← Quay lại trang sách

Qua hiệu sách

Thi sĩ và kẻ trộm có một điểm giống nhau: ở bất cứ nơi nào, họ cũng tưởng như là đang ở nhà của họ.

(Honoré de Balzac)

Như thường lệ, sáng hôm ấy Huệ đến trước cửa hiệu sách Hoa Hồng từ hồi bảy giờ năm chục phút.

Đúng bảy giờ năm mươi lăm ống khóa bắt đầu khua động. Cánh cửa sắt rít lên, xếp lại, chừa đủ khoảng nhỏ để thân hình mảnh mai của Huệ lách vào trong. Suốt đêm mấy ngọn đèn nê ông vẫn để sáng, giữa tủ kiếng mấy bộ sách bách khoa in màu, chiếu ngời đủ ánh xanh, đỏ, tím, vàng. Trên bìa sách láng bóng, hình mấy con cọp, sư tử... linh động, nhe răng suốt đêm. Các nữ minh tinh vẫn cười duyên, không bao giờ ngủ, ở bìa trước và mặt sau tạp chí điện ảnh.

Chiếc đồng hồ trên vách ghi bảy giờ năm mươi tám phút. Chị lao công lau chùi nền gạch đã xong. Bà chủ hiệu Hoa Hồng đi dép xuống thang lầu tỏ vẻ hài lòng vì Huệ đã đến đúng giờ. Trong khi bà đi rảo một vòng quan sát các tủ kiếng, Huệ cố sức bình sanh đẩy mạnh cho hai cánh cửa sắp xếp gọn gàng. Bà chủ ngồi trên chiếc ghế nhỏ, ngay tủ tiền rồi gắt giọng với người lao công:

- Này chị bếp.

- Dạ, thưa bà...

- Lên bảo cô Hai xuống đây coi chừng trộm. Chừng giờ này đã quá tám giờ rồi mà còn ngồi trang điểm! Mùa tựu trường, lát nữa khách đông lắm, mỗi năm có một tháng tựu trường...

Huệ cầm cây chổi lông gà, tới lui quét bụi ngoài tủ. Thỉnh thoảng, nàng liếc nhìn ra đường. Người qua kẻ lại còn thưa thớt trên hè phố.

Đúng tám giờ, cô Hai mặc áo dài tím, đi chậm rãi đến tủ tiền, ngồi thay thế cho mẹ đang ăn điểm tâm.

- Con thức từ nãy giỡ, lúc chị bếp lên gọi, con đang ăn sáng.

Trước khi trở về từng lầu trên, bà chủ căn dặn lần chót:

- Con phải cẩn thận. Thừa lúc đông khách, bọn bất lương ưa lẻn vào ăn cắp sách. Hồi hôm qua, ở tiệm X, có đứa bị bắt quả tang đang đánh cắp bộ sách giá hai trăm đồng.

Cô Hai ngạc nhiên:

- Rồi giải nó ra tòa chớ? Bọn đó là ai vậy mẹ? Hèn chi hồi tháng trước, thỉnh thoảng tiệm mình cũng mất vài quyển sách, vô lý. Thôi mẹ yên tâm. Ở dưới này, con và Huệ cố gắng xem trong xem ngoài.

Sau khi bà chủ đi khuất, bầu không khí trở nên thân mật, dễ chịu. Huệ và cô Hai vốn là bạn thân hồi còn học trường Gia Long, giữa hai người tuy là kẻ chủ, người làm công nhưng mối tình bạn ngày xưa còn thắm thiết.

Huệ hỏi cô Hai:

- Làm thế nào mình nhận ra kẻ ăn cắp sách được? Mỗi ngày, hàng ngàn người ta vào lựa chọn, một mình em đâu đủ sức theo dõi... Hơn nữa đó là vấn đề xã giao, mình cần chiêu hàng.

Cô Hai đáp:

- Nghe cô Y thuật lại thì chúng nó ăn mặc sạch sẽ, còn sạch sẽ hơn đa số học sinh. Lúc vào tiệm chúng mang theo một cái “classeur” bìa cứng bên trong để sẵn vài quyển sách. Chúng giả vờ chọn lựa, rồi thừa lúc người trong tiệm không chú ý, đưa một vài quyển sách vào trong “classeur”. Đâu đó xong xuôi, chúng bình thản bước ra.

Đôi mắt Huệ sáng lên:

- Tài thật, nhứt định là chúng đánh cắp những quyển sách đặt trên kệ, cao ngang ngực... Vậy thì từ nay về sau em chú ý những chàng mang “classeur” vào tiệm...

- Em đã có ý nghĩ không tốt rồi đó. Suy luận như em, tiệm mình sẽ bị ế khách. Cứ để họ tự do lựa chọn.

- Em chưa hiểu làm cách nào. Em mới tập tành nghề này.

- Còn nữa... Lắm khi chúng vào tiệm với một quyển sách trơn, cầm trên tay. Tức quá! Phen đó chị nghi nhưng rốt cuộc chị vẫn bắt không được... Hắn tỏ vẻ lương thiện, mới bước vào tiệm là đặt quyển sách của hắn ở kệ sách phía ngoài, rồi với tay không, hắn vào mấy tủ kiếng phía trong, lựa chọn đôi ba phút hoặc lâu hơn nữa, lúc ấy chị quên chú ý. Thế rồi hắn trở ra, liếc nhìn chị rồi xin lại quyển sách mà hắn gởi khi mới bước vào. Chập sau, thì chị mới biết là hắn đã ăn cắp một quyển sách. Huệ biết hắn làm cách nào không?

Huệ ngạc nhiên:

- Hắn là một tay ảo thuật em chịu thua.

- Thì hắn lấy luôn quyển sách đặt dưới quyển sách của hắn. Thay vì lấy một cuốn, hắn nhanh tay kèm thêm một cuốn nữa rồi bước ra khỏi cửa, đi lẫn vào đám đông lập tức.

Câu chuyện đang vui vẻ, sôi nổi bỗng nhiên cô Hai dịu giọng... Năm ba khách hàng lần lượt bước vào, kẻ tìm sách học, người lật mấy tờ tạp chí Âu Mỹ để xem hình. Không muốn lợi dụng tình bạn, Huệ trở lại địa vị người làm công: nàng định áp dụng những lời chỉ dạy của cô Hai. Nhưng khi nàng vừa quay mình, cô Hai cản lại:

- Ở đây nói chuyện chơi. Mình đừng quá theo dõi khách hàng, họ không thích, cho rằng lối tiếp đãi của chúng mình kém nhã nhặn. Để họ tự do lựa chọn mà! Nên tránh cái thái độ tò mò... Mình đâu là thám tử, phải không Huệ? Nhưng kìa... Huệ xem ra đường, cái anh thắt cà vạt tím...

Đúng như lời cô Hai. Huệ thấy một người trạc bốn mươi tuổi đang đứng ở sạp bán thuốc lá, ngoài vỉa hè, sát gốc me, cách cửa tiệm chừng vài thước. Trong số người hơi đông đảo, chỉ riêng hắn là thắt cà vạt. Hắn móc trong túi áo một đồng để mua hai điếu thuốc lá.

Cô Hai nói khẽ:

- Huệ hãy xem, nhứt định hắn vào đây, chị đoán không sai mà!

Nhưng sau khi cầm cây nhang đốt thuốc, người nọ đi thẳng.

- Chị đoán sai rồi. - Huệ nói.

Cô Hai mỉm cười:

- Nhứt định ông ta trở lại đây! Chắc là đi qua “coi cọp” ở tiệm sách kế bên.

Huệ vào trong gói sách, ghi phiếu cho vài ông khách, rồi sắp mớ sách cho ngay ngắn. Nàng đang chăm chú lựa vài quyển quốc văn cho khách hàng, bỗng nhiên thấy chiếc cà vạt màu tím bay phất phơ trước mặt... Nàng nực cười, khen thầm sự dự đoán của cô Hai khi nãy. Khi gói xong quyển quốc văn, nàng đem đến tủ tiền. Cô Hai thối tiền, chờ khách bước ra khỏi tiệm rồi nói:

- Đổ đồng mỗi tuần lễ, ông ấy đến “điểm sách” ở tiệm mình chừng mười bốn lần!

Một bài toán hiện ra trong trí của Huệ. Nàng vẫn thắc mắc:

- Mình mở cửa suốt tuần, trừ chiều chúa nhật, tất cả chỉ mười ba buổi thôi.

Cô Hai vẫn cười:

- Ngặt nhiều buổi, ông ta đến viếng hai lần liên tiếp. Huệ hơi khó chịu. Nàng nhận thấy câu nói của cô Hai ngụ ý mỉa mai, tàn nhẫn đối với ông khách vô tội.

- Nếu vậy thì ông ta viếng cả mười lăm, mười sáu! Biết đâu buổi chiều chúa nhựt hoặc lúc hừng sáng, đêm khuya, lắm khi, ông ta đi ngang Hoa Hồng thư quán này, dừng lại đôi phút trước cánh cửa sắt đã khép lại, để “coi cọp” trong tưởng tượng, phải không chị?

Nhờ bản chất ít nhiều thông minh, giàu lòng nhân đạo nên cô Hai cau mày chợt hối hận trong phút giây. Huệ vừa cảm thấy mình vừa đắc thắng, thắng một trận nhỏ. Nàng đã gợi ý cô chủ, gợi khéo léo vài ý niệm luân lý mà cả hai hấp thụ ở nhà trường về sự công bình và lòng nhân đạo. Để cô Hai khỏi nhột nhạt, Huệ quay mặt, đi vào phía trong với sự hãnh diện cỏn con: nàng vừa bênh vực một kẻ vô danh! Rồi với tinh thần vô tư, nàng bắt đầu theo dõi ông khách không bao giờ mua sách nọ. Tuổi của ông cũng tạm xứng đáng cho nàng gọi bằng chú, bằng bác. Ông ta đọc chăm chú tất cả các loại sách Pháp, sách Việt, thơ, tiểu thuyết đến các sách mỹ thuật, hội họa... Sau khi xem vài trang, ông ta cẩn thận xếp sách, sắp đặt ngay ngắn đúng vị trí cũ. Đối với những quyển sách quý, bọc giấy bông, dán kín mít bốn phía, ông ta cũng tỏ ra nhã nhặn, tuyệt nhiên không mó tay vào, nghĩa là chỉ nhìn nó bằng đôi mắt tò mò...

Ngày qua ngày, hình dáng ông khách “coi cọp” trở nên quen thuộc với Huệ, nàng thấy rằng những lời nhận xét của cô Hai đối với ông ta nào có gì quá đáng! Bắt đầu, Huệ bực mình vì con người gan lì, mặt chai mày đá nọ. Nhứt là những buổi sáng vừa mở cửa tiệm là ông ta đã “xông đất”, mở hàng trước. Có lẽ để bù trừ lại, nên nhiều hôm đến tám giờ tối, lúc tiệm gần đóng cửa, ông ta vẫn đứng lầm lì xem nán một trang quảng cáo diễn huyền về dầu thơm hoặc “quần áo phụ tùng” của phái yếu đăng ở trang gần chót các tạp chí Âu Mỹ. Đôi khi, ông vào chớp nhoáng, như giông, như gió, tìm quyển tự điển, lật nhanh, tra vài chữ rồi xếp lại, trở ra, sau khi nói bâng quơ mà không nhìn thẳng vào mặt Huệ hoặc cô Hai: “Cám ơn”. Phiền nhất là buổi sáng chúa nhật, thân chủ quá đông, người ra kẻ vào chen chân khó lọt, vậy mà ông ta cứ đứng mãi mê xem liên tiếp năm sáu trang sách triết học. Thỉnh thoảng ông sờ vào túi, đem thuốc ra hút, phun khói, rồi cau mày suy tư khiến người lân cận ho hen, sặc mũi. Mỗi lần đi qua lại, Huệ đành nói khẽ:”Xin lỗi ông” rồi nàng bĩu môi. Ông thấy lạnh lùng dường như câm, điếc và mù đối với riêng nàng! Quá bực tức, nàng muốn nguyền rủa lên thật to: “Ông nên coi cọp quyển “Phép tắc xã giao” hoặc quyển “Đắc nhân tâm” là hơn. Loại sách ấy, chữ Pháp chữ Việt đều có: “Nhưng rồi thôi, ông khách ra đi tự bao giờ, Huệ nào hay! Quá mười hai giờ trưa hôm ấy, trên đường về, Huệ gặp ông ta lần nữa, đứng lóm thóm chờ xe ô tô buýt, tay cặp mớ sách khá nhiều nhưng mua ở lề đường, gói kỹ lưỡng với thứ giấy báo cũ chớ nào phải loại giấy đặc biệt in rõ ràng nhãn hiệu của một thư quán tăm tiếng...

Mưa gió lê thê từ giữa tháng đến cuối tháng. Mùa bán sách tựu trường hầu như chấm dứt. Ông khách cố cựu vắng bóng ba hôm liên tiếp. Lúc rảnh rang, Huệ đến bên cạnh cô Hai để tán nhảm:

- Chắc ổng bịnh rồi! Cả nhà tôi, già trẻ bé lớn đều bị bịnh cúm, huống hồ là ổng...

Cô Hai như sực nhớ điều gì:

- Hồi hôm qua, lúc Huệ ra nhà sau, ổng lại đến, mua của tiệm mình hai quyển “Phép trị bịnh gà toi”. Nhứt định ổng về quê nuôi gà! Mô Phật! Vái trời cho ổng về luôn.

“Người bê tha lêu lổng như thế ấy mà nuôi gà!” Huệ toan cãi lại nhưng chưa tìm ra lập luận nào cụ thể, vững chắc. Ngoài lề phố, bỗng nhiên, nàng thấy ông ta xuất hiện với chiếc áo sơ mi ca-rô:

- Cô Hai? Ổng kìa! Trời ơi! Bữa nay ổng theo “đợt sống mới”.

Trố mắt, cô Hai buột miệng nói nhanh:

- Ủa ổng thiệt. Ổng đi song song với con Ti bán sách đằng tiệm Hoa Lý. Hay là con Ti cưới ổng mà chưa cho đằng mình hay biết.

Vừa đến tiệm, ông khách cũ đi xăm xăm vào kệ phía trong, lật tới lật lui từng quyển sách mới phát hành và xem qua tất cả các loại tập san, như người đời lâu ngày gặp miếng ăn ngon.

Tại tủ tiền, cô Hai hỏi nhanh, giọng hài hước:

- Cô Ti đi đâu vậy? Có chồng rồi ư?

Ti ngạc nhiên:

- Nói giỡn hoài! Có chồng thì mình gởi thiệp mời đàng hoàng chớ. Để tôi nói phứt rồi trở về tiệm liền bây giờ.

Huệ sốt ruột:

- Chuyện gì?

- Ông khách đó nhứt định đòi mua cho kỳ được mấy bộ Địa Tạng kinh, Phật thuyết A di đà kinh, thêm hai bộ Cao ly đầu hình, Diễn cầm tam thế, sách coi quẻ, coi tử vi.

Cô Hai nói nhanh:

- Ở đằng Hoa Lý hết rồi sao Ti?

Ti trả lời:

- Nhưng ổng đòi mấy bộ kinh in lần thứ nhất do hòa thượng Trí Huệ phát hành đâu từ hồi Bảo Đại mới lên ngôi! Tôi nhớ chắc chắn đằng này còn vài bộ kinh xưa đó, nghe bà chủ nói rằng năm xưa có dự trữ trên lầu chừng hai mươi bộ. Cô tìm thử.

Cô Hai vội vã lên lầu. Dưới này Huệ chăm chú nhìn ông khách... Bất chấp thế sự, ông ta mải mê khảo sát...

Nàng trêu ghẹo Ti:

- Chị có quen ông đó hả?

- Đâu có. Ổng là anh em bạn cũ của ông chủ tiệm tôi, bạn học hồi hai mươi năm trước, hôm nay họ mới nhìn ra được tung tích. Ổng khoe với ông chủ tôi rằng bây giờ ổng nhàn rỗi lắm, ăn no rồi thì đi chơi tối ngày để đọc sách của thiên hạ. Ổng khen với ông chủ tôi về cách tiếp đãi lịch sự, vô cùng nhã nhặn của các cô bán hàng ở tất cả tiệm sách to, nhỏ thuộc đất Sài Gòn! Đó là... “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”.

- Chị Ti bữa nay nói chữ nho nghe điếc con ráy...

- Ổng nói chớ đâu phải tôi. Theo lời ổng thì câu đó nghĩa là “trong sách vở thánh hiền có người con gái tuyệt đẹp”, tức là tinh hoa của tư tưởng nhân loại, hoa thơm cỏ lạ gì gì đó. Nhưng chập sau, ổng nói khẽ với ông chủ tôi: “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc” cũng ám chỉ rằng... ở bất cứ tiệm sách nào cũng có nhiều cô bán hàng đẹp như ngọc, dễ yêu.

Huệ mỉm cười:

- Ổng ghé đây hoài... Té ra ổng... ba mươi lăm, tuổi mùi!

Ti cười còn day lại che miệng, dòm chừng ông khách rồi nói khẽ với Huệ:

- Huệ cưới ổng đi. Tớ gả cho đó! Coi bộ ổng là người biết điều.

Huệ cau mày, đôi má đỏ ửng vì giận dỗi, vì tức cười. Trao thân gởi phận cho con người đáng chú bác kia, thà tự tử còn hơn. Cả bốn điều kiện: đẹp trai, con nhà giàu, sạch sẽ, không ăn cắp vặt... ông ta đều thiếu bảo đảm cả. Nàng nghe ớn lạnh trong xương sống! Một mai, thí dụ như chuyện đời éo le đến mức ấy, chắc Huệ sẽ khổ tâm gấp ngàn lần hơn khi công chúa Huyền Trân nằm chung chăn chung gối với Chế Mân. Dầu sao đi nữa là người đàn ông thì cũng phải lo làm ra tiền săn sóc vợ con. Ai lại như ông ấy! Lười biếng quá!

Cô Hai từ trên lầu vừa xuống thang vừa thổi mạnh vào lớp bụi phủ dày lên bộ Địa tạng kinh. Biết rằng nhiệm vụ trung gian của mình đã làm xong, cô Ti bước nhanh về Hoa Lý thư quán.

Sách đã gói để trên bàn tủ tiền. Ông khách đến hỏi về tiền phải trả. Trong đôi ba phút, mặt của ông và mặt của cô Hai, của Huệ gần kề nhau hơn bao giờ hết.

Hơi ngượng cô Hai nói nhanh:

- Cám ơn ông. Ông mua mấy bộ kinh này làm gì? Toàn là chữ nho không có giảng nghĩa thì làm sao mà hiểu đạo lý?

Ông khách cười mỉm môi rồi nói một hơi dài:

- Tôi mà tu hành gì! Tôi mua dùm người bà con ở lục tỉnh. Tôi nào làm điều gì quá tội lỗi với ai đâu mà cần đi tu sớm! Về già họa chăng đi tu.

Huệ và cô Hai trố mắt, nào dè ông khách “coi cọp” nọ lý sự quá giỏi! Nhưng ông khách ngỡ rằng hai người đẹp đang hiểu lầm.

Ông tiếp tục thanh minh:

- Thời giờ rảnh rang, tôi đi dạo đó đây, hết ngồi quán cà phê thì đi rảo từ tiệm sách này qua tiệm sách nọ. Âu cũng là một cách giải trí lành mạnh.

Cô Hai nghĩ thầm: “Ông này quên rằng tiệm Hoa Hồng do tư nhân sáng lập, hàng tháng phải trả tiền đèn, tiền phố, tiền nhân công”. Như thông cảm nỗi thắc mắc chính đáng của cô, ông ta giải đáp:

- Ở thư viện công cộng được ngồi ghế, sách nhiều thật nhưng mình có cảm giác sống trong tháp ngà. Coi sách ở tiệm mặc dầu đứng mỏi chân nhưng mình thấy ấm áp, gần hơi thở của cuộc đời, của nam thanh nữ tú.

Ông ta tiếp tục nói, công khai thú nhận rằng việc xem sách cọp ở tiệm là phương pháp luyện chí rất sống động - đó là một nghề nghiệp của ông. Rồi đặt vào địa vị của một chủ tiệm sách, ông ta không ngượng miệng dạy bảo cô Hai và Huệ như dạy bảo người làm công mới tập sự cho ông ta:

- Bán sách là chức vụ cao quý. Lúc rảnh rang cô hãy đọc sách, ít nhứt là đọc qua tựa sách. Xin lỗi, bứt mây động rừng, tôi xin kể lại câu chuyện: Hôm đó, tôi vào tiệm sách đó, chợt nghe một thân chủ bước vào hỏi cô bán sách để tìm quyển “Mái Tây”. Cô bán sách vào trong, lục lạo suốt năm ba phút rồi trở ra nói thản nhiên: ở đây không có “Mái Tây” chỉ có quyển sách dạy về “Mái dầu cặn”, “Mái trăn-si-to”.

Cô Hai chận lời:

- Dạ tôi biết quyển Mái Tây tức là Tây Sương Ký do Nhượng Tống dịch, áng văn bất hủ của Trung Hoa.

- Thật vậy à? - Ông khách hỏi nghiêm nghị.

- Dạ thật chớ, trong Mái Tây có nàng Thôi Oanh Oanh yêu chàng Trương Quân Thụy - Cô Hai đáp.

Đằng kia bà chủ bước xuống thang. Bỗng dưng bà đứng lại cau có chưa hiểu vì sao Huệ đứng bên tủ tiền với ông khách nọ trong khi hàng chục thân chủ khác đang ngơ ngác tìm kiếm người trong tiệm để hỏi han về các loại sách mà họ chưa tìm ra.

Biết giờ phút nguy ngập đã đến, Huệ nói nhanh:

- Cảm ơn ông. Thỉnh thoảng mời ông ghé viếng chúng tôi.

Huệ bước nhanh vào trong. Tuy cầm quyển Địa Tạng kinh, Cao ly đầu hình... đã gói xong, đã trả tiền xong nhưng ông khách vẫn nói mơ màng với cô Hai:

- Thì tôi ghé viếng tiệm Hoa Hồng này hoài, quý cô cần gì mời! Tự cổ chí kim, ở nước văn minh nào cũng vậy, bán sách vốn là nghề tao nhã, tôn trọng sự tự do của thân chủ. Đuổi khéo chưa chắc người ta đi. Mời duyên chưa chắc người ta đến. Phức tạp lắm, cô ơi! Tôi biết suy nghĩ lắm. Đây cô còn trẻ quá mà.

Giọng của ông khách ngậm ngùi như giọng đọc bài văn tế. Khách ra đi từ lâu rồi mà nỗi bực dọc của cô Hai, của Huệ vẫn kéo dài như một cơn mưa dai dẳng. Đôi ba ngày sau, năm bảy ngày sau, tiệm Hoa Hồng vắng bóng ông khách nọ, mặc dầu thỉnh thoảng cô Hai và Huệ còn thấy ông ta đi ngang qua, lúc cửa tiệm đang mở thật rộng. Theo dõi thì cô Hai mới hiểu dạo này ông ta ưa lân la đằng tiệm Hoa Lý, nơi cô Ti đứng bán. Đôi khi đi cặp kè với người bạn nào đó, ông để cho người bạn vào tiệm Hoa Hồng một mình. Riêng ông thì đứng ngoài lề phố mà chờ, mặc cho trời mưa lớt phớt ướt áo, thắm xuống đôi vai gầy yếu.

Cô Hai thở dài, lần đầu tiên cảm thấy mình hơi vô duyên, phàm tục, không còn là đề tài đối với một kẻ khác. Kẻ ấy đã gan lì để giữ vững niềm tin bé bỏng riêng tư trong thời khói lửa. Hiệu bán sách có thể là nơi ẩn náu cuối cùng của nhân nghĩa, của tình người.