôi, chỉ những người bà con gần nhất mới được mời tới. Ngay sau buổi lễ tại nhà thờ, chúng tôi phải đi Paris. Tôi không cảm thấy yêu ông d’Harville, tôi chỉ quan tâm đến ông mà thôi, tính tình ông đã gợi lên ở tôi lòng quý mến. Nếu không có những việc tiếp theo cuộc hôn nhân bất hạnh ấy, chắc là một tình cảm dịu dàng hơn đã gắn bó tôi với ông. Thế là chúng tôi cưới nhau.

Nói tới đây, bà d’Harville thoáng tái người đi, như muốn bỏ dở câu chuyện. Nhưng rồi nàng trấn tĩnh lại:

- Ngay sau đám cưới tôi, cha tôi dịu dàng ôm tôi, bà Roland cũng hôn tôi, trước mặt mọi người tôi không thể lẩn tránh biểu hiện giả đạo đức này. Với bàn tay trắng không nhuần nhụy, bà ta nắm chặt tay tôi đến mức làm tôi khó chịu và thủ thỉ bên tai tôi với một giọng dịu dàng vờ vĩnh, nham hiểm những câu mà tôi không bao giờ quên được… “Giữa niềm hạnh phúc của cô, thi thoảng cũng nên nhớ đến tôi, vì chính tôi đã tác thành cho cuộc hôn nhân này.” Than ôi! Tôi chưa hiểu hết được ý nghĩa đích thực trong câu nói của bà ta. Lễ cưới của chúng tôi cử hành lúc mười một giờ, ngay sau đó chúng tôi lên xe… có một thị nữ theo tôi và người lão bộc theo ông d’Harville. Chúng tôi đi nhanh tới mức trước mười đêm đã đến Paris. Tôi hẳn đã rất ngạc nhiên về sự yên lặng và nỗi u sầu của ông d&r