Lũ trẻ chăn trâu
Thằng Hon quỳ xuống cúi mọp đầu mà lạy.
Nó lạy đến lần thứ hai mươi. Ông hương cả Bạch vẫn giữ nét mặt lạnh như đồng. Và mỉa mai thay, trong lúc nó tiếp tục cử hành cái lạy thứ hai mươi mốt, ông hương cả từ từ đứng dậy, đi vào buồng.
Ngoài này, nó ung dung lạy lần thứ hai mươi hai rồi nói mếu máo với người phía bên kia vách buồng:
- Trăm lạy cả, ngàn lạy cả, xin cả tha tội cho con, con hứa tìm cách chuộc tội.
Ông hương cả Bạch quát to:
- Bộ mày hát bội cho tao nghe, phải không Hon? Mầy kêu tao bằng thằng hương cả hả? Tao không biết gì ráo. Theo luật lệ, hễ mày làm mất của tao một con trâu, thì mày đền lại tao một con trâu. Tao ăn ở công bình, đâu có biểu mầy đền hai con.
Thằng Hon im lặng, bắt đầu tin tưởng nơi lòng nhân đạo của chủ nhà. Biết đâu sau cơn nóng nảy quát tháo, ông hương cả sẽ hả giận: Từ thái độ im lặng đến thái độ chịu lên tiếng mặc dầu lên tiếng để chửi quả là ông hương cả bộc lộ tình cảm dồi dào. Biết đâu, mai chiều ông sẽ tha tội.
Thằng Hon lầm to.
Hồi lâu, ông hương cả nói tiếp:
- Một con trâu, con trâu pháo, trị giá một trăm giạ lúa. Kỳ hẹn trong hai ngày, nếu mày không tìm lại được, tao bắt mày ở tù. Mầy thông đồng với bọn ăn trộm trâu. Tại sao con trâu pháo đi lạc giữa ban ngày? Năm nay mầy mười ba tuổi chớ đâu phải đứa con nít, còn bú? Trong lúc mầy ở tù, cha mầy ở nhà phải đền bồi đủ trăm giạ lúa, nghe chưa? Tao biểu mầy đi kiếm cho được con trâu pháo. Để quá trễ nải, nó đi lạc vô điền đất người khác hoặc tụi ăn trộm xẻ thịt phơi da nó. Mầy quỳ ở trong nhà tao hoài hả?
Nghe đến chuyện ở tù, thằng Hon chết điếng. Cha nó đã qua xóm Xẻo Bần đốn củi mướn. Biết nhờ cậy vào ai bây giờ? Ông hương cả bước ra:
- Ủa! Quỳ ở đó trừ nợ hả? Hay là mầy muốn tao lạy ngược để trả lễ cho mầy! Cha chả! Mầy mà sợ ai? Cực chẳng đã, thằng Hon đành xá dài, lui ra rồi đi thẫn thờ. Bầy trâu trong chuồng cứ dậm chân, mấy con nghé kêu lên “nghé ngọ” nghe thảm thiết. Từ hôm qua tới giờ này, ông hương cả đã niệt trâu trong chuồng, bắt buộc thằng Hon phải cắt cỏ đem về. Ông nói: “giao cho mầy dẫn trâu ra đồng cũng như giao cho quân ăn trộm”. Trâu dậm chân kêu “nghé ngọ” vì đói, vì mến thằng Hon, vì đòi chạy rong ngoài đồng.
Đôi mắt thằng Hon bỗng dưng rướm lệ. Nó nghĩ thầm:
- Trâu bị nhốt nhưng sướng hơn mình. Mình đi nghêu ngao như vầy chẳng khác nào bị ở tù.
Về đâu bây giờ?
Thằng Hon quyết định: Ra ngoài ruộng mà ngồi cho khỏe. Đến gốc cây mù u, nó sực nhớ đến nhiệm vụ cắt cỏ cho bầy trâu trong chuồng ăn. Nhưng nó quên đem theo cái liềm hái, chẳng lẽ trở vào nhà để gặp ông hương cả Bạch lần nữa.
Bên gốc cây mù u có ngôi miếu cổ dựng lên không biết từ đời nào, mái ngói rong rêu, mấy cây cột bị mọt ăn sắp ngã quỵ xuống. Lúc rảnh rang, nó thường vô miếu ngủ trưa hoặc nặn hình ông Thổ địa. Rồi được lũ trẻ chăn trâu chọn làm nơi đùa giỡn, miếu Thổ địa gọi là miếu chăn trâu. Người qua lại thường khấn vái, thỉnh thoảng họ cúng nải chuối hoặc con gà.
Tại sao kẻ chăn trâu làm mất trâu lại không khấn vái nơi miếu chăn trâu để cầu xin?
Thằng Hon mỉm cười khi nghĩ ra biện pháp cuối cùng ấy. Nó bước vô miễu. Con cắc kè kêu vọng lên. Vài cánh dơi bay sập sận. Từ đám cỏ vàng úa dưới bệ, bầy muỗi bay vo ve.
Sau khi khấn vái, thằng Hon ngủ lim dim, chờ thần báo mộng.
Nắng xế dài. Nó chợt giựt mình thức dậy vì bên vách có giọng nói, long trọng:
- Ta đây là Tổ sư chăn trâu. Này đệ tử Hon ơi! Chẳng hay đệ tử cầu xin điều chi?
Thằng Hon dụi mắt. Đó là giọng quen thuộc của thằng Kia. Thằng Kia thuộc vào bậc đàn anh trong làng chăn trâu. Nó nghiễm nhiên làm kẻ đầu đàn, bao nhiêu trẻ con chăn trâu trong vùng đều sợ. Nó lớn tuổi, điều ấy không đáng kể vì nếu cần đánh lộn chưa ắt nó mạnh khỏe, biết thế võ “xí múng” bằng mấy đứa khác. Có điều là thằng Kia tự xưng dòng dõi “chăn trâu nòi”. Mỗi khi bày trận đánh giặc hoặc xưng vương, thằng Kia ngồi chễm chệ trên chòi cây mù u. Đôi khi còn ngạo mạn, nhảy trên bệ thờ trong miễu, tự xưng là thần thánh, bắt buộc mấy đứa khác quỳ lạy.
Thằng Hon nói:
- Anh Kia à, ông hương cả biểu tôi kiếm cho bằng được con trâu pháo. Kỳ hẹn hai ngày.
Thằng Kia hất hàm:
- Nếu kiếm không được thì có sao không?
- Thì tôi ở tù, ba tôi bồi thường một trăm giạ lúa.
- Thằng cha hương cả này bộ khiến chết rồi sao chớ? May mà con trâu pháo thuộc loại trâu đực. Nếu là trâu cái, chắc “thằng chả” bắt thường một ngàn giạ lúa, bỏ tù mầy chung thân khổ sai, đày ra Côn Lôn.
Nghe nói tới bản án chung thân khổ sai, thằng Hon xúc động, khóc nức nở. Thằng Kia cười to:
- Tao nói chơi vậy thôi. Mầy biết tại sao một ngàn giạ lúa không? Trâu cái có giá trị hơn trâu đực. Thằng cha hương cả làm bài toán: trâu cái cứ hai năm đẻ một lần và mỗi lần đều phải sanh đôi cho vừa túi tham của “thằng chả”.
- Anh giúp tôi. Không hiểu con trâu pháo chạy lọt về đâu?
- Tao là dòng dõi “chăn trâu nòi”. Ông nội tao, cha tao, rồi tới tao, ai nấy đều nối nghiệp chăn trâu. Tao nói đâu đúng đó. Mầy đừng hỏi ông Thổ địa chi, tao có cách này: Mầy rửa mặt, ăn no ngủ kỹ, rồi thì tai qua nạn khỏi.
Rồi thằng Kia đặt nhiều giả thuyết về trường hợp con trâu pháo đi lạc. Xưa nay, lời tục thường nói: “lạc đường dắt đuôi chó, lạc ngõ dắt đuôi trâu”. Nếu vì ham ăn cỏ non mà đi lạc, lẽ dĩ nhiên trâu nhớ chuồng cũ mà trở về. Nhiều người mua trâu từ nơi xa, sơ ý để sút dây vàm, trâu chạy trốn bốn năm chục cây số để “đáo lai” chuồng cũ.
Thằng Hon sốt ruột hỏi:
- Nhưng con trâu pháo bây giờ ở đâu?
- Ở gần đây chừng hai cây số mầy biết không? Miệt này ai cũng nghe danh điền tổng Bồi. Ai muốn vô điền ổng thì phải xin phép trước, bằng không ổng bắt đóng trăn. Mấy con trâu của tổng Bồi đều có đóng dấu nơi sừng và bên hông. Ổng nướng con dấu bằng sắt rồi “ịn” vô. Con trâu pháo của mầy nhất định đi lạc qua điền của ông tổng Bồi. Ổng tịch thâu rồi “ịn dấu”. Trời mới dám nhìn. Mầy láng cháng tới đó, ổng bắt mầy luôn. Con trâu pháo đã vô sổ bộ của ông.
- Để tôi trình cho ông cả Bạch hiểu đầu đuôi.
- Hừ! Hương cả Bạch là hạng người khôn nhà dại chợ. Oai quyền của ổng không bằng một sợi lông chân của tổng Bồi! Đừng lo. Tao là “chăn trâu nòi” mà! Mầy cứ làm như vầy, như vầy, ra tay cho khéo. Mầy về giả bộ lạy lục ông hương cả Bạch rồi xuống bếp xin cơm nguội mà ăn, nhớ nghe không?
Thằng Hon gật đầu, nói giọng bí mật:
- Dạ, tôi nhớ rồi.
- Nhớ chỗ đó kia! Phải đánh đúng chỗ “nhiệc” của ổng. Ngoài mầy ra, không ai làm được chuyện đó.
- Dạ, tôi thấy mà. Chỗ đó tôi biết. Tôi thấy chỗ đó rồi.
Hai đứa cởi quần áo nhảy xuống vũng để tắm mát. Thằng Kia quả là người bạn tốt, xứng danh “chánh vì vương”. Nó cười ỏm tỏi:
- Tối nay tao làm công việc khác. Nhớ ra ngoài miếu này gặp tao, đầu canh tư. Nếu không gặp tao, mày nằm trong miếu mà chờ đợi. Cha chả! Vui cha chả là vui. Biết đâu qua trận này, tụi mình có vợ ráo trọi. Nhớ cái chỗ nhiệc (nhược) đó!
* * * * *
Trời tờ mờ sáng.
Ông Từ giữ nhang khói đình làng Khánh Van đã thức dậy. Tuổi già sức yếu, ông có tật thức vào đầu canh năm rồi ngồi bên căn chái phía sau đình.
Siêu nước sôi lên nghe vui tai. Tiết trời như lành lạnh. Lát sau ông pha trà, rót ra một cái tô lớn. Mấy hớp đầu tiên đem cho ông Từ niềm ấm áp nhưng hương vị của tô trà không mấy đậm đà.
Ông nhướng mắt nhìn vào đáy tô. Không có gì hết!
Ông hinh hỉnh lỗ mũi vừa hớp vừa đánh hơi.
“Lạ thật! Tô trà phảng phất mùi hôi hám gì khó chịu”. Quá tức giận, ông giở nắp ấm, đổ tất cả nước sôi và xác trà vào cái chậu để phân chất. Ông cau mày vì đã đoán lầm: nước và xác trà đều tinh khiết, đâu có lẫn lộn chút phân chuột, phân dơi!
Gió thổi thoang thoảng. Mùi ô trược lại xuất hiện mơ hồ, bàng bạc đó đây. Ông Từ đã hiểu: mùi ấy ở chỗ khác. Lập tức ông bước xuống đất, khom lưng, nhướng mắt tìm cái xác chuột chết dưới gầm giường.
Gầm giường rất sạch sẽ! Bây giờ ông mới sảng sốt, mở toang cánh cửa liếp. Mùi ô trược bay lộng vào. Ông chạy ra sân, thấy trên bãi cỏ một đống phân người.
Vốn là kẻ hiền lành, ông ngẫm nghĩ:
- Ai thù oán mình mà họ bày trò vô lễ này? Mình nghèo khổ, làm tôi tớ quét dọn trong đình mà thôi.
Đột nhiên, ông nhớ đến thủ đoạn của bọn đạo chích. Sau khi rình nhà ăn trộm vài món lặt vặt, chúng thường phóng uế để “xổ xui” trước khi rút lui. Nhưng ngôi đình này đâu có gì quý giá! Lập tức ông ra trước sân rồi trở lại gian chái để tìm cái chìa khóa.
Ông trở lên mở khóa. Nhưng hỡi ơi! Cái ống khóa bị bẻ gãy tự bao giờ. Trong chánh điện, mất một con hạc bằng cây. Con hạc còn lại thì nằm nghiêng trên nền gạch. Trong hàng “lễ bộ” đã vắng dạng một cây kích, một cây chùy bằng cây. May phước quá! Bộ lư vẫn còn. Ngoài ra chẳng mất món nào khác.
Tại sao con hạc lại bay, với đôi cánh bằng cây? Và ai đã lấy trộm cây chùy, cây kích? Loại khí giới bằng cây ấy dành để cho kép hát bội dùng chớ ai sờ mó làm gì? Đây là vụ trộm có ác ý, có tổ chức.
Bấy giờ ông Từ sực nhớ tới trách nhiệm nặng nề của mình, hương chức làng sẽ khiển trách. Tại sao ăn trộm vào đình mà không hay biết? Ông nghĩ ra một kế: hốt sạch đống phân rồi tất tả chạy đến nhà ông hương cả Bạch, vị chánh bái của đình. Suốt mười năm qua, ông hương cả giữ chức ấy và được giao cho trách nhiệm giữ “sắc thần” là cái bằng cấp, do triều đình ban cho để thờ phụng. Bình thường, sắc ấy cuốn tròn lại cất giấu kỹ lưỡng tại nhà ông cả. Tới ngày kỳ yên, hương chức thỉnh sắc ấy tới đình, lễ xong đem cất tại chỗ cũ sợ xảy ra trường hợp sắc thần bị trộm đem bán cho những đình làng chưa có sắc.
- Chuyện gì vậy? Làm gì mà tới sớm vậy?
Ông Từ đã nghiên cứu từ trước những lời lẽ mà ông phải nói để trút bớt trách nhiệm và tăng thêm phần long trọng:
- Trời ơi! Ghê gớm quá. Tôi nằm chiêm bao thấy ông thần hiện về, râu tóc bạc phơ. Ổng nói với tôi rằng cơ trời thay đổi.
- Thiệt vậy sao? Ông thần làng này linh lắm. Xưa kia ổng làm tới chức cai đội trong cơ binh của vua Gia Long. Ổng bị quân Tây Sơn xử trảm. Từ đó ổng sống phảng phất trên trần gian này.
Ông hương cả vừa hỏi ông Từ, vừa liếc lên trang thờ, nơi ông đã cất giữ cái sắc thần. Nhưng ông chỉ nhìn từ phía sau trang thờ.
Giọng ông Từ thêm phần bi ai:
- Ông thần làng mình thật là linh thiêng. Ổng nói, cơ trời thay đổi rồi lại đổi thay, như giấc chiêm bao.
Ông hương cả gật đầu, cau mày:
- Thay đổi rồi lại đổi thay, nghĩa là không có gì thay đổi ráo trọi. Giấc chiêm bao đó mơ hồ, khó tin.
Ông Từ cúi đầu nói khẽ:
- Nhưng trước khi từ biệt đình làng, ông thần liền hóa phép, đem theo một con hạc để ông cỡi rồi ông vung hai tay, cầm cây chùy và cây kích. Tôi giật mình thức dậy, lên chánh điện thì rõ ràng, mấy món đó mất dạng.
Ông hương cả Bạch sửng sốt đứng dậy, bước nhanh ra trước nhà, nơi phòng khách, để nhìn kỹ lên trang thờ, đôi mắt ông ròn xoe:
- Trời! Cái sắc thần đã mất. Ai lẻn vào đây ăn trộm vậy kìa! Chết cha! Phen này... tội nặng lắm.
Ông Từ được trớn bèn kết luận:
- Ông thần cỡi hạc bay đi thì làm sao cái sắc thần còn ở trên trang cho được. Rõ ràng, hai chuyện này dính dáng với nhau.
Nói xong, ông Từ vuốt râu mỉm cười, chua xót, thấy mình tuy có tội lớn với dân làng nhưng không “tày trời” bằng tội của ông cả Bạch.
Ông hương cả Bạch đã già trên sáu mươi tuổi. Trong phút giây ông chợt đoán ra phần nào sự thật. Để tròn trách nhiệm, ông nghĩ ra một ý kiến táo bạo:
- Truyền cho dân làng đánh mõ, đánh trống lên để tri hô, tìm bắt thủ phạm. Nó ăn cắp “sắc thần” rồi! Đình mà không có sắc thần thì tai họa xảy tới. Vái trời.
Ông Từ bươn bả ra cửa, vừa chạy vừa tri hô. Ông hương cả chạy theo. Bầy trâu trong chuồng dậm chân, trâu con kêu nghé ngọ vì đói, hôm qua thằng Hon không thèm cắt cỏ! Lần đầu tiên từ mấy năm qua. Ông nói gằn, to giọng:
- Đ.m. nó!
Rồi ông kềm hãm cơn phẫn nộ:
- Phen này mình thua trí thằng con nít.
Độ mười phút sau, dân làng nhốn nháo đến mé rạch, bao vây các khu vườn, chận xét những ghe xuồng lạ mặt, cãi vã nhau, đặt ra hàng trăm giả thuyết về quá khứ vị lai:
- Chắc làng này có hạn hán, bão lụt, mắc ôn mắc dịch, hoặc hồi năm ngoái, hương chức định gian lận tiền lạc quyên, nên thần mới giáng họa!
Bỗng nhiên vài người la hoảng:
- Tại sao mình không bơi xuồng rượt theo kẻ trộm. Nó ở dưới sông, mình kiếm trên bờ vô lý quá.
Ông hương cả Bạch chợt thấy hai cậu thanh niên đứng trong đám đông. Đó là thằng Kia thuộc giòng dõi “chăn trâu nòi” và thằng Hon, đứa làm mất con trâu pháo của ông. Hai đứa đứng ưỡn ngực, chống nạnh. Ông muốn nắm đầu tụi nó, đánh cho một trận, chưa chi chúng nó đã cút mất mạng? Ông muốn tố cáo thật to, nhưng với mớ tóc bạc, già dặn trường đời, am hiểu tâm lý dân làng, ông mỉm cười, giữ im lặng, tính toán cẩn thận:
- Rủi hai đứa nó giấu luôn cái sắc thần thì sao? Cái sắc thần quý hơn con trâu pháo. Mình cần giữ chức chánh bái trong đình để góp tiền cúng tế, góp tiền tu bổ đình hàng năm và để chết có danh. Mất con trâu pháo, mình còn sắm được con trâu khác, chớ mất sắc thần, mất chức vị chánh bái thì làm sao chuộc được.
Tiếng cười bỗng ồn ào lên, từ bờ rạch:
- Gặp rồi! Cái sắc thần, con hạc với cây chùy, cây kích nằm trên bè chuối. Tụi ác ôn nào đó thả ông thần xuống bè, để trù rủa làng mình. Chắc là mấy ông hương chức ở làng kế bên phá rối làng mình. Họ thấy làng mình có ông thần linh hiển rồi ganh tị.
Ông hương cả Bạch nói gắt:
- Không đâu. Dòi trong xương dòi ra.
Rồi ông chạy tới nơi. Cái sắc thần cuộn tròn chắc là còn để trong cái ống tre sơn son. Kế bên là con hạc bằng cây nằm nghiêng, vì đã gãy chân. Cây chùy, cây kích trơ trẽn quá! Chiếc bè chuối trôi lờ đờ. Một người lên tiếng:
- Ai dám vớt cái bè đó vô bờ. Rủi ông thần vặn họng thì sao?
Ông hương cả nói gằn từng tiếng:
- Xưa nay, chỉ có mấy ông chăn trâu mới dám vớt bè. Mấy “ổng” là con cháu ông Thần Nông. Mấy ổng dám vớt bè tống ôn để ăn đầu heo, ăn gà vịt cúng tế. Bây giờ thì...
Nói tới đó, ông đưa mắt liếc vào đám người, thấy dạng thằng Kia và thằng Hon. Ông nói tiếp, giọng xa xôi:
- Bây giờ mời con cháu ông Thần Nông ra tay giúp dân làng.
Hàng trăm cặp mắt đổ dồn về phía thằng Kia và thằng Hon. Thằng Kia nói to, cố ý cho thằng Hon nghe riêng mà thôi:
- Để tao! Tao là “chăn trâu nòi”, tao có “cô hồn” hơn mầy. Mầy đứng đó, đừng lăng xăng hư việc hết.
Thằng Kia ưỡn ngực từ từ tiến về phía ông hương cả Bạch. Ông hương cả thiếu điều muốn ăn gan nó. Nó muốn cười thật to. Nó mím môi lại rồi nói như đùa giỡn:
- Chắc ở làng này con nít chăn trâu bị ăn hiếp nên ông thần mới bị phiêu bạt làm vậy. Ông thần đau xót vì con cháu ông Thần Nông gặp nạn. Ổng nghĩ rằng ổng không còn linh thiêng hay là ổng giận nên ổng từ giã làng này.
Ông Từ sực nhớ tới mùi “thoang thoảng” bên tô trà hồi sáng nên nói to:
- Thiên hạ hiểu rồi! Thỉnh sắc thần lên đi cha nội ơi!
Thằng Kia đáp:
- Từ rày dân làng hứa ăn ở hiền lành với tụi tôi mới chịu vớt bè.
Nó cởi áo nhảy xuống rạch, nói với lại:
- Sau khi tôi vớt lên, phải cúng vái tạ tôi nghe không? Cúng đầu heo rồi thả bè cho tụi tôi vớt lên ăn chơi.
Ông hương cả nói to:
- Kia ơi là Kia! Tao lạy mầy đây nè!
Rồi ông nhìn thằng Hon:
- Hon ơi là Hon! Tao lạy mầy rồi mà!
Hôm sau thằng Hon tiếp tục giữ trâu cho ông cả Bạch. Bầy trâu được thả ra đồng ăn cỏ. Ông hương cả chẳng nói nặng nhẹ tiếng nào cũng không nhắc nhở việc bồi thường con trâu pháo. Thằng Hon tiếp tục “nằm trâu, thổi sáo mơ đời Thuấn Nghiêu” như câu ca dao đã truyền tụng.