← Quay lại trang sách

Người đi đêm

Tôi đến chợ Vĩnh Hưng để thăm người cậu ruột. Từ ba năm qua, vì bận sinh kế nên người một nơi kẻ một ngả. Cậu đón tiếp niềm nở, cầm tôi ở lại:

- Cháu ăn cơm? Tối nay, ngủ đây cho vui. Hổm rày, có chuyện buồn.

Tôi hỏi:

- Dạ, chuyện gì?

Cậu tôi im lặng hút thuốc liên tiếp. Lát sau mâm cơm dọn lên. Tôi ngồi ăn. Cậu cầm đũa gắp cái chân gà, nhậu rượu đế.

Đồng hồ trên vách thong thả điểm chín tiếng. Bỗng dưng Ngọc - con gái của cậu tôi - từ nhà bếp đi rón rén tới kéo ghế ngồi bên cạnh tôi rồi run run cầm đũa.

Cậu tôi lườm Ngọc:

- Mới ăn hồi chiều, bây giờ còn đói nữa sao?

Ngọc bẽn lẽn, giọng uất ức:

- Dạ, chín giờ rồi.

Cậu tôi thở dài:

- Mọi khi chừng này nhà cậu đóng cửa ngủ. Chợ Vĩnh Hưng buồn lắm. Cháu tới thăm cậu dịp này...

Ngọc cúi mặt như muốn giải thích điều gì.

Nàng liếc nhìn lên chiếc đồng hồ, kéo ghế đến sát cạnh tôi rồi gục đầu, đưa hai tay che mặt.

Cậu tôi gắt:

- Ngọc “điên” rồi hả? Riết rồi nhà này chẳng còn thể diện gì hết.

Rồi day qua tôi:

- Lát nữa cháu thấy.

- Dạ, chuyện gì vậy cậu?

- Khó cắt nghĩa lắm.

Ngoài sân có tiếng nói lao xao. Tôi muốn tìm hiểu sự thật Ngọc sợ nỗi gì? Đây là chợ Vĩnh Hưng, tuy là chợ làng nhưng tấp nập, có an ninh trật tự. Trong bóng tối, đôi ba chục người sắp hàng dài dọc theo bờ kinh xáng. Họ ở trần, mặc quần ngắn. Lại còn thêm những ông già bà cả gần đất xa trời. Một ông lão khoát tay. Bọn người nhìn nhau rồi đồng hè ngồi xuống.

Tôi hỏi cậu tôi:

- Họ làm gì, như là bao vây nhà mình vậy?

Cậu tôi vặn tim đèn xuống rồi nói:

- Ngọc! Con dọn cơm xuống bếp. Rần rật như vầy, ăn uống làm sao được?

Tôi hỏi:

- Ai rần rật? Họ toan hành hung đập phá à! Để cháu ra sân xem thử.

- Úy, không nên.

Ngoài sân tiếng xôn xao nổi lên, bàn cãi qua lại:

- Thẩy tới kìa!

- Đừng lớn tiếng. Rủi bề gì, thường nhơn mạng!

Không kiên nhẫn được nữa, tôi chạy ra đường cái. Từ xa, một người tiến tới. Hắn che cây dù, đi khoan thai dưới bầu trời không có mưa, kỳ dị hơn nữa là hắn ở trần, mặc quần đùi. Tôi chợt hiểu:

- Thằng điên!

Nhưng mấy người ngồi sắp hàng bên lề đường vội vã khoát tay như ra lệnh cho tôi giữ im lặng:

- Nó không điên đâu!

Tôi vào nhà, nói với cậu tôi:

- Tại sao lại sợ thằng điên đó? Nó xách cây dù chớ nào phải súng ống dao búa. Cậu đóng cửa lại là xong.

Vẻ sầu thảm hiện trên gương mặt cậu tôi. Cậu nói:

- Mọi lần cậu đóng cửa. Nó không thèm ghé nhà khác mà chỉ muốn ghé nhà này thôi.

Người nọ dừng ngay ngoài sân, sập cây dù xuống. Tôi nhìn kỹ. Hắn như chẳng cần chào hỏi đáp lễ, mặc dầu tôi chào hắn trước.

Hắn nói lảm nhảm:

- Mưa gió, mặc cho mưa gió. Rồi hắn quỳ xuống đất:

- Ngọc ơi! Đêm nay em ngủ yên không? Trời lạnh lắm. Em có đắp mền cho kín không? Coi chừng ho đó em. Em đành lòng nào im hơi lặng tiếng? Anh thề ở đây hoài, chờ em cho đến xế chiều.

Nghe qua, tôi tự cho rằng mình đã am hiểu tình thế. “Hắn” mang bệnh thần kinh, gọi nôm na là bệnh “mị” theo khoa học gọi là “mộng du”. Thay vì nằm chiêm bao trên giường thì hắn đi, mắt mở trao tráo nhưng chẳng thấy chung quanh, cứ sống trong thế giới riêng. Hắn tưởng là hừng sáng nên chờ khi xế chiều. Như vậy có nghĩa là hắn ngồi chầu chực trước sân suốt đêm nay!

Tôi nói với cậu:

- Mình đóng cửa lại là xong.

Cậu tôi lắc đầu:

- Khó lắm, hắn sẽ tự tử, nhảy xuống rạch!

- Dễ quá! Mình nhờ bà con coi chừng, đưa hắn hoặc bắt trói, khiêng hắn đem về nhà.

- Mình mẩy hắn lạnh ngắt, rủi hắn đứt hơi thở thì sao?

Hắn bước đến bực tam cấp nhà cậu tôi, để cây dù ngoài sân, rồi dậm chân như chùi cho sạch. Hắn nói:

- Mưa hoài, chân tôi dính bùn. Xin bà con cảm phiền.

Hắn vào nhà. Lần này tôi lắng tai nghe kỹ: Hắn ngáy ngủ đều đều. Mắt hắn cứng ngắc như đôi mắt vẽ trên pho tượng bằng cây mà bọn phù thủy dùng làm ông tướng.

Tôi kéo ghế:

- Anh bạn ngồi đây cho khỏe!

Cậu tôi lắc đầu:

- Nó đâu có nghe mà hòng nói chuyện với nó?

- Đừng la lớn. Nó té sấp rồi nhập hơi thổ, mắc nhân mạng cả đám bây giờ.

Đúng như lời, hắn chép miệng, đôi mắt mơ màng, rồi trong một thoáng liếc vào phía cửa buồng.

- Ngọc ơi! Vì em mà anh xông pha nơi mưa gió.

Vừa nói hắn vừa đặt chân lên bộ ván gỗ đi tới đi lui, tưởng như bộ ván là mặt đất.

Người hiếu kỳ bao vây quanh nhà. Họ đưa ý kiến:

- Sao cô Ngọc không ra cho hắn gặp mặt?

Bây giờ tôi mới vận dụng tất cả sự hiểu biết của mình để tìm ra một lối thoát cho gia đình. Ngọc đã lớn tuổi, nếu nàng ra ăn nói, giả vờ đóng vai người tình nhân của thằng điên thì dư luận sẽ ra sao? Đời Ngọc kể như tàn tạ, ai dám hỏi nàng làm vợ? Tôi nói to:

- Ờ, anh về đi. Cám ơn anh có lòng tốt tới thăm viếng em.

Hắn nhảy nhót như đứa trẻ:

- Ngọc đoái tưởng đến anh rồi hả?

Khách bên ngoài cười ầm lên vì chàng điên si tình kia chẳng phân biệt được giọng nói ồ ề của tôi với giọng dịu dàng của Ngọc! Và hắn chẳng buồn, day lại trách mắng cử tọa.

Được trớn tôi nói tiếp:

- Anh về đi. Sáng mai em đến thăm anh.

Ngọc nói khẽ:

- Hắn tên là Thuận. Tại sao sáng mai? Anh nên nói ngược lại chớ!

Tôi nói to:

- Anh Thuận đừng buồn, tối này tôi đến thăm anh.

Hắn múa tay:

- Nếu vậy thì đời anh hạnh phúc như kẻ lên trên mây rồi hả em? Nhớ tối nay. Anh chờ.

Tôi đáp:

- Chào anh. Anh về cho sớm kẻo trời mưa.

Hắn mỉm cười, rút trong túi đem ra một cái lược, chải đầu, trợn trợn mắt nhìn vào tấm kiếng bên vách.

Xong xuôi hắn đáp vơ vẩn:

- Đời ta như trên mây.

Đến cửa hắn cầm cây dù giương lên để che trận mưa trong tưởng tượng. Bây giờ ai nấy bước ra xa như để nhường bước cho kẻ anh hùng.

Tôi nói khẽ với cậu tôi:

- Đuổi nó ra kiểu đó được không cậu? Cậu nên đóng cửa lại, kẻo nó trở lại một lần nữa. Tôi đóng kịch không quá tệ.

Ngọc chạy tới bên tôi ngỏ lời trách mắng:

- Anh nói bậy nói bạ quá!

- Nhưng thiên hạ hiểu hoàn cảnh của em. Chuyện rõ như ban ngày. Chính anh tình tứ với hắn mà!

Cậu tôi chẳng đưa ra ý kiến nào hết. Người ngoài đường xì xào:

- Hồi nãy nó thấy trời mưa, nó vui sướng như kẻ “lên mây”. Chết cha. Phen này mới lên ruột, mới có “nhơn mạng”.

Cậu tôi ra sân thay vì đóng cửa. Tôi đứng ngơ ngác, chưa hiểu tài ngoại giao của mình thất bại ở điểm nào? Ngọc cũng ra sân. Bóng tối lan tràn. Đám người hiếu kỳ trở lại bờ rạch rồi ngồi xuống như tuân theo một hiệu lệnh chung.

Họ ngóng lên nóc nhà của cậu tôi.

Bây giờ tôi mới rởn tóc gáy, hiểu rõ hai tiếng “lên mây” của hắn. Hắn trèo lên ngay đỉnh nóc nhà từ bao giờ, tay này nắm cây dù che khỏi đầu, tay kia đánh “đồng xa”, hai chân chạy thoăn thoắt. Đến gần đầu tường, hắn dừng lại đưa một chân ra ngoài khoảng không tưởng chừng như hắn sắp té tan xương nát thịt. Nhưng hắn vẫn đứng vững như trồng, đưa tay lên sập cây dù, đặt xuống nóc nhà.

Rồi như pho tượng bằng đồng đen, đen hơn nền trời không trăng, hắn co tay, làm động tác hô hấp kiểu Tây phương. Ghê quá! Bây giờ tôi thấy hắn tài tình hơn kẻ đi dây trong buổi hát xiệc. Hắn đứng rất lâu, cười ha hả, rồi tuột xuống, ra mé rạch.

Tôi nhanh chân chạy theo, cậu tôi cản lại:

- Để cho nó về ngủ, đêm nào nó cũng hát xiệc một trận như vầy! Nhàm lắm rồi! Để nó về ngủ cho gia đình này khỏi mang tai tiếng.

Tôi đáp:

- Thưa cậu, tại vì nó “ngủ” nên mình mang tai tiếng. Cháu phải theo dõi để trừng trị khéo léo, cho nó “thức, thức mãi mãi”!

Hừng sáng hôm sau, tôi tìm hiểu thêm về lý lịch người điên ấy. Hắn tên là Lý, làm giáo viên tư thục, học đến sơ học, gia đình khá giả nhờ của phụ ấm, còn sống độc thân. Khi tôi đến thăm thì hắn còn ngủ dưới gầm giường. Đứa ở nói:

- Lát nữa, thầy tôi mới thức.

Tôi ngồi uống nước trà. Hồi lâu, nghe đồng hồ gõ chín tiếng.

Có tiếng ngáp dài như khoái trá. Tôi hỏi đứa ở:

- Thầy giáo thức rồi đó. Em mời thầy ra đây nói chuyện chơi!

Đứa ở trố mắt:

- Khó lắm. Bây giờ thầy tôi chẳng muốn nói chuyện với ai cả!

Cửa phòng vụt mở, giáo Lý ra nhà bếp, sau khi chào tôi. Hắn chải tóc, rửa mặt, thay quần áo rồi đi vụt ra ngoài cổng.

Tôi nhắc chừng đứa ở:

- Mời thầy vô đây!

Nó lắc đầu:

- Tôi không dám. Vì thầy ưa làm công chuyện riêng. Mà ông theo dõi thầy tôi làm gì? Thầy tôi hiền lắm. Tội nghiệp! Thầy làm toàn những chuyện hiền từ.

Tôi thuật lại chuyện thầy giáo Lý đến thăm Ngọc đêm rồi và trò hát xiệc của thầy trên nóc nhà.

Đứa ở mỉm cười:

- Thầy tôi chưa làm việc gì hại cho ai cả.

Rồi đứa ở kể thao thao bất tuyệt cho nghe vài thành tích lẫy lừng, thơ mộng của thầy Lý: Phen đó thầy ôm sách vở, nói là để vào lớp học nhưng đi biền biệt đến sáng hôm sau chưa thấy về. Cả vùng chợ Vĩnh Hưng náo động lên. Học trò tha hồ trửng giỡn. Ông giám đốc tư thục bèn “cớ” cho nhà cầm quyền hay biết. Cha thầy giáo bèn mướn mấy anh thợ chài để bủa lưới, lặn hụp dưới rạch Vĩnh Hưng, họ gặp toàn là cá, tôm. Mấy ông chủ tàu đò lắc đầu. “Chẳng bao giờ thấy thầy giáo Lý xuống tàu cả”. Dè đâu lúc đó thầy ngồi ngủ trong một bụi tre gai tận ngoài bờ ruộng.

Tôi chận lời:

- Bị ma giấu chớ gì? Thầy ta giả bộ điên khùng để che mắt thiên hạ.

Đứa ở vội thanh minh:

- Xin ông đừng nghĩ oan cho thầy tôi. Thấy tại trận một lần ông mới hiểu rõ. Thầy tôi ngồi ở tuốt chính giữa bụi tre gai. Ai nấy xúm lại coi, chẳng hiểu thầy tôi làm cách nào chui vào cho được trừ phi có thánh thần giúp đỡ. Phải dùng dao búa và câu liêm chặt gai rồi mời thầy tôi về. Gần đây, thầy tôi ưa thức đêm, tới lui thăm viếng cô Ngọc như ông thấy.

Tôi hỏi gắt:

- Thầy Lý si tình hay mang chứng bịnh đặc biệt! Có lẽ thầy nằm chiêm bao, thấy người bạn mời du lịch.

Đứa ở lấy tay che miệng:

- Ban đêm thầy đọc sách rồi viết sách. Tôi là đứa ở làm sao dám hỏi công việc riêng của chủ. Có bận đó, thầy tôi trốn biệt suốt hai ngày ở ngoài bãi tha ma đói rã ruột, thầy tôi vẫn cười mà nhai suốt từng cục đất sét. Có lẽ ai rủ thầy tôi đi ăn giỗ.

Cậu tôi đi ngang qua, lên tiếng:

- Cháu về nhà nghỉ, lát nữa ăn cơm. Hơi đâu mà lo chuyện thiên hạ. Thằng nhỏ này đâu phải thầy bùa hoặc bác sĩ?

Tôi cáo từ, hẹn trở lại. Cậu tôi nói:

- Cháu về trước đi, cậu đi chợ mua thêm miếng thịt quay.

Ngọc đứng sẵn ngoài ngưỡng cửa, vui tươi hơn bao giờ hết. Nàng hỏi:

- Anh ở nhà thầy Lý?

- Ờ, khó hiểu quá. Thầy ta khéo sắm một đứa ở. Thằng nhỏ đó cũng bí mật như thầy ta. Không khéo hai thầy trò phát điên.

Ngọc vào nhà:

- Anh vô đây.

Rồi nghiêm mặt:

- Chừng nào anh về? Anh có gặp ba tôi ngoài chợ không?

Tôi đáp:

- Đúng ra lát nữa tôi về nhưng tối nay tôi phải ở lại theo sát thầy Lý.

Ngọc thở dài:

- Anh nên về là hơn, đừng làm khổ những người đã khổ.

Tôi nói gắt:

- Ai khổ? Thầy Lý à? Hắn gieo nỗi khổ cho bao nhiêu người khác. Ngọc chẳng nghe dư luận bên ngoài sao?

Ngọc cúi đầu:

- Người khổ là thầy Lý mà cũng là em.

Rồi nàng cúi đầu, vào phòng, ngoắt tay như bảo tôi vào. Nàng mở cái hộp bằng thiếc, trong hộp có ba bốn phong thư rồi mỉm cười.

Như chợt tỉnh giấc mơ, tôi hỏi nhanh:

- Thế là Ngọc yêu thầy ta?

Ngọc đáp:

- Yêu thì không hoàn toàn yêu nhưng anh Lý làm thơ giỏi lắm. Thơ lục bát, thơ bát cú có vần có điệu. Rất tiếc em khó lòng cho anh xem.

Tôi giựt một phong thư màu xanh trong tay Ngọc, Ngọc toan chận lại nhưng lẩm bẩm:

- Anh đọc thử. Đừng cười, tội nghiệp ảnh.

Trong phong bì có miếng giấy màu tím và mấy chữ:

“Em Ngọc! Sáng nay anh bận rộn quá không biết viết gì hơn. Anh xin tặng em hai câu này, tuy là thơ xưa nhưng hay lắm. “Ngọc xem trang trọng khác vời, khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”.”

Ngọc chụp bức thơ, giành lại:

- Anh Lý đâu phải điên khùng như thiên hạ lầm tưởng. Anh mắc bịnh mộng du, thiên hạ nói vậy nhưng em chưa tin. Ảnh thỉnh thoảng đến đây, che dù, rồi bí mật nhét lá thư ở dưới chậu kiểng, chỉ riêng em mới thấy. Đó là mưu trí.

Tôi đáp:

- Cô này lẩn thẩn quá. Không chừng cô bị truyền nhiễm tật mộng du của hắn!

Ngọc chạy xuống nhà bếp vừa chiên cá vừa nói:

- Em thì chắc ắt lẩn thẩn. Như anh, như tất cả xóm này mới là kẻ bị truyền nhiễm.

Rồi Ngọc trợn mắt. Trong một thoáng, tôi thấy đôi mắt nàng trợn trắng, đứng tròng giống hệt mắt của giáo Lý. Nàng nói:

- Người ta làm gì thây kệ người ta. Mấy người sao cứ tò mò hoài? Xóm này, có mấy thằng con trai nó mê tôi, nó không biết làm cách nào để gởi thơ cho lọt. Tụi nó ức rồi nói xấu, gẫm đi gẫm lại, tụi nó dại dột hơn anh Lý.

Vài năm sau tôi trở lại. Ngọc và Lý đã thành chồng vợ và sanh được một con. Cha mẹ thầy Lý giúp tiền bạc, xây cho ngôi nhà ngói. Lý vẫn ngâm thơ. Ngọc nói cho tôi rõ: Chồng nàng đã hết chứng mộng du nhờ đi nhà thương Chợ Quán, bác sĩ cho uống thuốc đặc biệt. Trước đó có rước mấy ông đạo ở Bảy Núi tới, điều trị không xong. Nhưng tôi nghi ngờ quá. Giáo Lý đi guốc, hai chiếc hai thứ quai khác nhau, một chiếc của anh ta, một chiếc của Ngọc. Lâu lâu anh ta vỗ về thằng bé: nó ngủ mơ màng nhưng đôi mắt mở trao tráo, để thách thức những kẻ ngủ nhắm mắt, khác với nó.

- Thế gian này, ai thức? Ai ngủ?