← Quay lại trang sách

Chương 3 THẦY CÒ BOULARD

Người tù nhân đi vào khu thăm tội nhân lúc Hề Giấm đi ra là một người khoảng ba mươi tuổi, tóc hoe thẫm, mặt mũi tươi tỉnh, đầy đặn và đỏ đắn. Hắn có vóc người trung bình nên trông càng quá phì nộn. Tên tù nhân ấy đến là hồng hào béo tốt. Trùm lên người một chiếc áo redingote dài và ấm bằng dạ phlanen mềm màu xám. Với cái quần ống loe bằng cùng một thứ hàng, một kiểu cát-két-mũ trùm bằng nhung đỏ bổ sung cho bộ trang phục cùng với đôi giày păng-túp nhồi lông thú cực tốt. Mặc dù cái mốt đeo những cái toòng teng qua đã lâu rồi, nhưng sợi dây xích vàng đeo đồng hồ quả quýt còn lòng thòng nhiều thứ trang sức nạm đá quý. Cuối cùng là nhiều chiếc nhẫn mặt ngọc khá đẹp lấp lánh trên cả hai bàn tay to và nhỏ của hắn. Kẻ tội phạm ấy thường được gọi là thầy Boulard, thừa phát lại, can tội bội tín.

Người đối thoại với hắn là Pierre Bourdin, một trong hai tên lính tòa được giao việc bắt giải bác Morel, người thợ ngọc. Tên này thường vẫn được thầy Boulard, thừa phát lại của ông Petit-Jean (người đứng tên thay Jacques Ferrand trong các phi vụ khi lão không muốn ra mặt), sai phái.

Bourdin người nhỏ hơn và cũng đẫy đà không kém tên thừa phát lại, nhất nhất đều rập khuôn ông chủ mà gã rất khâm phục vẻ xa hoa, tất nhiên theo khả năng túi tiền của gã. Cùng khoái các đồ trang sức, hôm đó gã cài một cái kim băng lộng lẫy dát hoàng ngọc, một sợi dây chuyền vàng dài quấn ngoằn ngoèo lúc ẩn lúc hiện giữa các khuyết áo gi-lê.

– Chào anh Bourdin trung thành, tôi tin tưởng là anh sẽ không thiếu mặt khi biết là tôi đã nhắn. – Thầy Boulard vui vẻ nói bằng một giọng yếu ớt tương phản kỳ lạ với thân hình đồ sộ và bộ mặt to nở nang, tươi tắn.

– Thiếu mặt sao được! – Tên lính tòa trả lời. – Tôi làm sao có thể như thế được, thưa tướng quân của tôi.

Bourdin xưng hô như vậy với tên thừa phát lại bởi quan hệ tớ thầy và bởi lối vui đùa vừa thân mật vừa tôn kính đã thành thói quen. Vả lại cách nói quân sự ấy cũng thường được dùng trong một vài giới công nhân viên nào đấy, hoặc các luật gia dân sự chuyên nghiệp.

.

– Tôi rất hài lòng trước tình bạn chung thủy trong lúc thất cơ lỡ vận này. – Thầy Boulard vui vẻ và thân mật nói. – Tuy nhiên tôi cũng bắt đầu lo lo, viết thư cho anh đã ba ngày nay mà vẫn không thấy tăm hơi.

– Tướng quân thử tưởng tượng xem, đây là cả một câu chuyện. Người còn nhớ cái tay Tử tước đẹp trai ở phố Chaillot không?

– De Saint-Remy à?

– Đúng! Ông cũng biết là hắn vẫn coi thường sự bắt bớ của chúng ta chứ? Cho nên hắn mới quá sỗ sàng.

– Hắn là kẻ không đứng đắn.

– Tôi thừa biết thế, tôi và Malicorne, hai chúng tôi đang như mụ cả người đây, nếu có thể nói như thế.

– Không thể như thế được, Bourdin ạ!

– May quá, thưa tướng quân! Nhưng sự việc là thế này này, tay Tử tước đã được thăng cấp đấy!

– Hắn được phong Bá tước à?

– Không! Từ lừa đảo hắn thăng thành ăn trộm!

– Chà, thây kệ hắn!

– Người ta đang truy nã hắn về tội đã thó đi một số kim cương. Tiện thể nói thêm là những hạt kim cương ấy là của người chủ hiệu kim hoàn đã thuê cái tên sâu bọ Morel ấy mà! Khi chúng tôi sắp sửa bắt tên này ở phố Temple thì bỗng một tên người mảnh dẻ cao lớn, để ria đen, đã bỏ tiền ra trả nợ cho cái thằng chết đói ấy và suýt nữa thì quăng cả tôi và Malicorne từ trên gác xuống chân cầu thang.

– Ái chà! Đúng, tôi nhớ lại rồi. Các anh đã kể tôi nghe việc đó, anh Bourdin tội nghiệp. Thật là buồn cười, đoạn hay nhất của vở hài kịch đó là lúc mụ gác cổng hắt vào lưng anh cả một liễn xúp nóng bỏng.

– Hắt cả xúp lẫn liễn kia đấy, thưa tướng quân, nổ toang như một quả bom ở chân chúng tôi! Rõ con mụ phù thủy già.

– Việc đó sẽ được tính tiền trong sổ lý lịch công tác và thương tích. Thế chàng Tử tước đẹp trai ấy ra sao rồi?

– Tôi đã nói với ông là de Saint-Remy bị truy tố về tội trộm cắp sau khi đã lừa ông bố nhân hậu là hắn muốn tự bắn vào đầu. Một nhân viên cảnh sát bạn tôi, biết rằng lâu nay tôi vẫn theo dõi tay Tử tước này, đã hỏi tôi, xem tôi có thể mách bảo và giúp anh ta dò theo dấu vết của tên công tử bột ấy hay không. Đúng là khi tôi biết thì đã quá chậm. Khi hắn thoát được lần câu thúc thân thể trước đây, hắn đã ẩn náu, khi chúng tôi đến nơi thì không kịp nữa rồi, chim đã rời tổ.

– Vả lại, ngay ngày hôm sau nữa, hắn đã trả tiền cái hối phiếu, nhờ một bà phu nhân nào đó giúp, người ta đồn vậy.

– Đúng đấy, thưa tướng quân. Nhưng thôi, mặc kệ, tôi biết đấy là lần thứ hai. Tôi đã nói với người bạn cảnh sát như thế. Người này đã đề nghị với tôi giúp một tay, trên danh nghĩa tài tử! Và dẫn anh ta đến trang trại… Tôi không có việc gì bận rộn cả. Như thế cũng là một dịp đi chơi dã ngoại, tôi đã nhận lời.

– Thế nào, tay Tử tước sao rồi?

– Chịu, không tìm thấy. Ban đầu tôi lảng vảng rình mò chung quanh trang trại, sau đó mới xộc vào, nhưng vẫn công cốc. Vì thế thành ra tôi không thể đến đây sớm hơn theo lệnh tướng quân.

– Tôi vẫn biết là đối với anh, chẳng có gì là cái bất khả cả, anh bạn ạ!

– Nhưng… Chẳng phải tò mò đâu nhé, làm thế quái nào mà ông lại ở đây?

– Những quân vô lại, anh bạn ạ, một lũ vô lại chỉ vì một số tiền nhỏ mọn không bõ kể lại là sáu mươi nghìn franc thôi, đã khẳng định là tôi chiếm đoạt tiền nong của chúng để kiện tôi về tội bội tín, buộc tôi phải rời bỏ chức trách…

– Thật à, thưa tướng quân? Chà, đúng là vận xúi thế sao? Từ nay chúng tôi không làm việc với ngài nữa à?

– Hiện nay tôi chỉ hưởng nửa lương, chàng Bourdin của tôi ơi! Tôi đang bị đình chỉ công tác.

– Nhưng cái lũ cay cú ấy là bọn nào?

– Anh thử tưởng tượng mà xem, cái đứa hùng hổ nhất chống tôi lại là một quân trộm cắp được phóng thích. Hắn đã đưa cho tôi thu hồi một ký phiếu trị giá bảy mươi nghìn franc tiền còm cần phải được truy thu. Tôi đã truy nợ, nhận tiền người ta trả. Và cũng bởi vì có những phi vụ làm ăn thất thoát, tôi đã vung hết số tiền ấy cùng với nhiều số tiền khác, cho nên tất cả cái lũ vô lại ấy đã la lối om sòm khiến người ta phải ký trát đòi, và thế là anh thấy tôi ở đây, anh bạn! Không hơn không kém một thằng ăn trộm chính hiệu!

– Việc đó hẳn làm cho tướng quân bực mình lắm nhỉ?

– Lạy Chúa! Bực ghê! Nhưng thế này mới thật lạ lùng. Cách đây vài ngày, cái tên được phóng thích ấy đã viết thư cho tôi bảo rằng hắn chỉ trông vào món tiền đó cho qua những lúc ba đào, mà khó khăn thì đã đến (tôi không biết hắn muốn đòi hỏi gì đây) và tôi sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào về những trọng tội mà hắn có thể sẽ gây ra để khỏi đói rách.

– Tuyệt thật! Thề danh dự là thế.

– Có phải không? Chẳng có gì thuận tiện hơn! Cái thằng vô lại ấy có khả năng khai như vậy để giảm bớt tội. May sao pháp luật lại không chấp nhận cái kiểu “tòng phạm tiếp tay” như thế!

– Dù sao thì thưa tướng quân, ngài chỉ can tội bội tín mà thôi, phải không?

– Dĩ nhiên! Có phải là thầy Bourdin cũng coi tôi như thằng ăn trộm?

– Chao ôi! Lại thế nữa! Thưa tướng quân, ý tôi muốn nói là chuyện đó chẳng có gì nghiêm trọng cả, dù sao cũng chẳng ra cái quái gì!

– Có phải là tôi có vẻ tuyệt vọng không, hở anh bạn?

– Đâu có! Chưa lúc nào tôi thấy ngài tươi tỉnh hơn lúc này. Về việc này, nếu ngài có bị kết án, thì bất quá cũng chỉ đến hai hay ba tháng tù và hai mươi lăm franc tiền phạt là cùng. Tôi cũng là dân thuộc luật đấy chứ, thưa tướng quân?

– Về hai, ba tháng tù ấy thì tôi sẽ xin ngồi ở tù một cách thoải mái bằng cách xin đi chữa bệnh ở một nhà thương tư nhân, chắc chắn sẽ được thôi, tôi có thể sai khiến cả một nghị sĩ quốc hội mà…

– Ôi, như vậy thì ăn chắc rồi!

– Này, anh Bourdin ơi, thế nên tôi không nhịn cười được, mấy thằng ngu xuẩn đã làm tôi phải ngồi tù ở đây sẽ đi quá đà, chúng nó sẽ chẳng kiếm được một xu nào hơn đâu mà đòi. Chúng nó làm tôi buộc phải nhượng quyền chức trách, điều đó chẳng can hệ gì đến tôi. Cứ coi như là tôi nợ người tiền nhiệm, như anh nói! Thấy không, lại những thằng khờ ấy sẽ bị ăn quả lừa thôi, như kiểu Robert-Macaire* đã nói ấy mà!

Nhân vật đại bịp trên sân khấu thời đó.

– Tôi cũng có ấn tượng như vậy, tướng quân ạ! Thây kệ chúng!

– Úi chà! Này chú mày, ta hãy nói về điều khiến tôi phải nhắn anh đến đây, việc khá tế nhị đấy, chuyện đàn bà ấy mà! – Thầy Boulard nói, kiểu hợm mình kín đáo.

– Chà chà, quả là tướng quân ác ôn chưa! Biết ngay mà! Thế có việc gì? Ngài cứ tin ở tôi!

– Hiện nay tôi đang đặc biệt lưu tâm đến một cô đào trẻ ở rạp Folies-Dramatiques, tôi đã bao đủ thứ, và bù lại, nàng cũng đã sòng phẳng với tôi, ít ra là như vậy. Vì anh biết không, xưa nay, anh nào vắng mặt là anh ấy thiệt. Vả lại, tôi nhất thiết càng phải biết xem mình có bị thiệt không, vì Alexandrine lại vừa muốn xin tôi cấp thêm ít vốn. Tôi chưa bao giờ riết róng với phụ nữ, nhưng, nghe đây, tôi không muốn bị họ lừa. Vì thế, trước khi muốn tỏ ra rộng rãi với cô ấy, tôi muốn biết liệu cô ấy có xứng đáng vì đã một lòng một dạ với tôi không. Tôi cũng biết là không gì lỗi thời, cổ lỗ hơn lòng chung thủy, nhưng đó lại là nhược điểm của tôi. Anh bạn ạ, vì tình bằng hữu, anh giúp tôi việc ấy nhé, nếu trong một vài ngày, anh có thể canh giữ cho mối tình của tôi và làm cho tôi có khả năng biết được cặn kẽ hoặc là làm cho mụ gác cổng của Alexandrine bép xép phun ra, hoặc là…

– Thế là đủ, thưa tướng quân! – Bourdin ngắt lời tên thừa phát lại – Chẳng khó hơn là giám sát, dò la tin tức của một con nợ đâu! Hãy tin ở tôi, tôi sẽ biết nàng Alexandrine có bội ước hay không. Điều này khó xảy ra đấy vì, nói không phải là thiên vị ông đây, ông đẹp người và hào phóng quá thể, ai mà không tôn thờ ông chứ!

– Có đẹp cũng chẳng ích gì, tôi vắng mặt, bạn thân ơi và thế là thiệt cho tôi rồi. Tóm lại, cậy trông vào bạn để biết sự thật đấy!

– Rồi ông sẽ biết thôi! Xin cam đoan thế.

– Chà, anh bạn thân mến, làm sao trả ơn anh được?

– Ô hay, thôi đi nào, thưa tướng quân!

– Dĩ nhiên, chàng Bourdin ơi, trong trường hợp này thì công xá được coi như công đi tróc nã đấy!

– Tướng quân ạ, tôi không chịu đâu, bao lâu nay tôi làm việc dưới quyền ngài, chẳng phải là ngài đã để cho tôi tha hồ lột da con nợ, tăng gấp đôi, gấp ba phí tổn bắt bớ, đã vậy khi truy thu sau đó, ngài lại còn ráo riết như là đòi cho chính mình nữa kia mà!

– Nhưng bạn thân mến ơi! Việc này thì khác chứ. Nếu là tôi thì tôi sẽ không chịu.

– Thưa tướng quân, ngài coi thường tôi đấy nếu ngài không coi cái việc ngài ủy cho tôi dò xét Alexandrine giúp ngài là một biểu hiện nhỏ nhặt cho lòng biết ơn của tôi.

– May quá, thôi tôi cũng chẳng tranh quân tử với anh bạn lâu hơn nữa. Vả lại lòng tận tâm của bạn là một phần thưởng thú vị cho cung cách làm ăn mềm của tôi xưa nay kia mà!

– Tôi cũng hiểu điều ấy như vậy đấy! Tướng quân ạ, nhưng liệu tôi còn có thể giúp ngài được gì khác nữa không? Ngài vốn thích thoải mái, đàng hoàng, hẳn ở đây khó chịu ghê gớm lắm nhỉ? Ngài đóng tiêu chuẩn đặc biệt*, tôi hy vọng thế, tướng quân!

Phòng biệt giam, phạm nhân nhiều tiền có thể chi tiền để được hưởng tiêu chuẩn ấy.

– Tất nhiên, cũng may là vừa đúng lúc tôi đến, chỉ còn mỗi một buồng trống cuối cùng. Các buồng khác đang phải sửa chữa. Tôi tìm cách thu dọn hết sức tươm tất nơi ăn ở, nên cũng không đến nỗi, có cả lò sưởi gang, tôi đã cho đưa đến một ghế dựa tốt. Tôi ăn ngày ba bữa, nghỉ ngơi, đi dạo cho tiêu cơm và tôi ngủ nghê thoải mái. Ngoài những mối lo ngại về Alexandrine, anh thấy không, tôi chẳng có gì đáng để phải phàn nàn.

– Nhưng ngài vốn là tay háu ăn cỡ lớn kia mà! Tướng quân ơi, ở nhà ngục thì làm gì có đầy đủ miếng ngon lành cho ngài.

– Thế cái tay mở cửa hàng thực phẩm ở phố tôi để làm gì? Chẳng phải cứ như là sinh ra để hầu tôi hay sao? Tôi mở sổ nợ với hắn và cứ hai ngày một lần, hắn gửi cho tôi một sọt thức ăn ra trò. Và, đằng nào thì cũng giúp tôi một thể, nhờ bạn nhắn giùm bà chủ hiệu, cái bà nhỏ nhắn Michonneau tốt bụng ấy, này, tiện thể nói anh biết, bà ta trông cũng “khớ” đấy chứ!

– Úi chà, ác ôn! Rõ chúa ác ôn!

– Thôi nào, bạn thân mến, ai lại nghĩ nhảm thế! – Tên thừa phát lại ra vẻ hợm hĩnh. – Tôi chỉ là khách sộp và hàng xóm thân thôi mà! Vậy thì yêu cầu bà chủ thân mến Michonneau ngày mai cho vào giỏ cho tôi một miếng pa-tê cá ngừ ướp nhé, đang mùa mà, cho nó lạ miệng, nhậu nhẹt được nhiều.

– Ý kiến hay!

– Với lại, bảo bà Michonneau chuyển cho tôi một thùng đủ thứ rượu, đủ cả bourgogne, champagne, bordeaux giống như lần trước, ả sẽ hiểu thế là ngụ ý gì, và kèm thêm vào đó hai chai cognac cũ niên hiệu 1817 nữa, cùng với nửa cân cà phê moka vừa mới rang và xay xong.

– Tôi sẽ ghi năm của chai rượu để khỏi quên. – Bourdin giở sổ tay.

– Đã ghi thì bạn thân mến ơi, hãy làm ơn nhắn ở nhà gửi cho tôi cái đệm lông chim nhé.

– Mọi việc đều nhất nhất thực hiện đúng như ngài dặn, ngài cứ yên tâm.

– Như thế là tôi đã được yên tâm chút ít về khoản cơm nước rồi.

– Nhưng còn đi dạo, thế ngài cũng dạo chơi lẫn lộn với ba cái thằng tù ăn cướp, ăn trộm ấy sao?

– Phải! Và thế mà thật là vui, là nhộn nhịp nữa kia đấy! Ăn xong, tôi sẽ đi xuống lúc thì qua sân này, lúc đến sân kia, và cũng như anh nói ấy, tôi chan hòa nhập bọn với họ. Tôi đảm bảo với anh là thực ra họ có vẻ tử tế lắm. Có những người thật là vui tính. Bọn tợn tạo nhất thì được tập hợp ở khu mà họ gọi là Hố Sư Tử. Ái chà, bạn thân mến, những bộ mặt tướng cướp mới khiếp chứ! Giữa bọn chúng có một thằng chúng gọi là Bộ Xương; tôi chưa bao giờ thấy ai như vậy.

– Tên với tuổi, buồn cười thật!

– Sao hắn gầy thế, hay nói đúng hơn là người hắn gần như chẳng có tí thịt nào, trơ cả xương ra. Và đấy chẳng phải chỉ là biệt hiệu đâu, tôi bảo là trông hắn đến khiếp. Hơn nữa hắn là đại ca của phòng giam. Đúng là một thằng đại ác ôn, thượng đẳng. Hắn đi đày về, rồi lại ăn trộm, giết người. Những vụ giết người mới đây ghê gớm quá, hắn biết hắn sẽ bị kết án tử hình không giảm, nhưng hắn vẫn coi như không.

– Đúng là giặc!

– Tất cả bọn tội phạm đều khâm phục và run sợ trước hắn. Tôi vội vàng lập tức lấy lòng hắn ngay bằng cách biếu hắn xì gà. Vì thế nên hắn coi tôi là bạn và dạy tôi tiếng lóng. Tôi tiến bộ đấy chứ!

– Chà chà, đùa dai thực! Tướng quân của tôi học tiếng lóng.

– Thì tôi đã nói với anh là tôi tiêu khiển phải biết mà! Các gã ấy khoái tôi lắm, có tên lại mày tao thân mật với tôi nữa kia. Tôi chẳng hợm mình đâu, không như một cái ông nhãi nào đấy tên là Germain, một thằng khố rách đã chẳng có đồng nào để ở phòng giam đặc biệt mà lại còn ra cái vẻ kênh kiệu, ra vẻ ông lớn với bọn chúng.

– Nhưng cho là hắn có muốn không gần ai đi nữa thì hắn cũng phải vui mừng có được người lịch sự như ngài để mà cùng trò chuyện, nếu chán ghét những người kia chứ!

– Kệ! Ngay đến tỏ vẻ nhận biết tôi là ai, hắn cũng chẳng màng, nhưng dù có thế đi chăng nữa thì tôi cũng cố tình lờ đi không để hắn bắt chuyện làm quen. Cả nhà tù ai cũng ghét hắn. Trước sau thể nào họ cũng sẽ chơi hắn một vố và chính thế, tôi chẳng muốn bị ghét lây vì hắn tí nào!

– Ngài nói phải đấy!

– Hắn làm hỏng cả buổi tiêu khiển của tôi, vì cuộc dạo chơi của tôi với cánh tội phạm thực sự là một trò tiêu khiển, chỉ hiềm một nỗi là những thằng ăn cướp ấy đánh giá tôi không đáng mấy, về mặt đạo đức ấy mà. Anh hiểu không, chỉ đơn giản có mỗi tội bội tín. Đối với chúng, như thế thì ra cái quái gì. Vì thế chúng cho tôi là không đáng kể cho lắm, như Arnal* đã nói.

Kịch tác gia châm biếm thế kỷ XIX ở Pháp.

– Quả thế, bên cạnh những quân giết người không gớm tay ấy, ngài thật là…

– Một con chiên hiền lành thực sự, bạn ơi! Úi chao, bạn đã ân cần với tôi thế, thì đừng quên những việc tôi nhờ đấy nhé.

– Ngài yên tâm. Một là việc cô Alexandrine; hai là món pa-tê và thùng rượu; ba là chai cognac cũ năm 1817, cà phê bột và chăn lông chim. Ngài sẽ có đủ các thứ ấy. Có còn điều gì nữa không?

– À, có chứ! Tôi quên mất. Anh biết rõ nhà Badinot ở đâu chứ?

– Tay chạy việc phải không? Biết chứ.

– Vậy nhé! Nhờ anh nhắn với hắn là tôi trông chờ ở sự giúp đỡ của hắn để mời được một thầy cãi thật cừ cho tôi. Và tôi thì tôi không tiếc tờ một nghìn franc đâu!

– Tôi sẽ tìm gặp Badinot, ngài cứ yên tâm. Ngay tối nay thôi, tất cả mọi việc ngài giao cho đều xong, mai ngài sẽ nhận được tất cả những gì ngài cần. Tạm biệt, và cố gắng nhé, thưa tướng quân.

– Tạm biệt anh bạn thân mến!

Mỗi người một phía, họ tạm biệt nhau, và rời khu tiếp chuyện.

Bây giờ thì ta hãy đối chiếu trọng tội của Hề Giấm, tái phạm hình sự với tội của thầy Boulard, thừa phát lại.

Đối chiếu xuất phát điểm của cả hai tội và những lý do, nhu cầu bức thiết nào đấy đã đẩy họ đến tội ác.

Cuối cùng, hãy đối chiếu những hình phạt dành cho họ.

Ở nhà tù ra, đi đến đâu cũng bị xa lánh và kinh sợ, người tù được phóng thích không thể hành nghề tại địa phương được chỉ định, anh hy vọng nộp mình cho một nghề nguy hiểm đến tính mạng nhưng hợp với sức vóc của mình, phương tiện ấy cũng không có nổi.

Sau đó thì anh ta trốn quản thúc, trở về Paris, mong ở đó dễ giấu giếm tiền sử của mình mà tìm được kế sinh nhai. Anh ta đến Paris, mệt lả, chết đói đến nơi, tình cờ anh biết là có một số tiền để trong một cái nhà gần đấy, không cưỡng nổi sự quyến rũ đáng ghét, anh cậy cửa, nậy tủ, ăn trộm một trăm franc và định bỏ trốn.

Người ta bắt được, tống giam anh. Anh bị ra tòa, chịu án mười lăm hay hai mươi năm tù khổ sai và bêu trước đám đông vì tái phạm, hình phạt đó dành cho anh. Anh biết điều đó.

Hình phạt kinh khủng đó xứng đáng với anh.

Quyền tư hữu là thiêng liêng. Kẻ nào ban đêm phá cửa nhà người ta để cướp tiền của phải bị trừng phạt đến nơi đến chốn. Anh có viện cớ, do thiếu việc làm, túng quẫn, hoàn cảnh cực kỳ đặc biệt, khó khăn đến không thể chịu đựng được nữa, sự thiếu thốn do thân phận người tù được phóng thích áp đặt cho anh cũng vô ích. Mặc kệ! Pháp luật chỉ có một. Vì sự cứu rỗi và yên ổn của nó, xã hội muốn và phải có trong tay quyền lực vô bờ để mà vô hiệu hóa một cách tàn nhẫn những hành động cưỡng đoạt táo tợn tài sản của người khác.

Đúng! Cái con người khốn khổ, dốt nát và ngu độn đó, cái tên tù tái phạm tha hóa và bị khinh rẻ đó đáng chịu số phận như vậy.

Nhưng sẽ đáng thế nào đây khi một kẻ thông minh, giàu có, học thức, ai cũng quý trọng, được giao chức trách lại đi trộm cắp, không phải để có cái bỏ mồm, mà để thỏa mãn những thú vui phù hoa, hào nhoáng, hay là để buôn bán chứng khoán cầu may?

Trộm cắp không chỉ một trăm franc, mà những mười nghìn franc, một triệu franc?

Không phải liều mạng trộm cắp ban đêm mà trộm cắp đàng hoàng giữa ban ngày, ngay trước mắt mọi người?

Trộm cắp không phải chỉ của một người xa lạ đem tiền nong giao phó cho một cái khóa tủ, mà là trộm cắp của một khách hàng đã đương nhiên giao phó tiền nong cho tính trung thực của một viên chức nhà nước, được pháp luật chỉ định và bắt buộc phải tin tưởng.

Trừng phạt kẻ đó ghê gớm như thế nào cho xứng? Thay vì trộm cắp một số tiền nhỏ mọn gần như do quá túng thiếu, hắn lại trộm cắp một số tiền lớn để mà xài phí xa hoa.

Cho dù có xử phạt hắn ngang hàng bằng hình phạt xử cho kẻ tái phạm vì bị dồn vào ngõ cụt bởi cùng túng và thiếu thốn mà phải trộm cắp, thì đó chẳng phải là một sự bất công đáng để phẫn nộ hay sao?

Thôi đi nào! Pháp luật sẽ nói vậy.

Sao lại áp dụng cho một người có giáo dục cùng một hình phạt với một thằng ma cà bông? Eo ôi!

Đối chiếu một tội lịch sự với một vụ đào tường khoét ngạch ghê tởm? Eo ôi!

Dù sao, có gì đâu nào? Thầy Boulard, giả dụ thế, sẽ trả lời thống nhất với luật pháp:

“Căn cứ vào những quyền hạn được trao cho chức trách của tôi, tôi đã lĩnh giúp các ngài một số tiền, số tiền ấy tôi đã phung phí, đã lạm tiêu hết không còn một đồng kẽm. Các ngài đừng có tin là sự quá túng tiền đã xúi bây tôi chiếm đoạt như vậy! Tôi có phải là một thằng ăn mày, một thằng túng thiếu không? May quá, không! Tôi đã và đang có dồi dào của cải để sống đàng hoàng. Ôi, các ngài yên trí, những ý đồ của tôi nhằm xa hơn và cao thượng hơn nữa kia! Cầm đồng tiền của các ngài, tôi táo bạo lao vào vòng quay chóng mặt của đầu cơ, tôi có thể làm lãi gấp ba nếu số phận mỉm cười với tôi, nhưng, khốn thay, trái lại! Các ngài thấy nhé, tôi cũng thiệt như các ngài…”

Lại một lần nữa, dường như pháp luật nói vậy, sự chiếm đoạt ấy, nhanh gọn, lẹ làng và sỗ sàng, giữa thanh thiên bạch nhật, có điều gì chung không với những vụ trộm cướp ban đêm, bẻ khóa, cậy cửa, dùng chìa khóa giả, xà beng, những công cụ thô sơ và cục cằn của quân trộm cướp mạt hạng?

Trọng tội chẳng phải là đã thay đổi về mặt hình sự, ngay cả về tội danh, nếu do những kẻ có đặc huệ nào đó phạm phải hay sao?

Một người khốn khổ đập vỡ kính ở một cửa hàng bánh mì để lấy một cái bánh; một cô sen lấy cắp một cái khăn tay hay một đồng louis của chủ… những việc ấy thực sự được hợp thức coi là trộm cắp với tình tiết tăng tội nhục nhã và thuộc thẩm quyền của Tòa đại hình.

Và thế là công bằng, nhất là ở trường hợp cuối cùng.

Người ở ăn trộm của chủ phạm tội gấp hai lần vì gần như là người nhà, đi lại, ra vào lúc nào tùy ý. Hắn đã phản bội một cách xấu xa lòng tin của chủ, chính sự phản bội nhục nhã ấy bị người ta lên án. Thêm một lần nữa, không có gì công bằng hơn, hợp đạo lý hơn.

Nhưng nếu một người thừa phát lại, nếu một người công chức nhà nước nào đó lại lấy cắp tiền mà tất nhiên người ta giao cho hắn do tư cách chính thức của hắn thì không những việc này không bị coi như tội ăn trộm của nhà hay là tội trèo tường khoét vách mà cũng còn không bị gọi là trộm cắp nữa kia.

Lạ chưa kìa!

Không, chẳng còn gì nữa mà ngờ! Trộm cắp, từ ấy tàn nhẫn quá! Nó bốc mùi trụy lạc quá! Trộm cắp, eo ơi! Bội tín, thích hợp hơn, tế nhị hơn, chỉnh tề hơn và thích hợp với địa vị xã hội hơn. Sự coi trọng đối với những kẻ đã chuốc lấy lỗi lầm! Vì cái gì đó gọi là lỗi lầm, gọi là trọng tội cũng là quá tàn nhẫn.

Vả lại phân biệt rành mạch rất là quan trọng.

Trọng tội thuộc thẩm quyền tòa Đại hình.

Tội bội tín, thuộc thẩm quyền tòa Tiểu hình.

Ôi, công bằng tột độ! Ôi, công lý phân phối đến thế là cùng! Ta hãy nhắc lại cho nhớ: một tên đầy tớ ăn cắp của chủ một đồng louis, một tên đói khát đập vỡ mặt kính tủ hàng để lấy trộm một cái bánh… đó là những trọng tội, mau mau đưa lên tòa Đại hình.

Một viên chức nhà nước phá tán hay thụt két một triệu, đó là một vụ bội tín. Một tòa án Tiểu hình bình thường mang thẩm quyền xét xử.

Trên sự việc, theo luật pháp, theo lẽ phải, theo logic, theo nhân tính, theo đạo đức, sự khác nhau đáng sợ giữa các hình phạt liệu có được biện minh bởi sự khác nhau về tình trạng phạm tội không?

Trộm cắp trong nhà bị trừng phạt nhục nhã, khác nhau chỗ nào với tội bội tín chỉ bị phạt án tiểu hình?

Có phải vì tội bội tín thường thường hầu như kéo theo khuynh gia bại sản cho các gia đình?

Vậy thì tội bội tín là cái gì nếu không là một vụ trộm cắp trong nhà, nặng hơn gấp nghìn lần do những hậu quả đáng sợ và bởi tính cách chính thức của kẻ đã phạm phải tội ấy?

Hoặc là do đâu mà trèo tường khoét vách ăn trộm lại nặng tội hơn một vụ trộm cắp do bội tín?

Ô hay! Các ngài dám tuyên bố rằng sự xâm phạm tinh thần lời tuyên thệ không bao giờ được vi phạm vào lòng tín nhiệm mà xã hội bắt buộc phải đặt ở các ngài lại kém tội lỗi hơn là sự xâm phạm vật chất đối với một cái cửa hay sao?

Vâng! Thế mà người ta dám đấy!

Vâng! Pháp luật được đặt ra như thế đấy!

Vâng! Tội ác càng nghiêm trọng, càng phương hại đến sự tồn tại của các gia đình, càng làm tổn hại đến an ninh xã hội, đến đạo đức công cộng, tội ác ấy càng ít bị nghiêm trị.

Đến nỗi bọn tội phạm càng thông minh, càng có hiểu biết, càng sung túc, càng được quý trọng thì lại càng được pháp luật khoan hồng.

Đến nỗi pháp luật dành những hình phạt ghê gớm nhất, nhục nhã nhất cho những kẻ khốn khổ, họ có – chúng tôi không muốn nói để cáo lỗi – nhưng họ ít ra còn có nguyên cớ, đó là sự dốt nát, u mê, và cùng túng mà người ta vẫn cứ để cho họ chìm ngập sâu trong đó mãi.

Tính thiên vị đó của pháp luật thật tàn bạo và hết sức phi đạo đức.

Hãy trừng phạt không thương tiếc kẻ nghèo nếu họ xâm phạm đến tài sản của người khác nhưng cũng trừng phạt như thế những viên chức nhà nước xâm phạm tài sản của khách hàng. Mong rằng, đừng có ai nghe nữa những trạng sư biện giải bênh vực và xin được miễn tội (vì trừng phạt quá nhẹ như vậy chính là miễn tội chứ còn gì nữa) cho những kẻ phạm tội chiếm đoạt nhục nhã, bởi những lý lẽ đại loại như sau:

“Thân chủ của tôi không từ chối là đã phá tán những món tiền đang nói đến, họ biết là tội bội tín đã dẫn một gia đình đáng tôn kính vào trong vòng khốn quẫn đáng sợ. Nhưng biết làm thế nào? Thân chủ của tôi có đầu óc phiêu lưu, thích thử vận cầu may vào những hoạt động kinh doanh táo bạo và một khi đã lao vào công việc đầu cơ, quay cuồng trong cơn sốt của buôn bán chứng khoán, họ không biết phân biệt gì nữa giữa những gì của họ và những gì của người khác.”

Chúng tôi vẫn giữ cách so sánh chính xác giữa tên trộm cắp và kẻ chiếm đoạt. Tên này chỉ buôn bán chứng khoán với hi vọng kiếm lời và chỉ mong lời lãi để mà làm giàu thêm hoặc là để ăn chơi thỏa thích.

Xin thâu tóm lại những suy nghĩ của chúng tôi:

Chúng tôi cũng muốn rằng, nhờ một sự cải cách pháp luật, tội bội tín do một viên chức nhà nước vi phạm sẽ bị coi là trộm cắp và tối thiểu xử phạt ngang loại trộm cắp trong nhà, ngang loại trèo tường đào ngạch và tái phạm.

Giới của các viên chức ấy có thể phải chịu trách nhiệm về những số tiền mà đương sự đã biển thủ với tư cách là người được ủy nhiệm đương nhiên và có đài thọ.

Vả lại, đây là một sự kết hợp sẽ được dùng làm hệ luận cho đoạn tán rộng này. Theo những sự việc mà chúng tôi sẽ kể ra, mọi bình luận sẽ là không cần thiết.

Người ta sẽ tự hỏi là mình đang sống trong một xã hội văn minh hay mông muội đây.

Trong thông cáo các tòa án ngày 17 tháng Hai năm 1843, nhân việc chống án đúng theo luật của một thừa phát lại can tội bội tín:

“Bản tòa chấp nhận những bản luận án của các ngài thẩm phán trước đây.

Và xét rằng: Những văn bản xuất trình lần đầu tiên bởi bị cáo không có khả năng hủy bỏ và ngay cả giảm thiểu những sự việc đã được ghi nhận bởi các ngài thẩm phán trước đây.

Xét rằng, đã được chứng tỏ là bị cáo, với tư cách là thừa phát lại, thừa ủy nhiệm mặc nhiên và có đài thọ, đã nhận các khoản tiền của ba thân chủ. Rằng khi những người này đòi tiền thì bị cáo đã tìm cách trí trá lừa dối họ mà trả lời cho cả những người ấy.

Rằng rốt cuộc bị cáo đã biển thủ và phá tán những khoản tiền trên đây, gây thiệt hại cho ba thân chủ.

Rằng hắn đã lạm dụng lòng tin của họ và rằng hắn phạm vào tội hình dã dự kiến và ấn định trừng phạt, trong các điều khoản 108 và 406 của Bộ luật Hình sự…

Xác nhận lời tuyên án, xử đương sự hai tháng tù và hai mươi lăm franc phạt vạ.”

Bên dưới vài dòng, cũng trong tờ báo ấy, cùng ngày, người ta thấy đăng:

“Năm mươi ba năm tù khổ sai.

Ngày 13 tháng Chín vừa rồi, một vụ trộm ban đêm đã xảy ra bằng cách trèo tường và bẻ khóa trong căn nhà của vợ chồng Bresson, buôn bán rượu ở làng Ivry.

Những dấu vết còn mới chứng tỏ đã có một cái thang dựa vào tường và một trong những ô cửa của căn nhà bị mất trộm trông ra phố đã bị bật ra do bị cạy rất mạnh.

Những đồ vật bị lấy đi trị giá không nhiều bởi giá trị mà bởi số lượng: đó là một số quần áo cũ, khăn trải giường cũ, giày vẹt gót và hai cái chảo thủng và kể cho hết là hai chai rượu ngải cứu Thụy Sĩ.

Những việc đó được quy cho bị cáo Tellier, được chứng minh đầy đủ trong phần nghị tội tại phiên tòa xét xử, ông chưởng lý đã đòi pháp luật phải nghiêm trị bị cáo, do đây là trường hợp tái phạm đặc biệt.

Vì vậy, Hội đông Bồi thẩm đã lên án bị cáo có tội về tất cả các khoản không có trường hợp giảm đẳng. Tòa án đã tuyên phạt tên Tellier hai mươi năm tù khổ sai và đem bêu trước quần chúng.”

Thế là đối với viên chức nhà nước chiếm đoạt tài sản: hai tháng tù.

Đối với người tù phóng thích tái phạm: hai mươi năm tù khổ sai và bêu trước quần chúng.

Còn nói thêm gì nữa về những việc ấy? Tự nó đã bộc lộ đủ.

Những sự việc đó gợi lên những suy nghĩ buồn nản và nghiêm túc đến thế nào? (Ít ra thì chúng tôi mong là thế.)

Theo lời đã hứa, người gác nhà tù đã đi tìm gọi Germain.

Khi viên thừa phát lại Boulard đã đi vào phía trong nhà ngục thì cửa khu tiếp chuyện mở ra, Germain đi vào và thế là Rigolette chỉ còn cách con người bất hạnh mà cô che chở có mỗi một tấm lưới sắt nhỏ.