Kéo trúm
Năm ấy tôi là một công tử vườn ở làng Đông Bình, vùng khỉ ho cò gáy, chưa khai hoang. Mỗi năm, có đến tám tháng nước mặn tràn vào rạch. Khi nước bắt đầu ngọt thì sanh ra một thứ tai nạn: muỗi bay từng bầy suốt ngày, dẫu là lúc trưa nắng.
Đáng lý ra, với chút ít chữ nghĩa, tôi đã rời xóm làng, ra chợ Rạch Giá tìm sở làm cho ra vẻ thầy thông thầy ký. Nhưng tôi vẫn cương quyết bám lấy quê cha đất tổ! Thái độ hiên ngang ấy không phải là lòng yêu nước. Chẳng qua là tánh ham chơi, muốn làm ít, hoặc không cần làm mà vẫn có ăn, ăn ngon.
Suốt ngày suốt tháng, tôi dạo la cà từ xóm này qua xóm kia, hết ăn là nói. Nói cho bà con trong xóm nghe đại khái nhưng mẩu chuyện Tam Quốc, Tiếu Lâm, Ba Người Lính Ngự Lâm Pháo Thủ. Lẽ dĩ nhiên tôi đã thu hút cảm tình của thính giả. Dầu tôi nói sai, thì chẳng ai cãi lại vì có ai biết chữ đâu mà đọc sách.
Thế mà có kẻ dám khuấy rối cuộc sống yên lành của tôi. Kẻ đáng xử tử ấy chính là ông Phô Nô. Tôi biết ông ta trong một trường hợp bất ngờ. Ông ta gửi một bức thư khá thân mật mời tôi đến tư thất để bàn về một vấn đề... sẽ cho biết sau.
Tư thất của ông Phô Nô là cái đồn kiểm lâm cách xa làng Đông Bình chừng mười cây số. Ông Phô Nô hơi già, ở trần khi chào tôi. Tôi hơi giận và bắt đầu khinh ông ta: trên ngực ông ta có xâm hình quá tục tĩu, lốm đốm vài miếng lác ướt. Tôi sực nhớ đến nét chữ trong bức thư của ông ta: Tệ quá! Viết trật văn phạm, khó đọc, “con cua con còng” như tuồng chữ trẻ con lớp đồng ấu! Tôi nghĩ thầm:
- Chắc hồi ở bên “mẫu quốc” ông ta làm củi, ban bù... Sau vài phút ăn nói xã giao, tôi được nghe ông Phô Nô trình bày tiểu sử và thành tích chiến đấu. Hồi Âu Châu đại chiến 1914-1918, ông ta làm lính giữ súng đại bác 75 ly, rủi bị thương nhẹ nên ông tra trở thành “ân nhân của tổ quốc” được ưu tiên qua thuộc địa, lãnh chức kiểm lâm.
Ông ta gật gù:
- Ở đây sướng quá. Làm ít công việc mà ăn lương hơi nhiều.
Tôi hơi bực dọc, nói mơ màng:
- Đó là tình trạng chung. Xứ tôi, mọi người đều làm ít nhưng cũng ăn no đủ mặc dầu thiếu chất bổ.
Ông Phô Nô mỉm cười bí mật, mời tôi ở lại ăn cơm Tây: ngon quá, món nào cũng lạ miệng. Nhứt là đồ gia vị nào hột cải, dầu ô liu, dấm tây trộn cải xa lách. Vừa ăn ông ta vừa hỏi đến sự sanh hoạt của nông dân. Tôi trả lời:
- Nói chung, ai nấy đều sung sướng.
Ông Phô Nô trố mắt:
- Thiệt vậy à? Họ chưa ăn bít-tết, ra-gu.
- Thưa ông, dân ở vùng nước mặn đồng chua có bốn thức ăn sang trọng. Đó là lươn, ếch, rùa, rắn! Cá, tôm, thịt bò, thịt heo là món hơi nhàm.
Ông Phô Nô gật đầu:
- Mấy thứ đó ở đây sản xuất khá nhiều. Hổm rày, tôi muốn tìm cách bắt buộc dân chúng đóng thuế.
Nghe qua, tôi cố gắng nín cười. Phải chăng ông Phô Nô liệt các loại lươn, rùa, ếch, rắn vào hàng thú rừng như cọp, heo, nai, voi.
Ông ta giải thích:
- Theo pháp luật, họ phải đóng thuế.
Tôi đưa ý kiến:
- Khi nào họ bán ra chợ Rạch Giá hoặc bán lên Sài Gòn thì sẽ đóng thuế. Theo chỗ tôi hiểu thì nhà nước thuộc địa đã thâu thuế môn bài nhà vựa cá...
- Bên Pháp, vào rừng săn bắn là phải đóng thuế. Huống gì mỗi năm, ở làng nhiều người làm giàu nhờ lươn. Đây là bằng cớ: Tại làng Đông Bình, có tên... Năm Lươn cưới hai con vợ, nhờ nghề bắt lươn. Anh ta giàu lắm, mỗi tuần ra chợ Rạch Giá bán gần 200 ký lô lươn sống. Tên thật anh ta là Trần văn Lượm, vì bắt lươn quá giỏi nên dân chúng tặng biệt hiệu là Năm Lươn!
Cái tên Năm Lươn này như quen tai, nếu không lầm thì dường như tôi đã từng nhậu với anh đôi ba lần tại nhà người bạn quen nào đó. Anh ta ở giữa đồng không mông quạnh, bạn bè ít tới lui vì đường sá khó khăn. Hễ đi bộ thì thiếu đường mòn, cỏ mọc cao nghệu đầy cánh đồng, còn đi xuồng thì nước ngập lé đé khỏi mặt đất chừng ba tấc.
Ông Phô Nô nói tiếp:
- Tôi nhờ anh điều tra tên Năm Lươn. Tại sao hắn sản xuất quá nhiều lươn như vậy. Hai trăm ký lô mỗi tuần, mỗi ký lô ba con, tức là sáu trăm con lươn.
Nghe đến công tác mà ông ta giao phó, tôi hơi phiền. Mặc dầu việc điều tra ấy có vẻ lịch sự không gây sự hiểu lầm nhưng tôi không muốn. Trót ăn bữa cơm Tây của ông Phô Nô rồi. Tôi hứa qua loa.
Trước khi chia tay, ông Phô Nô rỉ vào tai tôi:
- Năm Lươn là đứa bí mật, làm nghề thầy bùa. Coi chừng nó. Cực chẳng đã, tôi nhờ tới anh. Hồi tháng trước, hai người lính kiểm lâm tới làng Đông Bình theo dõi nhưng Năm Lươn không chịu xuất hiện. Ban ngày, nó nằm nhà. Thỉnh thoảng, nó tới mấy cái thềm đìa, gò mả mà nằm ngủ hoặc ăn cơm một mình.
* * * * *
Tên tuổi Năm Lươn, ai cũng biết. Và ai cũng nhìn nhận anh ta đặt trúm rất giỏi, dùng thuốc men bí mật hoặc bùa phép.
Xin nói đôi hàng về con lươn. Hình dáng ra sao, thịt nó ăn ngon như thế nào, ai cũng hiểu. Muốn bắt, ta đặt trúm. “Trúm” tức là cái ống tre, dài hơn một thước tây, giống như khẩu súng ba-dô-ca, một đầu thì sẵn có cái mắt tre (đốt tre), đầu kia có gài một cái hom, giống như cái quặng (cái phễu). Lươn chui vào thì dễ nhưng trở ra thì khó. Muốn cho lươn chui vào phải có mồi nhử bên trong.
Mỗi người làm nghề bắt lươn sắm chừng một trăm ống trúm, đặt rải rác trên đồng cỏ mênh mông. Con lươn làm hang dưới đất, thở bằng mũi và mang. Khi đánh mùi ngon ngọt, lươn ra khỏi hang, tìm cách chui vào ống trúm để xơi mồi. Muốn đặt rải rác hàng trăm cái ống trúm, trên đồng cỏ dày bịt, mênh mông, phải sắm một chiếc xuồng, chở hàng trăm ống trúm. Rồi kéo chiếc xuồng lướt trên cỏ, cứ vài chục thước là đặt xuống một ống, tùy ý thích. Công việc nặng nhọc nhất là kéo chiếc xuồng khá nặng ấy, quanh co hàng ngàn thước. Và hôm sau, trở ra đồng cỏ, đem ống trúm về, không bỏ sót.
Do đó người bắt lươn được gọi là người “kéo trúm”. Gặp Năm Lươn là chuyện dễ. Anh ta tôi đã từng nghe biết!
- Ủa, cậu Ba! Bữa nay lên xứ này chơi hả?
Tôi đáp:
- Cậu Ba, cậu Tư gì! Kêu tôi bằng em cháu, bằng thằng cũng được. Tôi nhỏ tuổi hơn anh Năm nhiều. Đêm rồi kéo trúm khá không?
- Chừng năm chục kí lô. Mệt thấy mẹ...
- Một mình anh làm ra tiền bằng hai người khác. Mệt mà có tiền, anh còn đòi chuyện gì bây giờ.
Năm Lươn cau mày, rủ tôi tới chòi uống rượu chơi. Anh ta chỉ về phía xa xa, giữa cánh đồng hoang.
- Nhà tôi ở bờ đìa. Nhưng mà ra cái chòi này, vui hơn.
Rồi anh ta day mặt, nhìn về phía mé rừng tràm. Dọc đường, tôi hỏi:
- Chòi nào nữa? Nghe đồn anh Năm có tới hai vợ. Đằng kia là nhà của “bà lớn”, phía rừng tràm là nhà của “bà nhỏ” hả?
- Bà nhỏ ở xóm đình. Chòi này dành riêng tôi ở một mình cho khỏe thân.
Bấy giờ, vào khoảng tháng Năm. Mưa khá nhiều nhưng đồng cỏ chưa nổi nước. Từng bầy cúm núm bay bổng khi chúng tôi đến sát bên ổ. Lát sau, chúng tôi vào căn chòi. Hàng trăm cái ống trúm chất đống, theo trật tự, giống như những gốc củi xếp đặt sẵn từng thước khối, chờ giao cho thân chủ.
Chòi không vách, tấm lá chằm ngăn đôi. Phía trước là bộ ván ăn cơm, phía sau là giường ngủ.
Lời ông Phô Nô vang dội trong tâm trí tôi. Năm Lươn là người bí mật, biết bùa phép. Gẫm ra, tên do thám nào đó báo cáo cũng có lý. Xung quanh chòi, cây mua, cây lức mọc um tùm. Kế bên chòi, một cái đìa khá sâu, nước trong leo lẻo phản chiếu ánh nắng trưa. Thềm đìa quá rậm rạp. Rau muống bò lan tràn. Chuột chạy tới lui như đùa giỡn với mấy con rắn nước đang há mỏ.
Năm Lươn mở đầu câu chuyện:
- Không mấy khi, cậu lên chòi này chơi. Chắc là cậu muốn nói chuyện gì bí mật.
Tôi nhớ đến sứ mạng mà ông Phô Nô giao phó. Phải giữ kín mới được.
- Có gì mà bí mật. Tôi là dân nhậu mà, anh Năm.
Năm Lươn cười nheo mắt, hóm hỉnh:
- Khổ lắm. Vợ tôi cũng chẳng muốn tiếp rước bạn bè. Bà lớn bà nhỏ gì cũng vậy. Hai bả cho rằng tại tôi ăn nhậu mà tốn kém tiền bạc rồi sanh sứa, gây thiệt hại cho gia đình. Làm ra bao nhiêu tiền, giao mấy bả giữ, rốt cuộc tôi còn hai bàn tay không. Muốn mua thêm vài lít rượu uống nhưng khổ quá, làm sao có tiền? Tôi mua chịu ghi sổ ở tiệm Chệt.
Tôi đi ngay vào vấn đề:
- Anh siêng là một việc nhưng nhiều người siêng như anh mà tại sao họ thâu huê lợi ít hơn? Nghe đâu anh kéo trúm bá phát bá trúng, mỗi ống đều có một hoặc hai con lươn chun vô nạp mạng...
- Ừ! Chuyện đó không chối cãi. Nhưng tôi chẳng muốn dạy nghề cho ai biết. Con lươn bí mật lắm. Ra ngoài này, tôi chỉ cho mà xem.
Đến bên thêm đìa, chúng tôi ngồi xuống. Gió thổi lồng lộng, lướt qua đồng cỏ hoang vu. Ngọn cỏ quá sung sức, quá cứng nên không gợn như bông lúa, vang lên điệu nhạc buồn buồn, như tiếng ve sầu.
- Kìa! Nó lấp ló đó!
Tôi chăm chú nhìn qua phía bên kia bờ đìa. Năm Lươn đè vai tôi. Cả hai nằm mọp, không dám thở mạnh. Từ trong miệng hang, một đốm màu vàng xuất hiện, mỗi phút một to.
Tôi buộc miệng nói khẽ:
- Cái gì?
- Con lươn đó. Loại lươn già, sống hàng chục năm, có người nói nó sẽ hóa ra con chồn.
- Thiệt vậy hả?
Năm Lươn nói khẽ:
- Cứ xem thì biết.
Đầu con lươn to cỡ bắp tay, mắt nó him híp như kẻ buồn ngủ, đặc biệt là hai cái lỗ tai nó hiện ra bằng ngón tay út. Giống như mặt con chồn, giống chừng tám chục phần trăm.
Tôi hỏi:
- Tại sao nó không có chân?
- Bộ tôi là con lươn sao mà cậu hỏi tôi. Chắc nó chẳng bao giờ mọc chân.
- Tại sao nó không bò ra?
- Cậu này kỳ quá. Về già, chắc nó mệt mỏi, nằm một chỗ. Thân hình của nó ngắn ngủn hà, cậu ơi. Như cái đòn bánh tét!
Làm sao nó bay nhảy như mấy con lươn nhỏ? Bởi vậy, nó biết thân, nó nằm một chỗ trong hang vắng, ngày hai buổi ló mặt ra dòm mặt trời, mặt trăng. Hễ trời mưa, nó bò ra xem cỏ cây hoa lá...
Vậy thôi. Nó là con lươn già, thủ phận, vậy mà nhiều người cho rằng nó trở thành con chồn. Dóc quá. Ôi thôi.
Rồi Năm Lươn giải đáp câu hỏi thứ nhì của tôi. Theo ý kiến anh ta, tóc người chẳng bao giờ hóa ra cá trê hoặc con lươn. Hồi năm ngoái, tình cờ đào đất trên thềm đìa, đụng nhằm miếng ván nắp hòm. Vì là vùng đất thấp nên khi cạy nắp ra, anh ta thấy toàn là nước lõng bõng, đen ngòm và mớ xương người. Trong vùng nước thịt người ấy, có chừng ba con cá trê, đôi ba con lươn nhỏ. Đó là cá và lươn từ ngoài đìa chui vào để làm hang trong cái quan tài.
Lát sau, chúng tôi về nhà.
Tôi nằm trên bộ ván, tâm trí vẫn thắc mắc về kỹ thuật kéo trúm của Năm Lươn. Kéo quá hay, thâu quá nhiều huê lợi, chắc là dùng thứ mồi đặc biệt.
Anh ta ra sau hè, nói vọng lại:
- Nằm đó chơi nghe cậu Ba. Tôi nấu mồi để kéo trúm. Khuya nay, cậu với tôi nhậu một cữ giải sầu. Nằm đó chơi.
Câu nói thân mật ấy rõ ràng là một khẩu lịnh nghiêm khắc. Năm Lươn không muốn cho tôi tò mò, tìm hiểu cách thức nấu mồi. Hễ mồi ngon thì dĩ nhiên từ nơi xa lươn nhạy hơi tìm tới, chui vào trúm để thưởng thức rồi mắc kẹt trong đó. Gặp thứ mồi vô vị, lươn chỉ tìm đến khi nào quá đói. Tôi không chịu thua, nói to:
- Mồi gì vậy? Tôi nghe người ta nói muốn cho lươn vô trúm thì phải đổ thêm dầu cá sặc, dầu dừa vô mớ cá mồi.
Năm Lươn đáp:
- Kiểu đó xưa lắm. Mình xúc cá sặc, thứ nhỏ con, đem về luộc cho chín. Đủ rồi. Bộ cậu Ba biết kéo trúm nữa hả?
- Ờ... biết sơ sơ. Gần nhà tôi, mấy ông lão chuyên nghề kéo trúm dùng thứ mồi bí mật, mua ở tiệm thuốc Bắc. Tôi hỏi hoài mà mấy ổng không chịu tiết lộ. Có một thằng con nít kéo quá giỏi. Mỗi đêm nó kéo 20 ống, sáng ngày trút ống ra được lai rai 18 con lươn. Nghĩa là có hai ống thất bại mà thôi.
- Nó xài mồi gì?
Tôi nghiêm giọng:
- Bí mật lắm. Anh đừng cho ai biết. Nó dùng mồi cá thòi lòi, buộc chung với lá cách để lấy mùi thơm thơm. Ống trúm vừa đặt xuống là năm bảy phút sau, lươn bắt mùi cá thòi lòi chun vô nạp mạng...
Năm Lươn cười giòn:
- Đó là mồi của con nít. Dở lắm...
Nói xong, Năm Lươn đứng dậy, rồi vào trong chòi đem cái nắp vung khá to, đậy lên trên cái nồi đựng mồi. Lúc tôi ra ngoài hè thì nồi ấy đã kín mít, hơi cá chín bay thoang thoảng.
Tôi nằm xuống hút thuốc trong khi Năm Lươn bỏ mồi vào ống trúm. Anh ta làm nhanh tay: mở cái hom ra, bỏ mồi rồi gài cái hom lại. Lát sau, hàng trăm cái ống chất lên, vun đống trong xuồng. Anh ta bắt đầu kéo trúm, hai tay bám vào mũi xuồng rồi day mặt về phía lái đi thụt lui. Chiếc xuồng từ từ di chuyển kéo tới đâu là cỏ nằm rạp xuống. Thỉnh thoảng anh ta dừng xuồng, đặt một hai ống trúm rồi kéo tới, quanh co, khuất lẫn trong biển cỏ.
Còn lại một mình, tôi lợi dụng cơ hội để thám thính căn chòi hoang. Diêm quẹt đánh lên, châm vào thếp đèn dầu cá. Trong buồng, trơ trẽn cái hũ gạo. Tôi mở nắp hũ: Hai cái hộp cá mòi hiện ra, loại cá mòi nhập cảng, vô hộp tại xứ Ma-rốc. Hai hộp này còn nguyên. Một hộp thứ ba đã khui ra, còn sót hai con cá vàng lườm. Cá mòi hiệu Xu-ma-cô nổi danh.
Chuột chạy sột soạt. Tôi giựt mình. Năm Lươn chưa về. Tôi ra sau hè. Cái nồi đựng cá mồi nằm đó. Gió thổi nhẹ đưa lên mùi cá hộp, mùi đặc biệt...
Trong một thoáng, tôi đủ hiểu tại sao Năm Lươn cố ý bắt buộc tôi nằm ở bộ ván trong khi anh ta nấu mồi. Nào có gì đâu. Trong mớ cá sặc, cá rô nhỏ xíu ấy, ta trộn thêm chút ít cá mòi hộp để gây mùi thơm. Mùi thơm của dầu ô-liu. Ô-liu là loại trái vùng ôn đới có dầu béo, như trái cà na, dầu ô-liu thơm ngọt, tẩm cá mòi hộp vì vậy cá mòi “Xu-ma-cô” nổi danh. Hấp dẫn và đặc biệt hơn mùi mỡ heo...
Nhờ mùi dầu độc đáo ấy, Năm Lươn làm ăn khá giả, cưới hai vợ và cũng vì muốn giữ bí mật nhà nghề nên anh ta mang tiếng là “phù thủy”.
Tôi tắt đèn, nằm im.
Lát sau. Năm Lươn về, mang theo hai con lươn. Anh gọi to:
- Thức dậy cậu Ba ơi. Nhậu chơi.
Tôi đáp:
- Mồi ngon quá vậy! Chưa chi mà lươn đã chạy vào ống trúm, làm tù binh.
Năm Lươn vào chòi, đốt đèn rồi mở nắp hũ gạo. Anh nghiêm mặt, trở ra:
- Hồi nãy tới giờ...
Để tránh sự hiểu lầm, tôi lên tiếng:
- Tôi đói bụng, muốn kiếm cơm nguội nhưng gặp hộp cá mòi của anh...
Năm Lươn thở dài:
- Kỳ quá. Hồi năm ngoái, có một người tới đây, giống như cậu, để dọ thám, cho rằng tôi làm... quốc sự. Ông Tây Phô Nô biểu cậu lên đây hả?
Tôi im lặng, chưa trả lời. Năm Lươn ngáp dài:
- Đời sao khó sống quá. Mình thủ phận, làm ăn vất vả vậy mà họ cũng nghi ngờ. Họ muốn cái gì đây? Tôi như con lươn già trong hang. Tại sao thiên hạ không hiểu như vậy? Ở một chỗ cheo leo mà không yên. Bây giờ tôi nói thật đó. Mồi lươn của tôi có trộn cá mòi hộp. Thứ cá mòi có ướp dầu, hễ đặt xuống nước là dầu nổi màng màng, loang ra. Bao nhiêu lươn đều xúm lại chun vô ống trúm.
Tôi chợt nhớ đến buổi cơm Tây, tại nhà ông Phô Nô:
- Anh Năm đừng giận. Tôi giúp anh. Tôi tới nhà ông Phô Nô, ăn cắp chai dầu ô-liu đem về. Anh tha hồ mà kéo trúm. Mua cá mòi hộp tốn tiền. Ông Phô Nô có mua ở Sài Gòn một lít dầu ô-liu, tụi Tây trộn dầu này với giấm, rưới vào xà lách. Dè đâu...
- Cái gì?
Tôi theo dõi ý nghĩ riêng, dè đâu con cá mòi ở Địa Trung Hải và hương vị dầu ô-liu miền Bắc Phi lại là mồi ngon của lươn U Minh... Bên thếp đèn dầu cá, Năm Lươn ngồi đó, đập muỗi từng chặp, hai tay chai cóng, bắp chân nổi gân như cọng rau muống. Tôi nực cười cho dư luận và bắt đầu xem ông Tây Phô Nô như đứa con nít, nói đúng hơn là như một con lươn sắp hóa ra chồn bên thềm đìa, bên hè.