← Quay lại trang sách

Mây trời và rong biển

Ở miền duyên hải Hà Tiên có trồng loại dưa hấu ngon ngọt, gọi nôm na là dưa Hà Tiên. Tôi đến viếng thăm miền thơ mộng ấy nhằm mùa dưa.

Mấy người làm rẫy gần chùa Hang thi nhau mời khách qua đường:

- Dưa Hà Tiên ngon bực nhứt nè! Mua ở đây khỏi lầm thứ giả.

Tôi ngạc nhiên vì làm sao có dưa Hà Tiên giả tại vùng Hà Tiên? Thật ra, đó là dưa hấu thông thường, ở đâu cũng có. Người địa phương đã chịu khó vào mấy hang đá, hốt phân dơi về bón. Phân dơi giàu chất “am- mô-nhắc” nồng nặc mùi nước tiểu. Có lẽ mùi ấy giúp cho dưa hấu ngon ngọt chăng?

Nhìn người bán dưa, tôi hỏi gắt:

- Tại sao lầm thứ giả?

Anh trả lời:

- Muốn trồng dưa cho ngon phải có “hoa tay” (năng khiếu). Nếu mình thiếu âm đức, trái dưa không ngọt hoặc ruột dưa trắng bệch. Thí dụ như ông Hai đằng kia.

- Ông già Hai làm gì mà thiếu âm đức?

Anh nọ trả lời:

- Chuyện dài lắm. Mời ông...

Tôi chợt hồ nghi đó là thủ đoạn tranh thương bất chánh để giành giựt mối hàng. Đã trót đóng vai kẻ du lịch tại sao tôi không dừng lại ăn dưa, để nghe chuyện.

Tôi ngồi bên tảng đá.

Trái dưa hấu đã xẻ ra, vỏ mỏng, ruột đỏ tươi, ráo mặt. Ăn xong, tôi lên tiếng:

- Chuyện ông già Hai ra sao? Tại sao kẻ thiếu âm đức chẳng trồng dưa ngon được?

Như để thanh minh cho lòng dạ ngay thẳng của mình, anh bán dưa trỏ tay về phía mé biển:

- Ổng ngồi đó! Lát nữa thầy tới đó thì biết. Tôi nói xấu làm gì? Cả vùng này thiên hạ đều chạy mặt.

Người được gọi là “ông già Hai” tuổi hơn năm mươi, dáng điệu ốm yếu. Tuy cách xa hàng trăm thước, tôi thấy rõ mái tóc bạc và bộ quần áo lãnh đen, lấp lánh dưới ánh nắng mai. Gió ngoài biển khơi bắt đầu thổi lộng. Ông già Hai ra khỏi căn chòi nhỏ bé, lấy tay che bớt ánh nắng rồi nhìn khá lâu về phía tôi đang ngồi.

Anh bán dưa như đắc ý:

- Thầy thấy chưa? Ông già Hai hồ nghi tôi đang nói xấu ổng.

Tôi bực mình: tại sao ở chốn thanh lâu u cốc mà lại xảy ra cuộc tranh chấp nhỏ nhen như vậy? Thể diện con người là cái gì? Nguồn lợi bán dưa có là bao? Và nếu ông già Hai đã phạm tội tày trời, lẽ ra ổng phải ngồi tù.

Đàng kia ông già Hai đi tới lui như bực dọc rồi đi xuống trước chòi.

Anh bán dưa mỉm cười:

- Ổng đang rình.

Tôi càng tò mò hơn:

- Rình cái gì?

Anh bán dưa nói:

- Lời thiệt khai ngay... Tôi đâu có vu cáo ổng mà tôi sợ mang tội lỗ miệng.

Rồi anh ta kể chuyện. Câu chuyện sát nhơn mà tôi lược thuật như sau: Điều đáng chú ý là ông già Hai mãi ngồi lì trước sân, để nhìn về phía chúng tôi. Dường như ông theo dõi mọi động tác của anh bán dưa này.

Ông già Hai xưa kia làm tới chức phó tổng, cai quản chục mẫu vườn. Ông ta làm chủ ngôi nhà ngói duy nhất trong vùng.

Tánh ông ta rất khó thương, tiền bạc thì muốn gom vô chớ chẳng bao giờ cho xuất ra.

Tôi ngắt lời anh bán dưa:

- Thì tiểu phú do cần, đại phú do thiên, ổng hà tiện là phải. Kiến tha lâu đầy tổ. Như vậy đâu phải là thiếu âm đức?

Anh bán dưa lắc đầu:

- Trời ơi! Thề với trời đất tôi chẳng bao giờ nói xấu ổng. Thầy cứ ngồi ăn, không cần phải trả tiền dưa mà.

Trước thái độ chân thành ấy, tôi im lặng.

Anh bán dưa cho biết thêm. Vì muốn gom góp tiền bạc để làm vua một cõi, nên ông ta gìn giữ con gái thật kỹ lưỡng, chẳng thèm gả cho bất cứ chàng trai nào trong vùng. “Ngọc lành còn đợi giá cao”.

Lâu ngày chầy tháng, cô con gái ông trở nên “lỡ thời”. Cô ta tên Ngọc.

Tôi hỏi nhanh:

- Chuyện có thiệt hay không? Thế gian này, nhà giàu kén rể là thường tình.

Anh bán dưa nói gắt:

- Lát nữa tôi dẫn thầy qua bên kia núi để xem bằng cớ. Cái miếu thờ oan hồn cô Ngọc.

- Ghê quá vậy? Tại sao cô ta chết sớm?

- Năm đó ông già Hai bày qua nghề làm ruộng nhà. Bọn tá điền trốn nợ, chọn nơi đất đai phì nhiêu hơn. Ông già Hai mướn nhân công, dân vùng này ghét ổng, chẳng ai chịu làm mướn. Rốt cuộc, thằng Tú, chuyên nghề ăn cướp biển đến tình nguyện làm tôi tớ. Cái thằng này lạ. Nó bảnh trai, tuổi hơn hai mươi. Hằng ngày, ông già Hai bắt buộc làm việc không hở tay. Ban đêm nó ngủ bên chái nhà bếp, gần chuồng bò. Thiên hạ cười chê, nghĩ mà buồn cho thân phận chàng ăn cướp biển sung sức ấy.

Vài người đặt giả thuyết:

- Thằng Tú si mê cô Ngọc!

Lúc ăn giỗ hoặc lân la trong xóm, ông già Hai khoe khoang:

- Bà con đừng đàm tiếu, vô ích. Chuyện trong nhà, tôi biết hơn ai hết. Tôi đủ quyền lực giết nó mà! Nó muốn bỏ nghề bất lương, trở về làm ăn lương thiện. Tại sao tôi không cứu vớt nó.

Ông già Hai lầm to, thằng Tú đã yêu con gái ông. Lúc ban đầu, cô Ngọc tỏ vẻ lạnh lùng. Đôi ba lần thằng Tú đánh bạo:

- Cô ơi, cô...

Cô Ngọc cau mày:

- Nói gì thì nói phứt. Cha tôi khó lắm.

Thằng Tú đáp:

- Cô đừng sợ liên lụy. Tôi muốn nói ra. Mà thôi cô dư hiểu rồi? Nói ra thêm phiền. Rủi bề gì...

Thân hình mạnh khỏe, gương mặt khả ái trẻ trung của thằng Tú lắm lúc khiến cô Ngọc rung động. Lần hồi, cô nghĩ mà tội nghiệp cho đứa si tình:

- Anh nói đi.

- Tôi không sợ đòn bộng, tôi không sợ chết. Tôi sợ cô từ chối hoặc mắng nhiếc. Chừng đó, chắc tôi tự tử.

Cô Ngọc đáp:

- Anh nói kỳ quá hè! Tự tử làm gì, ích lợi cho ai đâu? Anh không còn cách xử trí nào khác cho xứng mặt anh hùng!

- Tôi sẽ làm nghề ăn cướp biển, giết người như rạ, giết tất cả đàn bà con gái để trả thù, cô chịu không?

Cô Ngọc im lặng mừng thầm vì chàng trai tỏ ra xúc động. Hồi lâu, chàng Tú cúi mặt:

- Thôi, tôi ra ruộng.

- Anh ở lại chút nữa.

- Không dám, tôi mắc cỡ lắm.

Cô Ngọc cười nhoẻn nụ, nói đùa như giỡn với một con thú dữ đang bị trói:

- Ai làm gì mà anh mắc cỡ? Vậy anh mắc cỡ với ai vậy chớ? Anh biết chữ không?

Thằng Tú nói lấp vấp:

- Dạ, tôi biết đọc chớ không biết viết.

Rồi đêm thằng Tú nằm thao thức. Thỉnh thoảng nó chun ra khỏi chiếc nóp, đến sát vách lén nhìn vào phòng cô Ngọc. Cô Ngọc ngồi chống tay lên trán như suy nghĩ. Hồi lâu cô tắt đèn, lên giường nằm.

Thằng Tú mừng quýnh như mở cờ trong bụng vì người đẹp chẳng ngủ được. Nàng lăn qua lăn lại rồi chợt ngồi dậy đốt ngọn đèn chong, đem giấy mực ra viết, viết rồi lai đốt bỏ. Rồi nàng ngủ.

Tại sao nàng chưa chịu gởi thư riêng cho nó xem? Dường như ông già Hai chẳng lưu ý mảy may đến mối tình vụng trộm ấy. Nàng đóng kịch khéo léo. Bận nọ, lúc mưa chiều lạnh buốt ông chợt nhớ đứa đầy tớ:

- Ngọc à! Con đem chai rượu cho thằng Tú nó uống!

Ngọc cau mày, nói gắt:

- Cho uống nó lờn mặt. Nếu nghiện rượu thì nó xuất tiền túi ra mà mua. Mỗi tháng cha trả cho nó hai đồng bạc kia mà!

Ông già liếc nhìn con gái, chợt nhận ra một điều: Tại sao nó lại hà tiện và tàn nhẫn hơn mình! Mình đây đã tàn nhẫn và hà tiện đến mức rồi. Chắc là...

- Tội nghiệp! Hồi nào tới giờ thằng Tú ngao du khắp ngũ hồ tứ hải, đi dọc về ngang. Trời mưa sóng biển ầm ầm như vậy, chắc nó buồn lắm.

Ngọc nói gắt:

- Có thương thì cha đem rượu cho nó đi. Con không ưa đám con nít ghiền rượu.

Ngồi bên chái nhà, thằng Tú nghe rõ cuộc đấu khẩu giữa người yêu và cha nàng. Nó xốn xang tấc dạ. Ngoài kia biển dậy ầm ầm, mấy chiếc ghe lưới chạy phăng phăng vào bãi. Hồi còn theo nghề ăn cướp biển nó thích chí khi thấy biển động. Chính lúc ấy, nó giả vờ đến tiếp cứu mấy ghe bị nạn, rồi thừa cơ hội, nó ra lệnh cho bọn tay em nhảy qua cướp giật. Mấy chiếc ghe gần đó có thấy cũng không dám chạy buồm tới. Mỗi lần mưa gió là mỗi lần nó đủ tiền bạc ăn xài. Từ ngày yêu Ngọc đến giờ, thỉnh thoảng nó cũng nhớ tới biển khơi, nhưng người đẹp vẫn cầm chân khách giang hồ.

Nàng xem nó như đứa con nít! Và nó bị hạ nhục trong khi biển dậy, sóng gió ầm ầm.

Nó nhận lấy chai rượu của ông già Hai. Men rượu vừa cay vừa chua như vị nước mắt tủi nhục:

- Dạ, cám ơn ông, tôi là đứa con nít. Tôi cứ uống rượu. Con nít mà uống rượu nên mới chịu dại dột.

Nói xong nó gục đầu xuống, ông già Hai trở lên nhà trên, quả quyết một điều gì!

Trời chạng vạng tối. Thằng Tú không muốn chui vô nóp. Nó nhủ thầm:

- Mình nên ngủ trần cho muỗi cắn chơi một bữa. Muỗi đâu dám cắn đứa say rượu. Nếu cắn, muỗi cũng say rồi ghiền rượu luôn.

Nó chợt nghe có tiếng chân người đi phía sau. Rõ ràng là Ngọc.

Không nói một lời Ngọc quay trở vào nhà, trong lúc đó có cái vỏ hộp quẹt rớt ngay trước mặt thằng Tú. Nó hiểu ngay. Trong cái vỏ hộp quẹt, một mảnh giấy khác ghi vắn tắt:

“Anh Tú, em thương anh lắm. Anh đừng hiểu lầm gì hết. Anh dám thề với em không? Tụi mình sống thì đồng tịch đồng sàng, chết thì đồng quan đồng quách”.

Bỗng dưng thằng Tú thấy yêu đời. Mấy chữ “sống thì, chết thì” do người đẹp viết ra khiến nó thèm sống và thèm chết. Người đời thường nói “trường tình biển ái”. Tại sao lúc trước nó dám vẫy vùng trên mặt biển đầy sóng gió mà giờ phút này nó rụt rè khi sóng gió của biển ái tình vừa dậy lên.

Nhanh như chớp, nó theo bén gót cô Ngọc. Ngọc đi thẳng lên nhà trên.

Thằng Tú lách mình, bước vào phòng của người yêu, nhìn dáo dác để tìm hiểu địa thế rồi chui xuống khoảng không gian tối om dưới gầm giường.

Hồi lâu Ngọc vào phòng thay quần áo, vặn tim đèn lên cao. Nàng mở tủ đem giấy mực ra, ngồi xuống chỏi tay lên trán.

Nàng suy nghĩ hàng năm mười phút rồi viết. Lâu lâu, nàng vò mảnh giấy, đốt bỏ.

Nó bò ra, xuất hiện đột ngột:

- Đừng!

Vừa nói nó vừa ra dấu hiệu như ngầm bảo cho người yêu đừng kêu rú sảng sốt.

Ngọc sợ, lại giận. Thằng Tú đem mảnh giấy mà nàng gởi cho nó hồi nãy, chỉ vào mấy hàng chữ, khi đặt lá thơ trên bàn:

- Sống đồng tịch đồng sàng.

Rồi nó áp miếng giấy lên ngực như ngụ ý:

- Mấy lời em nói với anh, cũng là mấy lời mà anh muốn nói với em, đêm nay.

Ngoài cửa có tiếng nói khẽ:

- Ngọc, con còn thức à!

Ngọc chết điếng! Cha nàng đã hay biết rồi chăng? Vô lý, chính nàng còn không dè thằng Tú dám lẻn vào phòng này. Hồi chiều tới giờ, cha nàng đâu có ra phía nhà sau?

- Chưa cha, con chưa ngủ.

Với giọng chiến thắng, ông già Hai nói:

- Con đưa cho cha cái chai dầu gió, cha hơi mệt.

Thằng Tú trợn mắt nhìn Ngọc. Ngọc im lặng quan sát tứ phía.

Ông già Hai nói ôn tồn:

- Ờ, chưa gặp cái chai dầu gió hả? Lát nữa con tìm cho cha. Bịnh của cha không nặng gì đâu!

Nói xong ông già Hai đi nhanh. Nghe tiếng chân của cha rời rạc, nhỏ dần. Ngọc nhìn cái tủ đựng quần áo, mở cánh cửa tủ.

Thằng Tú sực nhớ những mẩu chuyện khôi hài mà từ trước tới giờ nó chưa được hân hạnh đóng vai người trong cuộc. Ông già Hai tằng hắng phía nhà trên.

Không bỏ lỡ cơ hội, nó bước vào trong tủ mà ngồi. Ngọc khép cánh cửa tủ, vặn khóa.

- Chai dầu gió đâu rồi con?

Ngọc nói:

- Dạ đây nè cha.

Nàng mở chốt cửa phòng. Ông già Hai cười.

- Con thức khuya quá vậy! Ủa. Hồi nãy cha nghe con gì chạy sột soạt trong này!

Ngọc run run nói không ra lời. Bàn tay ông già Hai từ từ hạ xuống mặt bàn để giựt mảnh giấy có mấy chữ “đồng tịch đồng sàng, đồng quan đồng quách”.

Ông ta nói:

- Con gì chạy sột soạt?

Ngọc như người mất trí, thấy cái chết gần kề. Cha nàng sắp thi hành thủ đoạn gì đây. Cánh cửa tủ vừa khóa chặt, im lìm.

- Thưa cha con chuột, con chó gì đó!

Tuy ngột thở, thằng Tú cố lắng nghe. Nó nghĩ thầm: “Chết trong này là dại dột. Mình đã từng ngao du trên biển cả. Tại sao mình không lên tiếng?”. Nghe người yêu so sánh với “con chuột, con chó”, nó không kiên nhẫn được nữa. Nó đập mạnh vào cánh cửa tủ. Ngọc đành run tay, mở cửa tủ.

- Thằng Tú đó hả? Tao giết mày?

Thằng Tú nói:

- Giết tại đây à? Ông vô ơn bạc nghĩa quá. Ông không cần dùng đến tôi thì trả tôi ra biển. Tôi muốn đi xa.

Rồi day qua Ngọc, nó cười nhếch mép:

- Con nít, rồi con chó, con chuột. Đồng tịch đồng sàng, đồng quan, đồng quách. Nói láo!

Ông già Hai nói:

- Đừng cãi vã. Bây giờ mày ra ngoài biển với tao. Ở ngoài biển có sẵn mấy chiếc ghe đánh lưới. Mầy cứ giựt một chiếc mà đi cho khuất mắt. Chẳng lẽ tao giết mày tại nhà này cho dơ nền gạch.

Anh bán dưa nhìn về phía ông già Hai:

- Đó thầy thấy chưa, ổng theo dõi, sợ tôi nói xấu chuyện gia đình của ổng cho người khác nghe! Trời phạt ổng! Từ bốn năm nay, ổng ở ngoài chòi đó.

Tôi hỏi:

- Còn thằng Tú, còn cô Ngọc, còn gian nhà ngói?

- Để tôi nói tiếp: ông già Hai dẫn thằng Tú ra sân, nhưng ổng giắt cây dao nhỏ và bén, ở sau lưng. Chừng đến mé bãi, ổng chỉ một chiếc ghe, kêu thằng Tú lên đó mà đi cho biệt tích. Thằng Tú ngỡ thiệt. Dè đâu ổng đâm nó, lúc nó gần tách bến. Hay tin ấy, cô Ngọc phát điên, suốt ngày mở cửa cái tủ áo mà nhìn vào khoảng trống. Rồi hôm đó, cô ta đập tấm kiếng soi mặt, lấy miếng kiếng mà nuốt để tự tử. Ông già Hai sợ quá... Sau khi cô Ngọc chết, ông ta không dám ngủ ở nhà, không dám ra biển. Làm ruộng thì không dám, đánh lưới cũng không dám. Bởi vậy ông xoay qua nghề trồng dưa hấu, mà dưa hấu của ông chẳng bao giờ đỏ ruột.

Tôi từ giã anh bán dưa, đến bên cạnh ông già Hai. Ông ta lắc đầu, nhìn thẳng vào mặt tôi:

- Đời sao khó sống quá. Họ nói xấu tôi. Phải nãy giờ thằng đó nói chuyện con Ngọc với thằng Tú. Nó nói tôi thiếu âm đức. Thầy tin lời nó à? Tôi ngồi ngoài chòi này bốn năm nay rồi chưa đủ sao?

Nói xong, ông trao cho tôi một trái dưa và một cây dao:

- Mời thầy xẻ trái dưa để bói thử. Nếu dưa đỏ ruột, điều ấy chứng tỏ tôi không phải là đứa thất đức, còn nếu dưa màu trắng thì...

Tôi mạnh dạn xẻ trái dưa, thở dài, cố che giấu vì ruột dưa quá trắng. Tôi úp sát hai miếng dưa.

Ông già Hai quay mặt ra biển khơi. Có lẽ ông đã hiểu.

- Sao?

Tôi đáp:

- Ông cho cháu xin trái dưa này. Cháu muốn đem về, lát nữa mới ăn.

- Mà nó đỏ hay trắng?

- Dạ, hơi hơi đỏ, hơi hơi trắng.

- À, thằng Tú, con Ngọc, tụi nó còn báo hại thằng già này. Thôi cảm ơn thầy, thầy đi đi.

- Chuyện có thật sao ông?

Ông già Hai ôm mặt. Gió ngoài thổi lộng. Từng giề rong biển tấp vào bãi. Và trên trời, mây trắng bay. Xác thằng Tú ở đâu? Hồn cô Ngọc ở đâu? Trên chiếc chiếu nào và cái quan tài nào? Chàng nằm trên nệm rong biển và nàng tới lui vẩn vơ trên trời cho đến bao giờ.