← Quay lại trang sách

Chương 8 TIẾN CỬ

… Điều xấu mà kẻ ác làm một cách vô ý thức thường tàn nhẫn hơn là điều xấu mà chúng muốn làm.

SCHILLER (Wallenstein)

Vài ngày sau vụ giết mụ Séraphin, cái chết của mụ Vọ và việc bắt giữ bọn cướp ở nhà Cánh Tay Đỏ, Rodolphe trở về phòng trọ ở phố Temple.

Như chúng tôi đã nói, để chống lại Jacques Ferrand, phát hiện tội ác lâu nay lão giấu kín, và do khéo léo, giả tạo, lão đã thoát được pháp luật, để buộc lão phải đền nợ và trừng phạt lão, Rodolphe đã đưa một cô gái lai da đen, người vợ không chung thủy của ông David, từ một nhà tù ở Đức đến Paris.

Trước ngày đến Paris, cô gái xinh đẹp lộng lẫy, say đắm nhưng vô cùng nguy hiểm này đã nhận được những chỉ dẫn chi tiết của Nam tước de Graün.

Người ta biết trong cuộc trao đổi gần nhất giữa Rodolphe với bà Pipelet, Rodolphe yêu cầu bà này phải khéo léo giới thiệu Cecily với mụ Séraphin để thay thế Louise Morel làm hầu gái trong nhà lão chưởng khế. Mụ ta đã nhận lời và hứa sẽ thưa với lão Jacques Ferrand bằng những lời lẽ thuận lợi nhất ngay buổi sáng cái ngày mụ bị dìm ở đảo Ravageur.

Rodolphe đến đó để biết rõ kết quả việc tiến cử Cecily ra sao.

Khi bước vào phòng, ông vô cùng ngạc nhiên, đã mười một giờ sáng, ông Pipelet vẫn đang nằm và bà Anastasie đang đứng bên giường cho ông chồng uống nước.

Alfred, cả mặt và trán bị che lấp bởi chiếc mũ lông lớn, không trả lời. Bà cho là ông đang ngủ, quay ra thì gặp Rodolphe. Lập tức bà đứng nghiêm giơ tay chào theo kiểu nhà binh:

– Người hầu của ông, thưa vị chúa tể các khách trọ của tôi. Ông thấy đấy, tôi bối rối, sửng sốt, mệt lử. Rất nhiều chuyện lôi thôi trong nhà, chưa kể là ông Alfred nằm liệt giường.

– Có chuyện gì vậy?

– Điều đó còn phải hỏi làm gì ạ?

– Sao cơ?

– Vẫn cái trò ấy. Con quỷ ngày càng bám riết Alfred. Nó làm tôi u mê. Tôi không biết làm gì nữa.

– Lại Cabrion. Có đúng là con quỷ đó không?

– Tôi tin như thế, thưa ông Rodolphe, vì tên khốn kiếp đó luôn đoán được những lúc tôi ra khỏi cửa. Tôi vừa quay gót thì, hấp, hắn đã ở đây, ám ảnh ông chồng già của tôi. Hôm qua, trong lúc tôi đến nhà ông Ferrand, ở nơi ấy cũng có những chuyện mới.

– Còn Cecily? – Rodolphe sôi nổi hỏi. – Tôi vừa được biết…

– Xin ông đừng làm tôi rối trí. Tôi có nhiều chuyện để kể. Ông sẽ làm tôi quên nếu ông làm đứt dòng suy nghĩ của tôi.

– Thôi được, tôi nghe đây.

– Trước hết, chuyện trong nhà. Ông có nghe tin và hình dung là người ta đến bắt mụ Burette?

– Bà cầm đồ ở tầng hai à?

– Lạy Chúa! Đúng. Hình như bà ta có một nghề khác ngoài nghề cầm đồ. Bà ta ở trên đó oa trữ, đúc, ăn cắp, buôn đồ cũ, kiếm lời bất chính. Tóm lại, bà ta làm tất cả những gì khốn nạn. Điều tồi tệ nhất là người tình già của bà ta, lão Cánh Tay Đỏ, người thuê nhà chính của chúng tôi, cũng bị bắt. Thưa ông, có phải là một sự náo động thật sự trong khu nhà không ạ?

– Cánh Tay Đỏ cũng bị bắt à?

– Vâng, tại quán của lão ở Champs-Élysées. Người ta bắt cả thằng con lão, thằng bé thọt hung ác. Người ta nói rằng trong nhà lão đã diễn ra nhiều vụ giết người. Bọn chúng là một băng cướp, trong đó mụ Vọ, bạn của mụ Burette, đã bị bóp cổ, và nếu người ta không đến kịp thì chúng đã giết bà Mathieu, người môi giới giao đá quý cho ông thợ mài ngọc Morel nghèo khổ.

– Cánh Tay Đỏ bị bắt, mụ Vọ chết! – Rodolphe tự nhủ một cách ngạc nhiên. – Con mụ hung ác đó xứng đáng với số phận đó. Cô bé Marie ít ra cũng được trả thù.

– Nhưng đấy là những gì diễn ra ở đây, chưa kể đến chuyện Cabrion, tôi sẽ lập tức thanh toán với tên côn đồ này. Ông sẽ thấy đáng xấu hổ như thế nào. Khi người ta bắt mụ Burette, và tôi biết Cánh Tay Đỏ cũng bị bắt, tôi nói với ông già thân yêu của tôi: “Có nên báo ngay cho ông chủ không?” Thế là Alfred đi. Sau hai giờ, ông ấy trở về nhưng trong tình trạng trắng bệch và thở như một con bò.

– Còn sao nữa?

– Thưa ông, ông sẽ biết. Ông hình dung cách đây vài bước chân, có một bức tường trắng. Ông già thân yêu của tôi vừa ra khỏi nhà thì vô tình nhìn vào bức tường, ông ấy thấy những chữ to viết bằng than: Pipelet-Cabrion, hai chữ gắn với nhau bằng một gạch nối. Chính cái gạch nối đó làm ông già của tôi lo sốt vó. Đi mười bước nữa, ông ấy thấy ở cánh cửa to trước chợ Temple, lại là Pipelet-Cabrion có một cái gạch nối. Ông ấy tiếp tục đi, và cứ mỗi bước, thưa ông Rodolphe, ông ấy lại thấy những cái tên ấy trên các nhà, các cửa. Ông già của tôi hoa mắt lên. Ông ấy tưởng như là tất cả mọi người qua đường đều nhìn mình. Ông ấy chụp mũ xuống tận mũi, vô cùng xấu hổ. Ông ấy đi về phía đại lộ, tin rằng tên khốn nạn đó không còn viết bậy nữa, nhưng buồn thay, khắp đại lộ, ở bất cứ chỗ nào có thể viết được đều thấy Pipelet-Cabrion. Cuối cùng ông già đáng thương của tôi, đầu óc rối mù, đến ông chủ nhà, ấp a ấp úng, loanh quanh đến mười lăm phút. Ông này vẫn không hiểu gì cả nên đã tống cổ ông ấy ra, gọi là đồ ngu, và dặn ông ấy bảo tôi đến giải thích rõ. Alfred ra về theo con đường khác để tránh nhìn thấy những cái tên viết trên tường, vâng, đúng vậy.

– Vẫn chuyện Pipelet-Cabrion!

– Đúng vậy. Thưa ông, chúa tể thuê nhà của chúng tôi, ông già đáng thương về đến nhà u mê, mất hồn, muốn bỏ nhà ra đi. Ông ấy kể cho tôi nghe. Tôi hết lời an ủi ông ấy. Tôi để ông ấy ở nhà và đưa cô Cecily đến nhà lão chưởng khế. Thưa ngài, ngài tưởng đã hết sao? Tôi vừa quay lưng ra thì tên Cabrion đã rình trước. Hắn dám dẫn đến nhà tôi hai con điếm. Ông biết không, tóc tôi dựng đứng lên. Lát nữa tôi sẽ nói với ông về chuyện đó. Bây giờ tôi xin nói về lão chưởng khế. Tôi đi bằng xe ngựa với cô Cecily như ngài đã dặn. Cô ấy mặc bộ đồ nông dân Đức, coi như cô ấy chưa có thì giờ may một bộ đồ khác, như tôi đã thưa với ông chưởng khế. Thưa ngài chúa tể thuê nhà của chúng tôi, nếu ngài muốn, ngài có thể tin ở tôi, tôi đã thấy nhiều cô gái đẹp, tôi cũng đã tự chiêm ngưỡng mình thời thanh xuân, nhưng chưa bao giờ tôi thấy có cô gái nào đẹp bằng. Cô ấy có cái nhìn, qua đôi mắt to, đen đến là “ác”, một cái gì đó, một cái gì đó… Tóm lại, người ta không hiểu là cái gì, nhưng chính xác là một cái gì đó làm người ta phải chú ý. Đôi mắt kỳ diệu! Tóm lại, thưa ngài, ngay cả ông già nhà tôi, lần đầu tiên cô ấy nhìn ông, mặt ông ấy đỏ như một quả cà chua, ông già yêu quý đáng thương của tôi. Ông ấy đã cựa quậy một tiếng đồng hồ trên ghế, cứ như ngồi trên gai vậy. Sau đó ông ấy nói với tôi là không hiểu sao ông ấy lại như vậy, nhưng chính cái nhìn của Cecily làm cho ông ấy nhớ lại một chuyện về tên Bradamanti với những cô gái man rợ làm ông phải đỏ mặt.

– Nhưng lão chưởng khế, lão chưởng khế thì sao?

– Tôi nói đây, thưa ngài Rodolphe, lúc đó vào khoảng bảy giờ tối. Tôi bảo người gác cổng theo lời dặn của bà Séraphin. Nghe nói thế, người gác cổng thở dài và hỏi tôi có biết chuyện gì xảy đến với bà Séraphin không. Tôi nói là không biết. Ôi, thưa ngài Rodolphe, lại một nỗi sợ hãi nữa.

– Chuyện gì kia?

– Bà Séraphin đã bị chết đuối, trong một chuyến đi cùng với người họ hàng của bà ta.

– Chết đuối? Một chuyến đi chơi mùa đông? – Rodolphe ngạc nhiên hỏi.

– Lạy Chúa, thưa vâng, ngài Rodolphe, đúng là chết đuối. Chuyện đó làm tôi ngạc nhiên hơn là buồn vì kể từ khi xảy ra chuyện đau khổ của con bé Louise đáng thương mà bà ta tố giác. Tôi khinh ghét cái bà Séraphin ấy. Thật thế, tôi tự nhủ: “Bà ta chết đuối, được, bà ta cứ chết đuối. Còn tôi không vì thế mà tôi chết.” Đó là tính cách của tôi.

– Còn ông Ferrand?

– Người gác cổng lúc đầu nói với tôi là anh ta không thể tin là tôi sẽ được vào nhà, chỉ trong chốc lát, anh ta đến tìm tôi. Chúng tôi đi qua sân và vào một phòng ở tầng trệt. Ở đó chỉ có một ngọn đèn le lói. Ông chưởng khế ngồi ở góc lò sưởi, trong đó còn một ít củi đang tàn lụi. Tôi chưa bao giờ gặp ông ta, ôi, sao trông ông ta đê tiện thế. Loại ấy thì dù có dâng ngai vàng cho tôi để tôi phụ bạc ông Alfred, tôi cũng không thèm!

– Ông chưởng khế có chú ý đến sắc đẹp của Cecily không?

– Làm sao biết được thái độ của ông ta qua cặp kính xanh ấy. Trông ông ta như một lão già giữ kho đồ thánh, như thế thì biết gì về phụ nữ. Tuy nhiên khi cả hai chúng tôi vào, ông ta như giật thót trên ghế, chắc là ngạc nhiên thấy bộ quần áo kiểu vùng Alsace của Cecily, vì cô ấy có dáng điệu của một người buôn chổi nhỏ, váy ngắn, đôi chân đẹp, mang tất ngắn xanh cạp đỏ. Cha, trời, bắp chân đẹp làm sao! Mắt cá rất nhỏ và đôi bàn chân thật xinh. Tóm lại, ông chưởng khế tỏ ra thộn thộn khi thấy Cecily.

– Hẳn là do bộ đồ khác đời của Cecily làm ông ta kinh ngạc?

– Phải tin là thế, và lúc khôi hài sắp tới. May sao tôi lại nhớ đến câu châm ngôn mà ông đã cho tôi biết, thưa ông Rodolphe, lối thoát của tôi đấy!

– Câu châm ngôn nào?

– Ông biết rồi mà: “Đã khá đủ để một kẻ này muốn khiến cho kẻ kia không muốn. Hoặc là kẻ này mà không muốn thì khiến kẻ kia sẽ phải muốn.” Thế rồi tôi tự bảo: “Mình phải làm thế nào loại bỏ được con bé người Đức cho ông Vua-khách-trọ bằng cách gạt cái nợ ấy cho lão chủ của Louise. Cố lên! Mình sẽ đóng kịch.” Và thế là tôi đã nói với lão chưởng khế, không để cho lão kịp thở. “Xin lỗi, cô cháu tôi chỉ có quần áo kiểu quê hương như thế, tôi không có gì để may cho cô ấy kiểu khác, hơn nữa là không cần thiết vì ông đã đồng ý gặp Cecily qua lời bà Séraphin sau những điều mà tôi đã nói về cô ấy. Nhưng tôi không tin là cô ấy có thể đáp ứng được yêu cầu của ông.”

– Tốt lắm, bà Pipelet ạ!

– “Vì sao cháu gái của bà lại không hợp ý tôi?” Lão chưởng khế hỏi vẫn ngồi yên trong góc lò sưởi và nhìn chúng tôi qua cặp kính. “Bởi vì Cecily cảm thấy sầu xứ, thưa ông. Cô ấy đến đây chưa được ba ngày nhưng đã muốn quay về, dù cho cô ấy có phải đi ăn xin bằng cách bán những chiếc chổi nhỏ bên đường như những đồng hương của mình.” – “Thế bà, bà là bà con của cô ta. Bà đau buồn về chuyện đó?” – “Chết chửa. thưa ông, tôi là bà con của cô ấy, đúng thế. Nhưng cô ấy mồ côi, cô ấy hai mươi tuổi, cô ấy tự chủ được mọi hành động.” – “À, à, làm chủ được mọi hành động của mình. Ở tuổi này, người ta vẫn cần nghe lời cha mẹ.” Lão chưởng khế bất thần nói. Lúc đó Cecily sụt sùi khóc và run rẩy ôm lấy tôi. Lão chưởng khế làm cô ta sợ, đúng thế!

– Thế còn ông Jacques Ferrand?

– Ông ta lẩm bẩm: “Bỏ một cô gái ở lứa tuổi này chính là làm hại cho cô ta. Quay về Đức bằng cách đi ăn xin. Đẹp nhỉ! Và bà dì của cô ta, bà có đau khổ về cách xử sự như thế không?” – “Tôi là dì nó, đúng thế!” Tôi cằn nhằn trả lời. “Nó là một đứa cháu tội nghiệp của tôi! Tôi đã có nhiều gánh nặng rồi. Tôi cũng muốn đẩy nó đi cho rồi. Trời tru đất diệt những người mẹ đã đem một cô con gái lớn cho người như thế này mà chẳng hề cho nó biết tí gì cả.” Nghe thấy thế, Cecily chảy nước mắt, lúc đó lão chưởng khế nói như người giảng đạo: “Bà hãy tin vào sự ký thác của Chúa. Bà sẽ phạm tội khi đẩy cô gái này vào chỗ tha hóa. Tôi bằng lòng giúp bà làm một việc từ thiện, nếu cháu bà hứa với tôi là sẽ cần cù, thật thà và ngoan đạo, nhất là đừng có bao giờ, không bao giờ ra khỏi nhà tôi, thì tôi sẽ thương hại và nhận nó vào giúp việc cho tôi.” – “Không, không, tôi muốn quay về xứ sở của tôi.” Cecily vừa nói vừa khóc tiếp.

“Tật dối trá nguy hiểm ở ả này đâu có thiếu! – Rodolphe nghĩ. – Cái con quái đó đã quá hiểu mệnh lệnh của Nam tước de Graün.” Rồi ông hoàng nói to:

– Ông Ferrand có phật ý trước sự khước từ của Cecily không?

– Vâng, có! Ông ta lầu bầu trong miệng rồi đột nhiên nói: “Đây không phải là chuyện cô thích hay không, mà là chuyện có hợp tình hay không. Chúa sẽ không bỏ cô nếu cô có hạnh kiểm tốt và làm tốt nhiệm vụ. Nếu dì cô không thật yêu mến cô, dì cô sẽ được lợi về quà tặng của tôi. Ban đầu cô sẽ nhận lương thấp, nhưng nếu cô khôn ngoan và khéo léo thì sau này có thể tôi sẽ nâng lương cao hơn.” Tốt, tôi nghĩ đã thắng được lão chưởng khế, gắn được Cecily với lão, lão già biển lận, lão già không tim! Bà Séraphin đã giúp việc cho lão nhiều năm như thế mà lão không hề tỏ ra mảy may thương tiếc khi bà ta chết đuối hôm qua. Và tôi nói thêm: “Không nghi ngờ gì nữa thưa ông. Được làm trong nhà ông thì còn gì hơn, nhưng nếu cô ấy cứ buồn nhớ cố hương…” – “Nỗi buồn đó sẽ qua thôi, ông chưởng khế nói. Này hãy quyết định đi! Đồng ý hay không? Nếu bà đồng ý thì chiều mai đưa cháu bà đến, cũng vào giờ này, và cô ta sẽ nhận việc ngay. Người gác cổng của tôi sẽ giao việc cho cô ta. Còn về tiền lương, tôi trả hai mươi franc mỗi tháng, cơm nuôi.” – “Dạ, thưa ông, xin ông cho thêm năm franc nữa.” – “Không, sau này nếu tôi vừa lòng, chúng ta sẽ nói chuyện sau. Nhưng tôi cần nói trước là cháu bà không bao giờ được ra khỏi đây và sẽ không một ai được vào thăm cô ta.” – “Ôi, lạy Chúa, thưa ông, ông muốn ai sẽ đến thăm cô ấy? Cô ấy chỉ biết có tôi ở Paris, còn tôi thì lại bận nhiều việc. Phải đưa cô ấy đến đây đã là chuyện bất đắc dĩ. Ông sẽ không bao giờ gặp lại tôi, và cô ấy sẽ xa lạ với tôi như chưa bao giờ đến Paris này. Còn về việc con bé không ra khỏi nhà thì có một cách rất đơn giản là cứ để nó mặc bộ đồ này. Con bé không dám mặc như thế mà đi ra phố đâu.” – “Bà nói có lý!” Lão chưởng khế bảo tôi. “Vả lại cứ giữ bộ quần áo quê mình là đáng kính trọng đấy. Nó cứ việc mặc quần áo kiểu Alsace.” – “Này, Cecily!” Tôi bảo cô ta lúc đó vẫn cứ đang cúi đầu thổn thức. “Cháu phải quyết định đi, cháu của dì. Một chỗ làm tốt trong một gia đình tử tế không phải lúc nào cũng tìm được. Vả lại nếu cháu từ chối, cháu sẽ tự thu xếp như cháu muốn, dì không can thiệp nữa!” Nghe thế, Cecily đau buồn, thở dài mà trả lời là cô ấy đồng ý ở lại nhưng với một điều kiện là nếu trong vòng mười lăm ngày, nỗi sầu xứ mà giày vò quá đáng thì cô ấy sẽ ra đi. “Tôi không muốn ép cô ở lại.” Ông chưởng khế nói. “Tôi không khó khăn gì để kiếm một người đầy tớ gái. Đấy là ý kiến cuối cùng. Dì cô chỉ việc dẫn cô lại đây ngày mai.” Cecily vẫn không ngớt thổn thức. Cuối cùng tôi đồng ý nhận bốn mươi xu tiền phong bao đưa người của lão già keo kiệt đó và chúng tôi đã quay trở lại đây.

– Tốt lắm, bà Pipelet ạ! Tôi không quên lời hứa. Đây là cái tôi hứa với bà, nếu bà bố trí được việc cho cô gái đáng thương này.

– Hãy chờ đến ngày mai đã, thưa ngài chúa tể của những người thuê nhà. – Bà Pipelet nói và từ chối món tiền của Rodolphe. – Vì biết đâu ông chưởng khế sẽ thay đổi ý kiến, nếu tối nay tôi đưa cô ấy đến.

– Tôi không tin là ông ta sẽ thay đổi ý kiến. Nhưng cô ấy đâu rồi?

– Trong phòng phụ, thuộc phòng ông chỉ huy. Cô ấy chỉ nhúc nhích khi có mệnh lệnh của ông. Cô ấy có thái độ cam chịu như một con cừu, mặc dù cô ấy có đôi mắt, ôi, đôi mắt… À này, về cái ông chỉ huy ấy mà, ông ta đúng là mánh khóe. Khi ông ta đến, tự mình coi sóc việc đóng gói các đồ gỗ. Ông ta chẳng đã dặn, là nếu có thư gửi lại đây cho một bà Vincent nào đó thì chính là thư của ông ta đấy và gửi tiếp cho ông ta ở nhà số 5 phố Mondovi. Nhận thư dưới tên một phụ nữ, cái tay khó chơi ấy thật là láu cá. Nhưng chưa phải đã hết chuyện, ông ta không biết ngượng mà tra hỏi tôi về số củi gỗ của ông ta ra sao rồi. Này, ông ạ, thật đấy! Chỉ có mỗi hai chuyến củi gỗ cà khổ! Chẳng đáng mấy! Một chuyến gỗ bè, một chuyến gỗ tươi, ông ta không lấy cả gỗ tươi đi đâu, cái đồ bủn xỉn. Thế mà cũng cuống lên! Tôi trả lời ông ta: “Củi à? Sao ông không hỏi rừng của ông ngay đi? Tôi đã đốt hết củi của ông.” Tôi nói với ông ta như thế. “Để quần áo đồ đạc của ông khỏi ẩm. Không như thế thì nấm sẽ mọc ở mũ, ở cả cái áo ngủ xanh đom đóm mà ông thường diện uổng công để chờ cái bà nhỏ bé vẫn hay trêu chọc ông ấy!”

Một tiếng rên nặng nề của Alfred ngắt lời bà Pipelet:

– Đấy, ông già quý mến của tôi lại rên rỉ. Ông ấy sắp thức giấc. Xin phép ông!

– Bà cứ tự ý! Tôi còn phải hỏi bà mấy điều nữa.

– Này ông bạn già yêu mến, ông thấy thế nào? – Bà Pipelet vừa hỏi chồng vừa mở bức màn che. – Ông Rodolphe đã biết hết câu chuyện bỉ ổi của Cabrion. Ông ấy hết lòng thương hại ông.

– A, thưa ngài. – Alfred vừa nói vừa uể oải quay đầu về phía Rodolphe. – Lần này tôi không đứng dậy được. Tên quỷ dữ đã chọc vào tim tôi, tôi là đối tượng châm chọc của dân thủ đô. Tên tôi xuất hiện trên khắp các bức tường ở Paris gắn liền với cái tên thằng khốn nạn ấy trước mắt dân thủ đô của châu Âu.

– Ông Rodolphe đã biết chuyện đó nhưng ông ấy còn chưa biết đến câu chuyện chiều qua liên quan đến hai con mụ trơ trẽn.

– Ôi thưa ngài, chuyện đó là thể hiện sự đê tiện khủng khiếp nhất. – Alfred nói giọng sầu thảm.

– Này, ông Pipelet thân mến, hãy kể cho tôi nghe chuyện bất hạnh mới của ông.

– Những gì xảy ra đối với tôi hôm nay so với chuyện này chẳng có nghĩa lý gì. Hắn đã đạt mục đích của hắn bằng những biện pháp đáng hổ thẹn nhất. Không biết là tôi có đủ sức để kể cho ngài nghe không.

Ông Pipelet ngồi một cách khó nhọc trên giường, khép cẩn thận hai tà áo bằng len và bắt đầu kể:

– Buồn về nỗi tên mình bị viết khắp nơi ở thủ đô, tôi giải buồn bằng cách khâu lại chiếc bốt đã khâu đi khâu lại nhiều lần. Trong lúc tôi đang ngồi trước một chiếc bàn, cửa ra vào mở, tôi thấy một người phụ nữ đi vào. Người phụ nữ đó mặc một chiếc áo choàng có mũ. Tôi lễ phép đứng dậy khỏi ghế và đưa bàn tay lên mũ, trong lúc đó, một người phụ nữ thứ hai cũng mặc áo choàng đi vào và cài cửa lại. Ngạc nhiên giữa sự quá thân mật và quá tự nhiên của hai người, tôi đứng lên khỏi ghế và lại đưa tay lên mũ. Lúc đó, thưa ông, không, không, tôi không bao giờ có thể… Tôi vô cùng thẹn thùng.

– Này ông già, chúng ta là đàn ông với nhau cả mà, cứ nói đi.

– Lúc đó, – Alfred nói, mặt đỏ lừ – chiếc áo choàng kia tụt xuống và tôi thấy gì nhỉ. Hai cô gái là hai con nhộng, không còn một thứ quần áo nào khác ngoài một mảnh lá, đầu cũng quấn lá. Tôi như hóa đá trời trồng. Và lúc đó cả hai tiến đến gần tôi, nắm lấy tay tôi như muốn ôm chầm lấy tôi.

– Bọn xỏ lá ba que! – Bà Anastasie nói.

– Những con đĩ ấy áp sát vào người tôi làm tôi nổi giận. – Alfred nói giọng đầy tức tối. – Tôi ngồi thật im lặng trên ghế. Lúc đó, lợi dụng sự im lặng của tôi, hai con đĩ vừa tiến lại gần tôi, vừa đi vừa múa may quay vòng chân tay. Tôi càng ngồi im lặng hơn nữa, bọn chúng đến gần tôi ôm chặt lấy tôi.

– Quấn lấy một người có tuổi và đã có vợ! A, nếu tao có mặt lúc đó, với cái cán chổi, tao sẽ cho chúng mày một trận. – Anastasie kêu lên. – Đúng là bọn đĩ thõa!

– Khi tôi bị ôm chặt, máu tôi như ngừng lại. Tôi như bị ngất xỉu. Khi đó, một trong hai con đĩ, con tóc hung to béo, nghiêng mình xuống vai tôi, lột chiếc mũ của tôi ra, múa may quay cuồng quanh tôi, trong lúc đứa thứ hai, rút từ trong chùm lá ra một cái kéo, bó toàn bộ tóc còn lại trên đầu tôi thành một búi và cắt trụi, thưa ông, cắt trụi, và vẫn múa may quay cuồng, vừa múa vừa nói như thét vào mặt tôi: “Dành cho Cabrion!” Và đứa kia lẳng lơ hòa theo: “Dành cho Cabrion! Dành cho Cabrion!”

Sau một phút nghỉ, kèm theo một tiếng thở dài đau đớn. Alfred nói tiếp:

– Trong khi bị cướp đoạt một cách vô liêm sỉ như thế, tôi ngước mắt lên và thấy úp vào tấm kính cửa mặt thằng Cabrion với bộ râu và chiếc mũi nhọn. Hắn cười, hắn cười… Trông thật gớm! Để thoát khỏi cái nhìn khả ố đó, tôi nhắm mắt lại. Khi mở ra, bọn chúng đã biến mất. Tôi thấy tôi vẫn ngồi như cũ, đầu không mũ và tóc hoàn toàn bị cắt trụi. Ông thấy đó, thưa ông. Cabrion đã đạt được mục đích bằng bao mánh khóe nham hiểm, đểu cáng. Lạy Chúa, hắn muốn tôi phải là bạn của hắn, bắt đầu bằng chuyện viết tên trên tường và rồi chuyện vừa qua. Giờ đây nhân dân thủ đô chắc không còn ai nghi ngờ về tình bạn thân thiết giữa tôi với tên khốn nạn đó. Lúc này, thưa ngài, ngài thấy đó, tôi chỉ còn có cách là bỏ nước Pháp, nước Pháp đẹp đẽ của tôi mà tôi nghĩ là sẽ sống và chết ở đó. – Và ông Alfred ngã lộn xuống giường, hai tay chắp lại.

– Nhưng, ông già thân yêu của tôi, bây giờ hắn đã có tóc của ông, hắn sẽ để cho ông yên.

– Bà không biết đó thôi. Hắn là một thằng bất trị. Bây giờ người ta biết rõ hắn cần gì ở tôi.

Rigolette xuất hiện trước cửa ra vào làm ông Alfred ngừng than thở.

– Xin cô đừng vào. – Ông Alfred kêu lên, luôn có ý thức về sự lịch sự, tế nhị. – Tôi đang nằm trên giường và đang mặc quần lót. – Nói rồi ông kéo một trong những chiếc chăn dạ lên đến cằm.

Rigolette dừng lại một cách thận trọng ở ngưỡng cửa.

– Đúng thế, cô láng giềng của tôi, tôi sẽ đến thăm cô. – Rodolphe nói với cô gái. – Xin hãy chờ tôi một lát. – Rồi ông nói với bà Anastasie. – Bà đừng quên chiều nay đưa Cecily đến nhà ông chưởng khế.

– Xin ngài yên tâm, cô ấy sẽ có mặt ở đó vào bảy giờ. Lúc này bà vợ ông Morel đã đi lại được, tôi sẽ nhờ bà ấy coi nhà giúp. Tôi không muốn để ông nhà tôi một mình.